Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

“Pháp luật về kiểm soát các hoạt động ma theo quy định luật cạnh tranh việt nam”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.19 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................2
NỘI DUNG.................................................................................................................... 5
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT
HOẠT ĐỘNG M&A TẠI VIỆT NAM.......................................................................5

1.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động M&A..................................................5
1.1.1. Khái niệm hoạt động M&A................................................................5
1.1.2. Đặc điểm của hoạt đợng M&A...........................................................7
1.2. Pháp luật kiểm sốt hoạt động M&A tại Việt Nam......................................10
1.2.1. Hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động M&A tại Việt Nam...........10
1.2.2. Pháp luật cạnh tranh điều chỉnh hoạt động M&A tại Việt Nam.......12
Chương 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH
VIỆT NAM VỀ KIỂM SOÁT HOẠT ĐỘNG M&A VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN..........................................................................................15
2.1. Thực tiễn hoạt động M&A ở Việt Nam thời gian qua...........................................15

2.1.1. Tổng quan hoạt động M&A thời gian qua.......................................15
2.1.2. Thực trạng hoạt đợng kiểm sốt M&A của Việt Nam......................17
2.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi việc kiểm
soát M&A ở Việt Nam.........................................................................................17
KẾT LUẬN.................................................................................................................23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................25

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Cùng với quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, chủ động hội nhập quốc tế, mở
cửa thu hút đầu tư nước ngồi và khuyến khích đầu tư trong nước, hoạt động


M&A (mua bán và sáp nhập) tại Việt Nam đã không ngừng gia tăng. Có thể nói,
M&A đang trở thành một hình thức đầu tư, một kênh tham gia thị trường ngày
càng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngồi nước.
M&A là một cơng cụ nếu biết tận dụng sẽ đem lại những thời cơ to lớn.
M&A mở ra cơ hội cho những chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư để tái cơ cấu, mở
rộng phát triển hoạt động kinh doanh cũng như gia tăng giá trị doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trên giác độ cạnh tranh, hoạt động này tiềm ẩn nguy cơ hình thành
các doanh nghiệp có sức mạnh khống chế thị trường và có thể gây ảnh hưởng tới
mơi trường cạnh tranh. Vì vậy, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều xây dựng
một hệ thống pháp luật riêng biệt nhằm điều chỉnh hoạt động này. Hiện nay, hoạt
động M&A tại Việt Nam được xem xét, điều tiết chủ yếu dưới góc độ của pháp
luật về cạnh tranh theo cơ chế kiểm soát tập trung kinh tế.
Luật Cạnh tranh tại Việt Nam được ban hành ngày 3/12/2004 là văn bản đầu
tiên điều chỉnh trực tiếp về hoạt động cạnh tranh nói chung và hoạt động M&A
nói riêng. Sau hơn 10 năm thực thi, Luật cạnh tranh 2004 đã tạo động lực quan
trọng cho việc phát triển hoạt động M&A ở nước ta. Tuy nhiên, bên cạnh những
tác động tích cực đem lại thì Luật Cạnh tranh cũng còn những hạn chế nhất định
gây trở ngại cho quá trình triển khai trên thực tế và cần được sửa đổi bổ sung
trong thời gian tới.
Với mong muốn đem đến cái nhìn cụ thể về những vấn đề lý luận, pháp lý
liên quan đến hoạt động M&A, đưa ra những phân tích, đánh giá về cơ chế kiểm
sốt M&A dưới góc độ pháp luật cạnh tranh Việt Nam cũng như đóng góp
2


những ý kiến nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật cạnh tranh, tôi đã
quyết định lựa chọn đề tài “Pháp luật về kiểm sốt các hoạt đợng M&A theo quy
định luật cạnh tranh Việt Nam” làm đề tài niên luận của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
Mục đích của đề tài là làm sáng tỏ bản chất, nội dung của hoạt động M&A và

pháp luật cạnh tranh Việt Nam về kiểm soát hoạt động M&A, từ đó đưa ra
phương hướng và giải pháp xây dựng, hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật canh tranh điều chỉnh vấn đề này. Để đạt được mục đích trên , khóa
luận đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Phân tích và đánh giá những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động M&A.
- Phân tích pháp luật cạnh tranh Việt Nam về điều chỉnh hoạt động M&A.
- Phân tích thực trạng pháp luật VN về kiểm soát hoạt động M&A, từ đó đưa
ra những giải pháp pháp lý cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
cạnh tranh trong việc điều chỉnh hoạt động M&A.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Niên luận nghiên cứu và luận giải về hoạt động M&A bằng hệ thống của
pháp luật cạnh tranh Việt Nam. Bên cạnh đó, đưa ra các số liệu thực tế về tình
hình hoạt động M&A diễn ra tại Việt Nam và đưa ra các phương hướng hoàn
thiện pháp luật cạnh tranh Việt Nam trong việc điều chỉnh hoạt động này nhằm
tăng cường hiệu quả kiểm soát, từ đó góp phần xây dựng một môi trường cạnh
tranh lành mạnh, ổn định cho doanh nghiệp.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài.
Niên luận được hoàn thành trên cơ sở sử dụng phương pháp phân tích, tổng
hợp, khái quát hóa, so sánh kết hợp với lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin về
nhà nước và pháp luật; đồng thời quán triệt sâu sắc các đường lối, chủ trương,
3


chính sách của Đảng trong việc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa để giải quyết những mục đích và nhiệm vụ do đề tài đặt ra.
5. Kết cấu niên luận:
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung niên
luận gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về kiểm soát hoạt động M&A
tại Việt Nam.

Chương 2: Thực trạng áp dụng quy định của luật cạnh tranh Việt Nam về
kiểm soát hoạt động M&A ở Việt Nam và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện.

4


NỘI DUNG
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ
KIỂM SOÁT HOẠT ĐỘNG M&A TẠI VIỆT NAM.
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động M&A
1.1.1. Khái niệm hoạt động M&A.
M&A thực chất là một cụm từ viết tắt bắt nguồn từ thuật ngữ tiếng Anh
“Merger and Acquisition”. Ở Việt Nam, do chưa có tài liệu nào trực tiếp đưa ra
định nghĩa cho hoạt động này nên trên thực tế, M&A được hiểu và sử dụng một
cách không đồng nhất, với nhiều cách gọi khác nhau như: “sáp nhập và mua lại”,
“sáp nhập và thâu tóm doanh nghiệp” hay “mua bán doanh nghiệp”, nhưng nhìn
chung cách gọi phổ biến của M&A là hoạt động “sáp nhập và mua lại”, mặc dù
việc sử dụng thuật ngữ “sáp nhập và mua lại” chưa bao quát được đầy đủ bản
chất cũng như hình thức của hoạt động này.
M&A có một lịch sử phát triển lâu đời, có nguồn gốc từ cuối thế kỷ 19 và
đầu tiên xuất hiện ở nước Mỹ, cho đến nay hoạt động M&A đang trở nên phổ
biến và phát triển lan rộng tại nhiều quốc gia và trong nhiều ngành nghề, lĩnh
vực của đời sống. Chính vì vậy, góc độ tiếp cận và phạm vi nghiên cứu về M&A
cũng hết sức đa dạng. Trong phạm vi bài viết này, tác giả xin được bình luận
dưới góc độ pháp lý ( khung pháp lý để thực hiện các giao dịch M&A).
Luật mẫu về cạnh tranh của tổ chức thương mại và phát triển Liên Hợp quốc
(UNCTAD) tại Điều 3 có đưa ra định nghĩa hoạt động M&A là dùng để chỉ
trường hợp trong đó có sự phối hợp hoạt động giữa hai hay nhiều doanh nghiệp
sở hữu chung hợp pháp đối với tài sản đã từng thuộc quyền kiểm soát riêng của
mỗi doanh nghiệp. Những trường hợp nói trên bao gồm cả việc mua lại cổ phần,

liên doanh có tính tập trung và các hình thức mua lại quyền kiểm soát khác như
quyền kiêm nhiệm chức vụ.
5


Trong khi đó, pháp luật một số nước sử dụng những thuật ngữ thuật ngữ
khác nhau để chỉ hoạt động M&A, chẳng hạn như Luật cạnh tranh Canada tại
Mục 91 dùng thuật ngữ sáp nhập để chỉ toàn bộ hoạt động M&A theo đó ghi
nhận rằng:
“Sáp nhập được hiểu là việc mua lại và thiết lập, trực tiếp hoặc gián tiếp,
bởi một hay nhiều người, bằng cách mua lại hoặc thuê cổ phần hoặc tài sản, sự
kiểm soát đối với mợt lợi ích đáng kể trong tồn bợ hoặc mợt phần của hoạt
động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh, nhà cung cấp , khách hàng hoặc người
khác bằng cách kết hợp hay liên kết hoặc bằng hình thức khác [16, tr. 142].
Tại Việt Nam, M&A được xem xét như một hành vi tập trung kinh tế. Theo
đó, Điều 16 Luật cạnh tranh 2004 quy định “M&A là hành vi của doanh nghiệp
bao gồm: Sáp nhập doanh nghiệp; Hợp nhất doanh nghiệp; Mua lại doanh
nghiệp; Liên doanh giữa các doanh nghiệp; Các hành vi tập trung kinh tế khác
theo quy định của pháp luật.”
Tương tự, Pháp luật Pháp cũng coi M&A là hành vi tập trung kinh tế, cụ thể
theo quy định của Điều L430-1, Bộ luật Thương mại Pháp:
“Tập trung kinh tế là việc hai hay nhiều doanh nghiệp độc lập sáp nhập
hoặc hợp nhất với nhau; một hoặc nhiều doanh nghiệp hoặc những người đang
nắm quyền kiểm soát những doanh nghiệp đó tiến hành nắm lấy quyền kiểm sốt
đối với mợt phần hoặc tồn bợ mợt hoặc nhiều doanh nghiệp khác, mợt cách
trực tíêp hoặc gián tiếp, dưới hình thức góp vốn, mua lại tài sản, ký kết hợp
đồng hoặc dưới bất kỳ hình thức nào khác.”
Nhìn chung, các quan điểm về M&A trên thế giới có thể tồn tại những khác
biệt nhất định, song sự phân tách thành các khái niệm mua bán, sáp nhập, hợp
nhất chỉ mang tính tương đối bởi suy cho cùng, tất cả các hoạt động trên đều đi

đến điểm chung về nội dung đó là tạo cho doanh nghiệp mới có một giá trị lớn
6


hơn nhiều lần giá trị riêng lẻ của một doanh nghiệp ban đầu. Cùng với đó, mục
tiêu cuối cùng cần đạt được của hoạt động M&A, đó là việc giành quyền kiểm
soát doanh nghiệp hay một bộ phận của doanh nghiệp, tham gia vào hoạt động
điều hành, quản lý doanh nghiệp ở mức độ nhất định, tức tạo ra sự thay đổi cơ
bản về mặt sở hữu và cách thức điều hành và quản trị doanh nghiệp.
Vì vậy, dù là sáp nhập, hợp nhất hay mua bán thì cuối cùng những kết quả và
lợi ích đạt được đều như nhau. Bởi những điểm chung đó mà chúng ta sử dụng
thuật ngữ Merger and Acquisition, viết tắt - M&A làm khái niệm đồng nhất chỉ
hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua bán. Qua những phân tích trên, có thể thấy,
mặc dù chưa đưa ra được một khái niệm chung thống nhất cho hoạt động M&A
nhưng bằng việc tiếp cận dưới nhiều góc độ sẽ cho chúng ta có được cái nhìn đa
chiều về hoạt động này.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động M&A
 Thứ nhất, chủ thể tiến hành hoạt động M&A chủ yếu là các doanh nghiệp.
Đây là một đặc điểm có tính chất tương đối bởi pháp luật mỗi nước có những
quy định khác nhau về vấn đề này. Trên thực tế có thể nhận thấy, doanh nghiệp
có vị trí đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế bởi đây là một chủ thể có hoạt
động sản xuất kinh doanh phát triển mạnh mẽ, là bộ phận chủ lực tạo ra tổng sản
phẩm trong nước. Khi cạnh tranh trên thị trường ngày một quyết liệt, đòi hỏi các
doanh nghiệp phải dùng mọi biện pháp để có thể tồn tại, đứng vững đồng thời
mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao vị thế và năng lực sản xuất
kinh doanh trên thị trường. Lúc này, M&A trở thành một trong những phương
thức phổ biến được nhiều doanh nghiệp thực hiện. Điều này giải thích tại sao chủ
thể tiến hành các hoạt động M&A chủ yếu là các doanh nghiệp.
Tại Việt Nam, hệ thống văn bản pháp luật về hoạt động M&A còn khá mờ
nhạt, chủ yếu các hình thức M&A được phân tách và quy định rải rác tại nhiều

7


văn bản do đó, vấn đề xác định chủ thể tiến hành hoạt động M&A vẫn chưa có
sự thống nhất. Cụ thể, theo Điều 2 Luật cạnh tranh 2004 thì chủ thể tiến hành
M&A được quy định khá rộng, bao gồm các tổ chức cá nhân kinh doanh, được
gọi chung là “doanh nghiệp” do đó khái niệm “doanh nghiệp” theo cách hiểu của
Luật Cạnh tranh có thể bao gồm: Các Doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo
Luật Doanh nghiệp; Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; Hợp tác xã; Hộ
kinh doanh; Cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập thường xun
khơng phải đăng kí kinh doanh (theo Nghị định 39/2007/NĐ-CP). Trong khi đó,
theo Luật doanh nghiệp 2015 tại Điều 4 quy định “Doanh nghiệp” là tổ chức có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định
của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh.
Trên thực tế, có thể nhận thấy, các thương vụ M&A tại Việt Nam trong thời
gian vừa qua hầu hết được thực hiện bởi các doanh nghiệp. Mặc dù vậy, trường
hợp cá nhân mua bán doanh nghiệp được xem là hoạt động đầu tư của cùng một
chủ thể vì vậy pháp luật cạnh tranh Việt Nam khơng cấm. Do đó, để thuận lợi
trong q trình triển khai thực hiện cũng như vấn đề quản lý của Nhà nước, pháp
luật cần có những quy định cụ thể và thống nhất về vấn đề này.
 Thứ hai, mục đích khi tiến hành M&A.
Khi tìm đến con đường M&A, mỗi doanh nghiệp đều có một động cơ thực
hiện nhất định, có thể vì lý do muốn mở rộng thị trường hoạt động, hay giảm
thiểu áp lực cạnh tranh hoặc tận dụng kinh nghiệm, công nghệ sản xuất của nhau
nhằm hạn chế rủi ro trong quá trình đầu tư. Song dù với động cơ nào thì mục
đích cuối cùng mà các chủ thể tiến hành M&A muốn đạt được đó là giành được
quyền kiểm sốt doanh nghiệp (cịn gọi là doanh nghiệp mục tiêu) ở mức độ nhất
định chứ không đơn thuần chỉ là sở hữu một phần vốn góp hay nắm giữ cổ phần
như hoạt động đầu tư thông thường. Đây là cơ sở quan trọng để các chủ thể này


8


có được vị thế chủ động để tham gia, quyết định các vấn đề quan trọng của
doanh nghiệp mục tiêu sau khi thương vụ M&A hoàn tất.
 Thứ ba, đối tượng của M&A là các doanh nghiệp đã và đang hoạt động
trên thị trường.
Đối tượng của thương vụ M&A là chính bản thân doanh nghiệp. Như đã
phân tích ở trên, một thương vụ M&A luôn gắn liền với việc chủ thể tham gia nó
muốn chiếm được quyền sở hữu hoặc nắm được 1 phần vốn đủ giành được
quyền kiểm soát một doanh nghiệp khác (gọi là doanh nghiệp mục tiêu). Do đó,
những doanh nghiệp mục tiêu này được coi như một loại hàng hóa đặc biệt được
giao dịch trên thị trường và đây chính là đối tượng trực tiếp mà các chủ thể tham
gia hoạt động M&A hướng đến.
Tuy nhiên, cũng phải lưu ý rằng, không phải tất cả doanh nghiệp đều trở
thành đối tượng của M&A mà nó phải đáp ứng được những điều kiện nhất định
do pháp luật quy định. Tùy từng quốc gia, hoặc từng lĩnh vực cụ thể sẽ có những
điều kiện khác nhau để áp dụng đối với các doanh nghiệp tham gia M&A. Chẳng
hạn như tại Việt Nam, chỉ có thể thực hiện một thương vụ M&A (còn gọi là tập
trung kinh tế theo quy định của Luật cạnh tranh) nếu các doanh nghiệp này
không được thuộc với trường hợp tập trung kinh tế bị cấm, hay phải thực hiện
đầy đủ các thủ tục pháp lý nhất định theo quy định của Luật cạnh tranh, Luật
Doanh nghiệp hoặc các văn bản pháp luật chuyên ngành liên quan đến hoạt động
sáp nhập, hợp nhất.
 Thứ tư, hậu quả của hoạt động M&A.
Trên thực tế, hậu quả của một thương vụ M&A thường diễn ra theo hai xu
hướng, hoặc làm chấm dứt hoạt động kinh doanh của 1 bên trong giao dịch
(thường là doanh nghiệp mục tiêu) hoặc có thể hình hành nên 1 doanh nghiệp
mới có quy mô lớn hơn với những sự thay đổi về cơ cấu tổ chức, ban điều hành,
9



lao động, thương hiệu trên thị trường v.v. Điều này đồng nghĩa với việc M&A có
thể làm giảm số lượng doanh nghiệp, tức giảm số lượng đối thủ cạnh tranh trên
thị trường, thay vào đó tạo lập nên các doanh nghiệp có sức mạnh thị trường, từ
đó làm thay đổi tương quan vị thế giữa các doanh nghiệp hoạt động trên thị
trường.
 Thứ năm, các phương thức thực hiện M&A.
Trên thực tế, các phương thức thực hiện M&A hết sức đa dạng. Hoạt động
M&A có thể diễn ra đối với toàn bộ doanh nghiệp hoặc một phần hay một bộ
phận doanh nghiệp, dưới góc độ kinh tế thì M&A được thực hiện bằng các
phương thức sau đây: [15]
(1) Tham gia mua cổ phiếu khi doanh nghiệp tăng vốn điều lệ hoặc đấu giá
phát hành cổ phiếu ra công chúng đủ để tham gia định đoạt quyền sở hữu và
quản trị theo mục tiêu chiến lược của bên mua;
(2) Mua gom cổ phiếu để giành quyền sở hữu và chi phối dưới các hình thức
như: Chào thầu, lơi kéo cổ đơng bất mãn và thương lượng tự nguyện với ban
quản trị và điều hành;
(3) Mua lại một phần doanh nghiệp hoặc tài sản doanh nghiệp;
(4) Hoán đổi/chuyển đổi cổ phiếu - thường diễn ra đối với những công ty có
mối liên hệ chặt chẽ với nhau như trong cùng một tập đoàn;
(5) Mua lại một dự án bất động sản;
(6) Mua nợ - Doanh nghiệp mua nợ trở thành chủ nợ mới và có thể thỏa
thuận để chuyển đổi khoản nợ thành vốn cổ phần và thực thi quyền sở hữu.
1.2. Pháp luật kiểm soát hoạt động M&A tại Việt Nam
1.2.1. Hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động M&A tại Việt Nam.

10



Hoạt động M&A ở Việt Nam vẫn chưa có một khung khổ pháp lý hoàn chỉnh
quy định riêng mà chỉ được điều chỉnh rời rạc và rải rác ở các luật và các văn
bản quy phạm pháp luật khác nhau. Trong đó, các văn bản điều chỉnh trực tiếp
và có ảnh hưởng sâu rộng phải kể đến: Luật Doanh nghiệp, Luật Cạnh tranh,
Luật Đầu tư, các văn bản hướng dẫn thi hành. Ngồi ra, M&A cịn chịu sự điều
chỉnh của các văn bản pháp luật khác như: Bộ Luật Dân sự, Luật Thương mại,
Bộ Luật Lao động... Cụ thể như sau:
Theo Luật Cạnh tranh 2004, M&A được nhìn nhận dưới góc độ là hành vi
tập trung kinh tế, bao gồm: sáp nhập doanh nghiệp, mua lại doanh nghiệp, hợp
nhất doanh nghiệp, liên doanh doanh nghiệp và một số hành vi tập trung kinh tế
khác theo quy định pháp luật; đồng thời đưa ra các quy định nhằm kiểm soát các
giao dịch M&A dựa trên thị phần kết hợp của các bên tham gia.
Luật Doanh nghiệp 2015 : quy định M&A như một hình thức tổ chức lại
doanh nghiệp bao gồm sáp nhập doanh nghiệp (Điều 195) và hợp nhất doanh
nghiệp (Điều 194). Ngồi ra cịn điều chỉnh thủ tục, cách thức chuyển nhượng
vốn góp, mua bán cổ phần; mua lại doanh nghiệp tư nhân, sáp nhập và hợp nhất
doanh nghiệp. Nhìn chung, pháp luật về doanh nghiệp có vai trị làm rõ hơn
những vấn đề về mặt thủ tục pháp lý để hoàn tất các giao dịch sáp nhập, hợp nhất
hay mua lại.
Luật Đầu tư 2014 xem xét M&A là một hình thức đầu tư, cụ thể Điều 24 đề
cập đến hình thức đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh
tế của các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào lãnh thổ Việt Nam và quy định
hình thức, điều kiện và thủ tục tiến hành hoạt đơng này (Điều 26).
Luật tổ chức tín dụng 2010 có quy định việc chào bán và chuyển nhượng cổ
phần của cổ đơng trong tổ chức tín dụng, quy định việc tổ chức lại dưới hình
thức chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi hình thức pháp lý, hướng dẫn quy

11



định này là Thông tư 04/2010/TT-NHNN quy định việc sáp nhập, hợp nhất, mua
lại tổ chức tín dụng (được sửa đổi bởi Thông tư 36/2015/TT-NHNN quy định
việc tổ chức lại tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày 01 tháng 03 năm 2016.)
Bộ Luật Lao động 2012 xác định nghĩa vụ các bên tham gia M&A đối với
người lao động, trong đó Điều 45 quy định trường hợp sáp nhập, hợp nhất, chia,
tách doanh nghiệp, hợp tác xã thì người sử dụng lao động kế tiếp phải chịu trách
nhiệm tiếp tục sử dụng số lao động hiện có; xây dựng và thực hiện phương án sử
dụng lao động.
Luật Chứng khoán 2006 sửa đổi năm 2010 cũng có các điều khoản liên quan
đến M&A thông qua các giao dịch trên thị trường chứng khoán như Điều 29 quy
định việc báo cáo về sở hữu của cổ đông lớn, Điều 32 quy định về chào mua
công khai, Điều 69 quy định việc chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, chuyển đổi công
ty chứng khốn, cơng ty quản lý quỹ.
Nhìn chung, M&A là một hoạt động phức tạp, liên quan đến nhiều vấn đề
pháp lý và do đó nó chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản pháp luật khác nhau.
Quy định về M&A tại Việt Nam hiện nay đã bắt đầu hình thành với những nội
dung căn bản nhất. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về M&A vẫn chưa thực sự
hoàn chỉnh, các quy định chưa có sự thống nhất, minh bạch. Điều này làm cho
các chủ thể tham gia hoạt động M&A gặp khó khăn trong việc thực hiện và tỷ lệ
thành công thường không cao; đồng thời, làm cho hoạt động kiểm sốt của các
cơ quan quản lý khơng đạt hiệu quả cao. Do đó, cần phải tiếp tục hoàn thiện,
đồng thời kết hợp với việc hệ thống hóa các quy định còn nằm rải rác ở nhiều
văn bản pháp lý vào văn bản có mức độ pháp lý cao hơn.
1.2.2. Pháp luật cạnh tranh điều chỉnh hoạt động M&A tại Việt Nam.
Luật cạnh tranh được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam Khóa XI, kỳ họp
thứ 6 thông qua vào ngày 03/12/2004 và có hiệu lực thi hành từ ngày
12


01/07/2005. Cơ cấu pháp luật cạnh tranh gồm hai bộ phận là pháp luật về chống

cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh
tranh. Trong đó, hoạt động M&A được nhìn nhận dưới góc độ là hành vi tập
trung kinh tế, thuộc bộ phận pháp luật về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh.
Nội dung chủ yếu của Luật cạnh tranh trong việc điều chỉnh hoạt động M&A
bao gồm:
- Thứ nhất, Luật cạnh tranh tiếp cận hoạt động M&A dưới góc độ là hành vi
tập trung kinh tế, bằng cách liệt kê các hình thức của hành vi này bao gồm: sáp
nhập doanh nghiệp, mua lại doanh nghiệp, hợp nhất doanh nghiệp, liên doanh
doanh nghiệp và một số hành vi tập trung kinh tế khác. Cách tiếp cận này khá
rộng và bao quát hầu hết các hình thức của M&A so với theo quan điểm về
M&A trên thế giới.
- Thứ hai, Luật cạnh tranh có nhiều điều khoản tạo hành lang pháp lý cho
phép các cơ quan quản lý nhà nước kiểm sốt hoạt động tập trung kinh tế. Bằng
cách khơng kiểm soát tất cả các hoạt động tập trung kinh tế mà chỉ tập trung vào
một số trường hợp trên cơ sở đánh giá quy mơ của doanh nghiệp hình thành sau
hoạt động tập trung kinh tế. Cụ thể là sử dụng thị phần kết hợp của các doanh
nghiệp tham gia tập trung kinh tế để kiểm soát. Các ngưỡng thị phần kết hợp
được dùng làm căn cứ xử lý theo Luật Cạnh tranh là 30% và 50% trên thị trường
liên quan. Điều này định hướng hoạt động M&A theo khuôn khổ pháp lý, hạn
chế tác động xấu đến cạnh tranh trên thị trường.
- Thứ ba, với tư cách là công cụ để bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh,
Luật Cạnh tranh cũng điều chỉnh việc điều tra xử lý các vụ việc vi phạm pháp
luật cạnh tranh. Cụ thể luật cạnh tranh có các quy định quy định về cơ quan tiến
hanh tố tụng, trình tự xử lý vi phạm, chế tài và biện pháp khắc phục. Đây là cơ
sở pháp lý quan trọng nhằm răn đe các doanh nghiệp có hành vi vi phạm, đảm
bảo sân chơi kinh doanh bình đẳng giữa các doanh nghiệp
13


Bên cạnh đó, để tạo ra hàng lang pháp lý vững chắc, sâu rộng cho việc thực

hiện cũng như quản lý hoạt động M&A, Nhà nước cũng ban hành nhiều văn bản
hướng dẫn luật cạnh tranh bao gồm:
- Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Cạnh tranh.
- Nghị định 119/2011/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính tại Nghị
định số 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật Cạnh tranh.
- Nghị định 71/2014/NĐ-CP hướng dẫn Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.
- Nghị định 06/2006/NĐ-CP quy định về chức năng nhiệm vụ quyền hạn của
Cục quản lý cạnh tranh.
- Nghị định 07/2015/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Hội đồng Cạnh tranh.
Ngày nay, hoạt động M&A đang thực sự bùng nổ mạnh mẽ. Chúng ta có thể
nhận thấy sự hiện diện của M&A trong nền kinh tế của hầu hết quốc gia, hay
trong mọi ngành nghề, lĩnh vực của đời sống. Những lợi ích mà M&A mang lại
là không thể phủ nhận tuy nhiên, những tác động tiêu cực M&A có thể gây ra
mới là điều chúng ta cần xem xét, nhìn nhận lại. Chính vì vậy, Pháp luật các
quốc gia, trong đó có ln Việt Nam ln quan tâm xây dựng, hồn thiện hệ
thống quy định kiểm soát hoạt động M&A, một mặt để thúc đẩy thị trường M&A
nói chung phát triển lành mạnh, mặt khác, hạn chế những bất cập, rủi ro mà
M&A có thể gây ra đối với thị trường đảm bảo hoạt động này vận hành theo
đúng quy luật, phù hợp với định hướng của Nhà nước, của xã hội.

14


Chương 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH
TRANH VIỆT NAM VỀ KIỂM SOÁT HOẠT ĐỘNG M&A VÀ GIẢI
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN

2.1. Thực tiễn hoạt động M&A ở Việt Nam thời gian qua.
2.1.1. Tổng quan hoạt động M&A thời gian qua.
Sự ra đời của Luật cạnh tranh 2004 cùng hệ thống các văn bản pháp luật
chuyển ngành khác đã tạo một đã tạo hành lang pháp lý cho hoạt động M&A tại
Việt Nam. Tiếp theo đó, cùng với việc nước ta tham gia Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO), nhiều rào cản được dỡ bỏ cho các nhà đầu tư và các công ty đa
quốc gia tham gia kinh doanh tại Việt Nam góp phần thúc đẩy hoạt động M&A
bùng nổ mạnh mẽ. Càng về sau, số lượng và giá trị các thương vụ M&A liên tiếp
đạt được những con số kỷ lục cho thấy tầm quan trọng của hoạt động này đối với
các doanh nghiệp. Cụ thể, năm 2007 có 108 vụ với tổng giá trị thực hiện gần
1,72 tỷ USD; năm 2008 có 146 vụ với hơn 1,1 tỷ USD; giai đoạn 2009 - 2011,
có khoảng 750 thương vụ mua bán sáp nhập tại Việt nam với tổng giá trị giao
dịch ước đạt 6,89 tỷ đô la Mỹ, giai đoạn 2012 - 2014, tổng giá trị các vụ việc
mua bán, sáp nhập tăng khá cao, đạt khoảng 11,13 tỷ đô là Mỹ. [1]
Theo như số liệu của Thomson Reuters vừa công bố về thị trường M&A khu
vực Đông Nam Á năm 2014. Tại Việt Nam, có khoảng 285 giao dịch được thực
hiện với giá trị khoảng 2,5 tỷ USD, so với các nước khác trong ASEAN
(Philippines, Thái Lan, Singapore, Malaysia, Indonesia), quy mô của thị trường
M&A Việt Nam rất nhỏ.
Trong năm 2015 vừa qua, Theo số liệu báo cáo của Viện nghiên cứu mua
bán sáp nhập và liên kết (IMAA), hoạt động M&A tại Việt Nam đang phát triển
rầm rộ hơn bao giờ hết. Xét về giá trị, từ đầu năm đến cuối tháng 7/2015, Việt
1

Tổng hợp từ Báo cáo tập trung kinh tế của Cục quản lý cạnh tranh năm 2009, năm 2014.

15


Nam xếp thứ 41 với hơn 2 tỷ USD và theo ước tính của tổ chức này thì thị

trường M&A tại Việt Nam có thể đạt giá trị 3,8 tỷ USD với gần 400 thương vụ
dự kiến được công bố trong cả năm 2015. Năm 2016 được dự đoán là một năm
bùng nổ hơn nữa của thị trường M&A tại Việt Nam, sau khi nhiều hiệp định tự
do thương mại (FTA) được kí kết như Hiệp định Thương mại Tự do Việt-Hàn,
Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam-EU hay Hiệp định Đối tác Kinh tế
Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) và nhiều văn bản pháp lý quan trọng
như Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp có hiệu lực hướng tới tháo gỡ nhiều khó
khăn, hạn chế, mở ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp sẽ góp
phần thu hút dịng chảy đầu tư từ nước ngồi về Việt Nam.
Xét về tỷ trọng các ngành trong tổng giá trị M&A tại Việt Nam trong năm
2014, Tài chính ngân hàng, bán lẻ, hàng tiêu dùng, năng lượng là những ngành
chiếm tỷ trọng lớn nhất; trong đó, đứng đầu trong các thương vụ M&A là ngành
bán lẻ, chiếm 36% tổng giá trị. Hàng tiêu dùng xếp vị trí thứ 2 với tỷ trọng 21%
tổng giá trị giao dịch. Ngành năng lượng đứng thứ 3 với tỷ trọng chiếm 18% [14,
tr. 16].
Thêm vào đó, xu thế chủ đạo vẫn là làn sóng mua lại doanh nghiệp trong
nước của các công ty nước ngoài, tuy nhiên, một số doanh nghiệp Việt nam cũng
bắt đầu thực hiện các thương vụ ở nước ngoài (ví dụ Vinamilk, Viettel, FPT).
Trong số các nhà đầu tư nước ngoài, đối tác Nhật Bản chiếm ưu thế trong các
hoạt động M&A tại Việt Nam, theo sau đó là các nhà đầu tư từ Mỹ, Singapore và
Hàn Quốc. Đặc biệt trong những năm gần đây, bản đồ thu hút vốn nước ngoài
của Việt Nam xuất hiện nhiều hơn những cái tên đến từ quốc gia Thái Lan. Có
thể kể đến như thương vụ Tập đoàn Siam Cement Group (SCG) của Thái Lan đã
ký thỏa thuận mua 85% cổ phần Cơng ty cổ phần Prime Group (Việt Nam); Tập
đồn TCC của Thái Lan mua lại Công ty Metro Cash & Carry Việt Nam hay
Power Buy đầu tư vào Công ty cổ phần Thương mại Nguyễn Kim.
16


2.1.2. Thực trạng hoạt đợng kiểm sốt M&A của Việt Nam

Theo số liệu được Cục Quản lý cạnh tranh thu thập từ các Sở Kế hoạch - Đầu
tư và các Ban Quản lý khu công nghiệp - khu chế xuất tại các tỉnh thành phố trên
toàn quốc, giai đoạn 2012 - 2014 có 665 vụ việc thay đổi giấy đăng ký kinh
doanh do nguyên nhân thực hiện M&A với số lượng doanh nghiệp tham gia là
1.548 doanh nghiệp. Các vụ việc M&A theo đăng ký kinh doanh trong giai đoạn
vừa qua có xu hướng gia tăng so với giai đoạn trước (giai đoạn 2009 - 2011 có
368 vụ) và ổn định trong ba năm qua. trong đó việc M&A diễn ra chủ yếu dưới
ba hình thức: mua lại, liên doanh và sáp nhập doanh nghiệp, hình thức hợp nhất
doanh nghiệp ít được thực hiện.
Trong giai đoạn 2012-2014, Cục quản lý cạnh tranh đã thụ lý đã thụ lý 19 vụ
việc thông báo M&A và rất nhiều vụ việc tham vấn về M&A trước và trong quá
trình các doanh nghiệp thực hiện M&A. Cho tới nay, Cục quản lý cạnh tranh đã
phê chuẩn tất cả các vụ việc M&A được thông báo và có 01 vụ việc thuộc trường
hợp bị cấm nhưng đáp ứng điều kiện cho hưởng miễn trừ theo quy định của Luật
Cạnh tranh. Trong số các vụ việc M&A đã được Cục quản lý cạnh tranh xem xét
nêu trên, các vụ việc M&A theo hình thức sáp nhập và mua lại doanh nghiệp
chiếm đa số.
2.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi việc
kiểm sốt M&A ở Việt Nam.
Thứ nhất, hồn thiện các quy định pháp luật cạnh tranh về hoạt động M&A.
Từ năm 2004 đến nay, sau khi ban hành Luật cạnh tranh, Nhà nước đã sửa đổi bổ
sung nhiều văn bản pháp luật mới. Trong năm 2015 vừa qua, hàng loạt Bộ Luật,
Luật được thông qua và bắt đầu có hiệu lực pháp lý như: Bộ luật dân sự, Luật
doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật phá sản kèm theo là rất nhiều văn bản dưới luật
với rất nhiều nội dung được điều chỉnh nhằm phù hợp với tình hình thực tế,

17


chính vì vậy, cần rà sốt lại tồn bộ các quy định của pháp luật cạnh tranh liên

quan đến việc kiểm soát M&A, phát hiện các quy định có nội dung mâu thuẫn,
chồng chéo hoặc không phù hợp với thực tế để tiến hành sửa đổi nhằm bảo đảm
sự tương thích, đồng bộ với các văn bản pháp luật chuyên ngành khác. Chẳng
hạn như: Luật cạnh tranh cần làm rõ các quy định cụ thể hơn các trường hợp
miễn trừ theo quy định tại Điều 19. Đối với trường hợp thứ nhất tại Khoản 1
Điều này, Luật Phá sản 2014 khơng cịn sử dụng khái niệm “lâm vào tình trạng
phá sản”. Nếu pháp luật cạnh tranh không làm rõ được vấn đề này, hoặc khơng
có điều chỉnh thích hợp, chắc chắn sẽ khó có thể viện dẫn được các quy định của
pháp luật có liên quan. Đối với trường hợp miễn trừ tại khoản 2 Điều 19 đối với
các vụ hoạt động M&A có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển
kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ thuật, cơng nghệ. Luật cạnh tranh cịn thiếu vắng
những quy định về các yếu tố để đánh giá và lượng hóa những tác động này. Do
vậy, trong thời gian tới Luật cạnh tranh cần phải quy định làm rõ hơn vấn đề này
nhằm tránh trường hợp việc đánh giá tác động sẽ phụ thuộc nhiều vào ý chí chủ
quan của cơ quan thực thi luật cạnh tranh và doanh nghiệp.
Thứ hai, xem xét kiểm soát cả các giao dịch hoạt đợng M&A có yếu tố nước
ngồi - tức các hoạt động M&A được thực hiện bởi các doanh nghiệp nước
ngoài hoặc được diễn ra ngoài lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam được đánh giá là
một nền kinh tế năng động, có còn nhiều tiềm năng để phát triển trong khu vực,
trong những năm qua Việt Nam đã thu hút sự quan tâm đáng kể của các doanh
nghiệp nước ngoài. Hoạt động M&A xuyên biên giới đang có dấu hiệu gia tăng
trong thời gian qua, điển hình là thương vụ Tập đoàn TCC Holding của Thái Lan
mua lại toàn bộ hoạt động kinh doanh của Công ty METRO Cash & Carry Việt
Nam. Tuy nhiên, Luật cạnh tranh hiện nay chỉ điều chỉnh hoạt động M&A của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, cịn đối với
doanh nghiệp hoạt động ở nước ngồi thì chưa có cơ chế điều chỉnh. Điều này
18


xuất phát từ lý do: các doanh nghiệp này chưa có hoạt động kinh doanh tại Việt

Nam, dó đó chưa có doanh thu, chưa có thị phần để làm cơ sở xem xét hành vi
M&A có thuộc các trường hợp bị cấm hay thuộc diện thông báo hay không?
Bên cạnh đó, trường hợp các doanh nghiệp nước ngoài mặc dù đã có sự hiện
diện tại Việt Nam và trong số đó có nhiều sản phẩm và dịch vụ do các doanh
nghiệp này cung cấp có thị phần đáng kể trên thị trường trong nước, đặt giả thiết
trường hợp hai tập đoàn đa quốc gia tiến hành sáp nhập với nhau nhưng diễn ra
tại các quốc gia khác, trong khi hai tập đoàn này đều có hoạt động kinh doanh tại
Việt Nam và đều đang chiếm thị phần lớn, điều này không ngoại trừ khả năng
gây ảnh hưởng xấu đến môi trường cạnh tranh trong nước.
Vì vậy, có thể thấy trong bất kỳ trường hợp nào, các hoạt động M&A nêu
trên đều tiềm ẩn những nguy cơ nhất định đối với môi trường cạnh tranh trong
nước. Các trường hợp này đều cần được thông báo đến các cơ quan cạnh tranh
Việt Nam để tiến hành xem xét ngay từ giai đoạn đầu, từ đó có được những đánh
giá phù hợp cũng như kịp thời đưa ra các biện pháp ngăn chặn, kiểm sốt trước
khi tiến hành. Điều này cũng địi hỏi sự phối hợp hoạt động giữa cơ quan cạnh
tranh Việt Nam và cơ quan cạnh tranh của các quốc gia khác, nhằm kiểm soát
tập trung kinh tế tốt hơn. Do đó trong thời gian tới, Luật cạnh tranh Việt Nam
cần bổ sung quy định về việc kiểm soát hoạt động M&A trong các trường hợp
trên.
Thứ ba, cần mở rộng phạm vi kiểm sốt hoạt đợng M&A. Ngồi các hành vi
M&A thực hiện theo chiều ngang mà pháp luật cạnh tranh hiện hành đang điều
chỉnh, chúng ta cũng cần xem xét việc kiểm soát hành vi M&A được thực hiện
theo chiều dọc, hay kiểu hỗn hợp - đây là những dạng M&A đã tồn tại trên thị
trường và được pháp luật nhiều quốc gia ghi nhận bởi nó cũng tiềm ẩn khả năng
tác động xấu đến môi trường cạnh tranh. Do vậy, trong thời gian tới, các nhà làm
luật cần phải nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường của nước ta hiện nay để bổ
19


sung thêm quy định về loại hình M&A khác sao cho phù hợp để hoạt động kiểm

soát M&A được chặt chẽ tồn diện hơn.
Thứ tư, bổ sung ngưỡng thơng báo đối với hoạt động M&A: việc sử dụng
duy nhất tiêu chí thị phần để xác định ngưỡng thơng báo đối với các vụ việc
M&A khơng xác định chính xác khả năng gây hạn chế cạnh tranh của vụ việc,
đồng thời gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện thủ tục
thông báo. Pháp luật của nhiều nước trên thế giới như: Mỹ, Pháp, Liên minh
Châu Âu, Nhật Bản quy định ngồi thị phần của doanh nghiệp, cịn căn cứ vào
những yếu tố khác như: tổng doanh thu hay tổng tài sản của doanh nghiệp, giá trị
của các thương vụ M&A… làm cơ sở xác định ngưỡng thông báo tập trung kinh
tế. Do đó, trong thời gian tới, các nhà làm luật cũng cần xem xét chọn lọc ra
những tiêu chí phù hợp với điều kiện, hồn cảnh môi trường kinh tế Việt Nam để
mở rộng thêm nhiều yếu tố khác làm căn cứ xác định ngưỡng thông báo đối với
các vụ việc M&A đảm bảo cho việc kiểm sốt được khách quan và tồn diện
nhất, điều này có ý nghĩa đặc biệt khi Việt Nam đang ngày càng tiến sâu vào quá
trình hội nhập kinh tế thế giới như hiện nay.
Thứ năm, thay đổi cách thức kiểm sốt hoạt đợng M&A theo hướng chủ
đợng đánh giá tác động của vụ việc M&A đối với thị trường. Như đã phân tích ở
trên, việc sử dụng tiêu chí duy nhất là thị phần của các bên tham gia vào giao
dịch để suy đoán khả năng gây hạn chế cạnh tranh của M&A là chưa hợp lý. Để
xác định chính xác khả năng gây hạn chế cạnh tranh của bất cứ một vụ việc
M&A nào, chúng ta cũng cần phải có những nghiên cứu, đánh giá cụ thể về vụ
việc đó trên nhiều phương diện. Do đó, thay vì quy đinh theo hướng cấm các
hành vi M&A dựa trên yếu tố thị phần kết hợp như hiện nay, chúng ta cần quy
định theo hướng làm thế nào để tăng cường kiểm soát các hành vi này một cách
tốt nhất. Theo ý kiến người viết, cần xây dựng một cơ chế chuyên biệt về đánh
giá tác động đối với từng vụ việc M&A và trao quyền cho cơ quan quản lý cạnh
20




×