Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

đề tài charles sanders peirce (1839 – 1914) người sáng lập chủ nghĩa thực dụng mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.3 KB, 10 trang )








Nghiên cứu triết học

Đề tài:" CHARLES SANDERS PEIRCE
(1839 – 1914) NGƯỜI SÁNG LẬP CHỦ
NGHĨA THỰC DỤNG MỸ "





CHARLES SANDERS PEIRCE (1839 – 1914) NGƯỜI SÁNG LẬP CHỦ
NGHĨA THỰC DỤNG MỸ

NGUYỄN VĂN HÙNG (*)



Charles Sanders Peirce (1839 – 1914) là nhà triết
học, lôgíc học, toán học và tự nhiên học. Nhưng trên
hết, ông còn được thừa nhận là người sáng lập chủ
nghĩa thực dụng Mỹ.
Charles S.Peirce sinh ra và lớn lên ở bang
Massachusetts (Mỹ), trong một gia đình trí thức mà
cha là một nhà toán học có tên tuổi ở Đại học


Harvard. Năm 1885, ông vào học tại Đại học
Harvard và năm 1858 tốt nghiệp trường này. Từ năm
1861, ông làm công việc quan trắc bờ biển Mỹ. Cũng
trong thời gian này, ông kiêm nhiệm công tác giảng
dạy về lôgíc học, về lịch sử khoa học tại Đại học
Harvard (1864 – 1865, 1869 – 1871) và Đại học
Hốpkin (1879 – 1884). Từ năm 1877, ông trở thành
Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học và nghệ thuật Mỹ.
Trong suốt thời gian hơn năm mươi năm vật lộn với công việc nghiên cứu
khoa học và giảng dạy, Charles S. Peirce đã có được nhiều thành tựu xuất sắc
không chỉ trên lĩnh vực triết học, lôgíc học, tôn giáo học, mà cả trên các lĩnh
vực khoa học tự nhiên, như toán học, vật lý học, hóa học, trắc địa học và lịch
sử khoa học. Ông còn có những cống hiến nhất định trong lĩnh vực tâm lý
học, thần giao cách cảm, tội phạm học, Ai Cập học, lịch sử cổ đại và cả về
Hoàng đế Napoleon. Để có được những cống hiến này, ông đã học tiếng
Latinh, tiếng Đức, tiếng Hy Lạp và tiếng Anh cổ. Mặc dù có nhiều cống hiến
như vậy, nhưng khi còn sống, tài năng trên nhiều lĩnh vực của ông lại chưa
được giới học thuật thừa nhận. Mọi cố gắng và nỗ lực nghiên cứu khoa học
mà ông bỏ ra cũng chỉ giúp ông xuất bản được một tác phẩm khi còn sống –
Về vật lý học vũ trụ. Ngay cả yêu cầu chính đáng của ông là được giảng dạy
chính thức tại các trường đại học cũng không được chấp nhận. Khó khăn
trong tìm kiếm việc làm để đáp ứng nhu cầu sống, dù là tối thiểu, đã không
thể ngăn cản nổi việc ông say sưa với sáng tạo lý luận. 27 năm cuối đời sống
trong cảnh thiếu thốn ở một thành phố nhỏ bé – Milford thuộc bang
Pennsylvania, ông vẫn viết mỗi ngày khoảng 2000 từ. Những người láng
giềng sống cạnh ông xem ông như một con người kỳ quặc, khác thường và
gọi ông là “Giáo sư Peirce”, mặc dù chưa bao giờ ông là giáo sư. Ông mất
năm 1914 trong cảnh cô đơn bởi căn bệnh ung thư.
Sau khi Charles S. Peirce qua đời, đầu những năm 20 của thế kỷ XX, di sản lý
luận của ông, bao gồm các bản thảo và bản nháp viết tay, mới lần lượt được

xuất bản. Năm 1923, Tuyển tập triết học của ông được xuất bản. Tập thứ nhất
của tuyển tập này có tên gọi Cơ hội, tình yêu và lôgíc. Từ năm 1931 đến năm
1935, Đại học Harvard cho xuất bản Tập luận văn của Peirce gồm 6 tập và
vào năm 1858, cho xuất bản tiếp tập 7 và 8.
Ngay sau khi được xuất bản, các công trình của Charles S.Peirce đã thu hút sự
quan tâm của đông đảo người đọc trong giới học thuật Mỹ. Nhờ những công
trình này, uy tín của ông ở Mỹ ngày càng tăng và bản thân ông cũng đã được
tôn vinh là người sáng lập chủ nghĩa thực dụng Mỹ. Những luận giải, phân
tích của ông về lôgíc quan hệ, ký hiệu học, về chân lý và ý nghĩa đã được các
nhà chủ nghĩa kinh nghiệm lôgíc, triết học phân tích, ngữ nghĩa học, những
người theo chủ nghĩa thực tại và thậm chí, cả những nhà hiện tượng học, đề
cao và coi ông là người đi tiên phong trong lĩnh vực của mình. Những thành
tựu về khoa học tự nhiên của ông cũng được giới khoa học tán đồng. Sự công
nhận đó của giới học thuật Mỹ đã làm cho Charles S.Peirce trở thành một
trong những người nổi tiếng nhất của giới học thuật Mỹ, thậm chí có người
còn gọi ông là nhà triết học lớn nhất, độc đáo nhất của nước Mỹ. William
James đã coi ông là nhà tư tưởng Mỹ độc đáo của thời đại và cùng với những
người đương thời, nhiều tuổi hơn hoặc ít tuổi hơn ông, như Emerson, Royce,
Dewey, Santayana,… đã mang lại vinh quang cho nước Mỹ trên lĩnh vực tư
tưởng, lý luận. Một số người, khi so sánh ông với G.V Leibniz, đã đặt ông
ngang hàng với G.V Leibniz, bởi theo họ, trong di sản lý luận của cả hai ông
đều có “tính toàn năng” nhưng lại ít có “tính hệ thống” trong tiếp cận khoa
học, mặc dù luôn có “sự phong phú của tư duy đang thai nghén”(1). Nhà triết
học Anh – B.Russell đã ví Charles S. Peirce như “hòn núi lửa đang phun ra
những khối lửa mà ở đó, lẫn lộn cả vàng ròng”(2).
Charles S. Peirce là nhà tư tưởng lớn trên nhiều lĩnh vực, song trong tư tưởng
của ông cũng chưa đựng nhiều mâu thuẫn. Điều này đã gây nên những cuộc
tranh luận sôi nổi trong giới học thuật Mỹ mà ở đó, nhiều ý kiến đánh giá
khác nhau đã được đưa ra. Bản thân Charles S.Peirce cũng nhận thấy những
mâu thuẫn trong tư tưởng của mình và do vậy, trong những năm cuối đời, ông

đã cố gắng để xây dựng một hệ thống lý luận thống nhất, rộng rãi, nhưng
bệnh tật đã không cho phép ông hoàn thành công việc này.
Để xây dựng hệ thống lý luận của mình, Charles S.Peirce đã kế thừa những tư
tưởng mang tính truyền thống trong chủ nghĩa kinh nghiệm Anh, từ Đ.Hium
đến các nhà kinh nghiệm chủ nghĩa cùng thời đại với ông. Không chỉ kế thừa
chủ nghĩa kinh nghiệm Anh, ông còn tiếp thu cả triết học cổ điển Đức, đặc
biệt là chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm của I.Kant. Về lôgíc học, ông tiếp thu
và phát triển lôgíc ký hiệu của những người sáng lập ra lĩnh vực khoa học
này, như G.Boole và A.De Morgan. Tiếp thu và phát triển quan niệm của các
nhà lôgíc này, ông đã coi lôgíc học là khoa học thuần túy hình thức mà ở đó,
có mối liên hệ giữa các ký hiệu. Về lôgíc học, ông còn tiếp thu lôgíc học của
chủ nghĩa tâm lý ở các nhà triết học thuộc trường phái kinh nghiệm chủ nghĩa
và lôgíc học tiên nghiệm của I.Kant. Về lịch sử khoa học, khi nói về vai trò
của khoa học, ông cho rằng, chúng ta không nên biến khoa học thành cái chỉ
biết phục tùng niềm tin, mà nên biến khoa học thành cái phục tùng thực
nghiệm. Ông khuyến cáo chúng ta như vậy, nhưng bản thân ông lại thừa nhận
tôn giáo là lĩnh vực cao hơn và đứng trên khoa học, bởi với ông, “niềm tin
bản năng” luôn xứng đáng với đức tin hơn là kết quả của khoa học”(3).
Nền tảng triết học của Charles S.Peirce là “thuyết sao chụp hiện tượng”
(phaneron – hiện tượng, vẻ bề ngoài) và học thuyết về ba cấp độ cơ bản của
tồn tại và nhận thức mà ông diễn tả bằng ba phạm trù: “Tính thứ nhất” – cấp
độ mà ở đó, sự gặp gỡ giữa tinh thần sáng tạo tự do và hiện thực sẽ tạo ra tính
đa dạng vô tận về tiềm năng ở các “chất lượng có thể có” của những “dự án
thực tại” lý tưởng hay của các hình thức thuần túy. “Tính thứ hai” – cấp độ
tồn tại của các sự vật với tư cách một tập hợp các khách thể riêng biệt và mối
quan hệ của chúng. Và, “Tính thứ ba” – cấp độ “thực tại đích thực”, những
khái niệm phổ biến (các quy luật, các bản chất)(4).
Diễn tả tồn tại và nhận thức theo ba cấp độ này, Charles S.Peirce cho rằng, sự
tồn tại hiện thực là kết quả của “sự can thiệp” của tinh thần vào tính tự phát
liên tục và toàn vẹn của tồn tại, là “sự tách rời” khỏi chỉnh thể đó các sự vật

cùng với những mối liên hệ và quan hệ của chúng, là việc xác định các quy
luật tạo dựng và hoạt động chung của chúng. Còn việc đưa lý tính vào hiện
thực phi lý tính thì được thực hiện trong kinh nghiệm thực tiễn của chủ thể – cái
kinh nghiệm cho phép xác định được những điều kiện để kiểm nghiệm các phán
đoán nhằm hợp lý hóa thế giới và qua đó, đem lại cho thế giới này địa vị là một
thực tại.
Như vậy, có thể nói, cái gọi là “hiện tượng học tinh thần” mà Charles
S.Peirce đã xây dựng nên, ngay từ đầu, đã bao hàm trong nó tính hai mặt. Một
mặt, nó tuân thủ những quan niệm truyền thống của chủ nghĩa hiện thực trung
cổ, khi khẳng định tính hiện thực của những khái niệm phổ biến. Mặt khác,
nó thừa nhận sự tồn tại hiện thực của thế giới đã được nhận thức (tính chỉnh
thể, các khách thể và những mối quan hệ riêng biệt) với tư cách sự tồn tại
không phụ thuộc vào tinh thần nhận thức. Tính hai mặt này trong “hiện tượng
học tinh thần” của Charles S.Peirce không phải là một mâu thuẫn mang tính
hình thức, mà có thể coi đó là vấn đề – antinomi mà luận điểm (hiện thực tồn
tại trước nhận thức) và phản luận điểm (thực tại xuất hiện trong quá trình
nhận thức và được hình thành trong đó) của nó thể hiện ra như là hai mặt của
mối quan hệ biện chứng và như là tính quy định lẫn nhau của mối quan hệ
chủ thể – khách thể(5).
Bản thân Charles S.Peirce cũng nhận ra điều này và ông đã cố gắng tìm cách giải
quyết antinomi đó trong quá trình phân tích và luận giải thực tiễn nhận thức của
chủ thể mà, với việc phóng đại, đề cao đến mức thái quá yếu tố chủ quan của
thực tiễn nhận thức đã đưa ông tới chỗ sáng lập nên một trào lưu triết học mới –
chủ nghĩa thực dụng.
Về cống hiến này của Charles S.Peirce trong lịch sử tư tưởng triết học nhân
loại, chúng tôi muốn lưu ý rằng, mặc dù ông được thừa nhận là người sáng
lập chủ nghĩa thực dụng, nhưng bản thân ông lại không phải là người thực
dụng chủ nghĩa một cách triệt để và thuần túy. Trước thập niên 70 của thế kỷ
XIX, Charles S.Peirce chỉ chuyên tâm nghiên cứu về lôgíc quan hệ. Khi đó,
tư tưởng của ông thể hiện rõ khuynh hướng chống chủ nghĩa tâm lý và bản

thân ông cũng chưa trở thành nhà thực dụng chủ nghĩa. Tư tưởng thực dụng
chủ nghĩa chỉ được ông đưa ra vào những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ
XIX. Năm 1872, lần đầu tiên, ông đưa ra khái niệm “chủ nghĩa thực dụng” và
trình bày những tư tưởng cơ bản, quan niệm chủ yếu của mình về chủ nghĩa
thực dụng trong báo cáo khoa học đọc tại “Câu lạc bộ siêu hình” thuộc Đại
học Harvard. Sau đó, báo cáo khoa học này đã được ông chỉnh lý, bổ sung
thành hai bài viết với tên gọi Xác định niềm tin và Làm thế nào để cho quan
niệm của chúng ta được sáng tỏ và lần lượt cho đăng trên Nguyệt san khoa
học phổ thông (số 11 – 1877 và số 1 – 1878). Hai bài viết này được coi là
những tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa thực dụng của Charles S.Peirce. Sau
này, bản thân Charles S.Peirce còn tiếp tục phát triển thêm tư tưởng thực
dụng chủ nghĩa này của mình. Song, vào những năm cuối thập niên 80 của
thế kỷ XIX, ông chủ yếu dồn sức cho việc xây dựng một hệ thống triết học
rộng rãi với dự định đưa vào đó cả vấn đề bản thể luận, nhưng lại không hoàn
thành, Do vậy, về cơ bản, sự phát triển thêm này không thống nhất với tư
tưởng thực dụng chủ nghĩa mà ông đã đưa ra từ những năm đầu thập niên 70
của thế kỷ XIX và nó cũng không hoàn toàn đồng nhất với tư tưởng của các
nhà thực dụng chủ nghĩa sau ông. Chính vì thế, vào những năm đầu thế kỷ
XX, ông đã nhận thấy việc cần phải tách riêng chủ nghĩa thực dụng của mình
với chủ nghĩa thực dụng của W.James, của F.C.Schiller - đại biểu của trào lưu
thực dụng chủ nghĩa Anh, và thậm chí với cả J.Dewey – nhà triết học thực
dụng của “chủ nghĩa tự do triệt để”. Do vậy, khi nghiên cứu tư tưởng triết học
của Charles S.Peirce, theo chúng tôi, cần phải có sự luận giải chuyên biệt về
những tư tưởng này chứ không nên quy giản một cách đơn thuần về chủ nghĩa
thực dụng.
Thực ra, khái niệm “chủ nghĩa thực dụng” (pragmatism) là khái niệm do
W.James nêu ra lần đầu tiên trong một bài phát biểu đọc tại California vào
năm 1898 với tên gọi Khái niệm triết học và hiệu quả thực tế. Trong bài phát
biểu này, W.James đã đề cập đến “nguyên tắc Peirce” và “nguyên tắc chủ
nghĩa thực tế hay chủ nghĩa thực dụng” của Charles S.Peirce. Bản thân

Charles S.Peirce, trong báo cáo khoa học đọc tại “Câu lạc bộ siêu hình” và cả
trong hai bài viết được chỉnh lý từ báo cáo này, vẫn chưa sử dụng danh từ
“chủ nghĩa thực dụng”. Sau này, ông đã nhiều lần định sử dụng danh từ này,
nhưng cảm thấy ý nghĩa của nó chưa được rõ ràng nên chưa dùng. Mãi đến
năm 1902, khi viết đề mục Từ điển triết học tâm lý của Boune, ông mới sử
dụng danh từ này. Tuy nhiên, cũng vào thời gian này, ông nhận thấy quan
điểm của mình về chủ nghĩa thực dụng đã bị W.James giải thích một cách sai
lệch. Do vậy, để phân biệt với quan điểm của W.James và các nhà thực dụng
chủ nghĩa khác, ông đã sửa đổi danh từ “chủ nghĩa thực dụng” thành “chủ
nghĩa thực hiệu” (pragmaticism) và cho rằng, việc sử dụng danh từ “xấu xí”
này sẽ không bị người khác giải thích sai lệch(6).
Charles S.Peirce xây dựng tư tưởng thực dụng chủ nghĩa của mình dưới ảnh
hưởng của triết học Kant. Ông đã dựa vào quan niệm của I. Kant – quan niệm
coi “niềm tin ngẫu nhiên” tạo nên phương thức thực hiện trong thực tế có tính
xác định là “niềm tin thực dụng”, và những luận điểm mà I. Kant đưa ra khi
giải thích sự khác nhau giữa hai khái niệm “thực dụng và “thực tiễn”, để trình
bày và luận giải quan niệm của mình về chủ nghĩa thực dụng. Tuy nhiên, giữa
Charles S.Peirce và I.Kant vẫn có sự phân biệt về nguyên tắc. I.Kant đưa ra
quan niệm về “niềm tin thực dụng” nhưng lại không phải là người thực dụng
chủ nghĩa. I.Kant hạn chế tri thức nhân loại ở phạm vi hiện tượng, nhưng ông
không phủ nhận khả năng có thể nhận được tri thức có tính phổ biến và tất
yếu của nhân loại. Còn chủ nghĩa thực dụng của Charles S.Peirce thì lại coi
mọi tri thức của nhân loại đều là “niềm tin thực dụng”; rằng tri thức chẳng
qua chỉ là phương tiện để nhân loại xác định niềm tin và biến niềm tin này
thành phương thức hành động. Charles S Peirce cũng mong muốn xây dựng
một hệ thống triết học hoàn chỉnh như hệ thống triết học của I.Kant nhưng lại
không phải là hệ thống của I.Kant. Mặc dù mong muốn như vậy, song ông đã
không thực hiện được mong muốn này. Chủ nghĩa thực dụng của ông không
phải là một hệ thống triết học hoàn chỉnh, mà cũng như các nhà thực dụng
chủ nghĩa khác, trong hệ thống đó không có chỗ cho bản thể luận. Bản thân

Charles S Peirce cũng thừa nhận rằng, chủ nghĩa thực dụng của ông “tự nó
không phải là học thuyết siêu hình, không có ý định xác định bất kỳ tính chân
lý nào của sự vật. Nó chỉ là phương pháp phát hiện từ hiện thực và ý nghĩa
của khái niệm trừu tượng”(7). Ông còn nhiều lần khẳng định rằng, cái quan
tâm chủ yếu của ông là làm cho tư tưởng và khái niệm mà con người đưa ra
có được kỹ xảo và phương pháp rõ ràng. Chính vì vậy mà ông muốn xây
dựng chủ nghĩa thực dụng của mình thành một loại lôgíc khoa học hay
phương pháp luận khoa học để phân tích ý nghĩa của từ, của khái niệm, tư
tưởng hay ý nghĩa của ký hiệu và biến chúng thành phương tiện xác định
niềm tin, phương thức sử dụng hành động để đạt đến mục đích. Do vậy,
phương thức để xác định niềm tin và vấn đề xác định niềm tin trên cơ sở “làm
sạch” khái niệm, tư tưởng đã trở thành bộ phận cấu thành chủ yếu trong chủ
nghĩa thực dụng của Charles S.Peirce.
Chủ nghĩa thực dụng của Charles S.Peirce tuy không phải là một hệ thống
triết học hoàn chỉnh, nhưng những tư tưởng thực dụng chủ nghĩa mà ông đưa
ra vào những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ XIX đã thực sự trở thành cơ sở
lý luận cho sự ra đời của chủ nghĩa thực dụng Mỹ ở những năm đầu thế kỷ
XX và do vậy, ông xứng đáng được tôn vinh là người sáng lập chủ nghĩa thực
dụng Mỹ – một trào lưu triết học có ảnh hưởng lớn không chỉ trong thế kỷ
XX, mà còn cho đến cả hiện nay.r

(*) Thạc sĩ, Giảng viên Đại học Quảng Nam.
(1) Xem: Bùi Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng. Triết học Mỹ. Nxb Tổng hợp
TP. Hồ Chí Minh, 2005, tr.87.
(2) Dẫn theo: Bùi Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng. Sđd., tr. 88.
(3) Xem: Lưu Phóng Đồng. Triết học phương Tây hiện đại, t.II. Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 92.
(4) Xem: Viện Triết học. Triết học phương Tây hiện đại – Từ điển. (Người
dịch: Đỗ Minh Hợp - Đặng Hữu Toàn; người hiệu đính: Nguyễn Trọng
Chuẩn - Đặng Hữu Toàn). Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996, tr. 411.

(5) Xem: Viện Triết học. Sđd., tr. 412.
(6) Xem: Lưu Phóng Đồng. Sđd., tr. 94.
(7) Dẫn theo: Lưu Phóng Đồng. Sđd., tr. 95.


×