Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Skkn sử dụng sơ đồ bảng biểu vào dạy học truyện ngắn “một người hà nội” của nguyễn khải ở trường thpt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.97 KB, 22 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Nghị quyết 29 BCHTW Đảng lần thứ 8 (Khóa XI) đã nêu rõ yêu cầu đổi mới căn
bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam như sau: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ
áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến
khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát
triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa
dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh
ứng dụng cơng nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”.
Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo
dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan
tâm đến việc HS học được cái gì đến chỗ quan tâm HS vận dụng được cái gì qua
việc học. Để đảm bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ phương pháp dạy
học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức,
rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Tăng cường việc học tập
trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên – học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa
quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức
và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập
tích hợp liên mơn nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.
Những năm qua, trong dạy học Ngữ văn, sơ đồ, bảng, biểu đang được áp dụng
rộng rãi và tạo ra những chuyển biến tích cực đối với q trình học tập của học
sinh. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy; hiệu quả của dạy học được tăng cường khi
đi từ dạy học chỉ bằng lời nói đến sử dụng phương tiện dạy học và hoạt động của
chính học sinh.
Trong q trình dạy học Ngữ văn, Phương pháp trực quan (cụ thể là sơ đồ, bảng,
biểu) đóng vai trị khơng thể thiếu nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Đối với dạy
học thể loại truyện ngắn, việc xây dựng và sử dụng sơ đồ, bảng biểu ngày càng
chứng tỏ được vai trò quan trọng đối với hoạt động giảng dạy của giáo viên và học
tập của học sinh trong quá trình chiếm lĩnh tri thức, từng bước đáp ứng yêu cầu đổi


mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh, phát
triển năng lực tư duy sáng tạo, tư duy tổng hợp của người học.
Trong dạy học Ngữ văn, sơ đồ, bảng, biểu có vai trị mã hóa thông tin về các vấn
đề văn học dưới dạng trực quan sinh động, giúp phát huy trí tưởng tượng, óc liên
tưởng và phát triển năng lực sáng tạo của học sinh trong hoạt động tiếp nhận. Bởi
vì sơ đồ, bảng, biểu sẽ minh họa kiến thức một cách cô đọng, ngắn gọn, sinh động,
dễ hiểu, dễ nhớ nhất nên khi nhìn vào sơ đồ, HS có thể nắm được thơng tin, tri
thức một cách nhanh chóng, bền vững, đồng thời có cơ sở để khám phá sâu bài
học. Qua đó, hoàn thiện tri thức, rèn luyện kỹ năng như so sánh, phân tích, phán
đốn,liên hệ mở rộng, tạo “điểm tựa” cho hoạt động trí tuệ, phù hợp với con
đường nhận thức của HS phổ thông.
Sử dụng sơ đồ, bảng, biểu trong dạy học Ngữ văn có vai trị tích cực trong việc
giúp học sinh phát triển ý tưởng, tìm tịi lĩnh hội và xây dựng kiến thức mới. Nếu
sử dụng sơ đồ, bảng, biểu, trong một thời gian rất ngắn có thể khái quát được một
1

skkn


khối lượng kiến thức lớn, vừa làm rõ bài giảng, vừa xâu chuỗi kiến thức và các
mối liên hệ giữa chúng.
Sơ đồ, bảng, biểu sẽ tác động vào "kênh hình" và tạo ra sự hứng thú ở người học.
Nhờ đó, tiết học trở nên sôi động hơn. Sơ đồ, bảng, biểu giúp phát triển óc quan
sát, kích thích tư duy, sự hào hứng tìm tịi, đón nhận tri thức mới của HS. Xuất
phát từ thực tế giảng dạy ở Trường THPT Triệu Sơn 5 và qua nghiên cứu, đúc rút,
nghiền ngẫm, trăn trở tôi mạnh dạn chọn đề tài: “ Sử dụng sơ đồ, bảng biểu vào
dạy học truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải” ở THPT”
1.2 Mục đích nghiên cứu
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn, đề tài nghiên cứu cách thức xây dựng và
sử dụng sơ đồ, bảng biểu vào dạy học các truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở

trường trung học phổ thông. Qua đó giúp giáo viên và học sinh có thể thực hiện tốt
nhiệm vụ giảng dạy và học tập. Mặt khác góp phần nâng cao chất lượng dạy học
văn ở trường trung học phổ thơng nói chung, phần truyện ngắn Việt Nam sau 1975
nói riêng.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu việc xây dựng và sử dụng sơ đồ, bảng biểu vào quá
trình dạy học các truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở trường trung học phổ thông.
1.4Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Phương pháp thống kê, phân tích
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
Tổ chức thực nghiệm dạy học và đối chứng trên một số đối tượng và địa bàn
khác nhau. Sau đó thống kê kết quả thực nghiệm, đối chứng kết quả thực nghiệm
giữa các lớp cùng trường, giữa các trường với nhau. Từ đó, đánh giá những thành
cơng và những điều cần tiếp tục hoàn thiện của các đề xuất.

2. PHẦN NỘI DUNG
2

skkn


2.1 Cơ sở lí luận
Từ điển Tiếng Việt của Hồng Phê (Nhà xuất bản Đà Nẵng - 2009), đưa ra khái
niệm về "sơ đồ" và "bảng biểu" như sau:
- Sơ đồ là những hình vẽ quy ước có tính chất sơ lược nhằm mơ tả đặc trưng
nào đó của đối tượng hay q trình nào đó
- Bảng biểu bao gồm bảng và biểu. Trong đó, bảng thường có cột và hàng dùng
để kê một nội dung nào đó theo thứ tự, cách thức nhất định; còn biểu là bảng kê

danh mục, số liệu để làm căn cứ đối chiếu.
Như vậy, theo cách hiểu trên thì sơ đồ, bảng, biểu sẽ bao gồm nhiều loại như sơ
đồ tư duy, bản đồ khái niệm, graph... Mỗi loại sẽ có những khái niệm, đặc trưng
riêng, tuy nhiên ở đây, chúng tơi sẽ tìm hiểu sơ đồ, bảng biểu nói chung trong dạy
học Ngữ văn chứ không phân biệt hay đi sâu vào một loại cụ thể nào.
2.2 Thực trạng dạy học văn ở nhà trường phổ thông và vấn đề đổi mới
phương pháp dạy học Ngữ văn.
Hiện nay, vấn đề dạy học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông đang đứng
trước một thực trạng rất đáng lo ngại. Hoạt động dạy học đang trong sự khủng
hoảng cả nội dung, chất lượng và phương pháp. Nhiều giáo viên khơng cịn hứng
thú với cơng tác giảng dạy. Ở các cấp học, tình trạng học sinh chán học môn Ngữ
văn đã trở nên phổ biến, đặc biệt là cấp trung học phổ thông.
Để khắc phục thực trạng trên, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn đã
được phổ biến, áp dụng ở hầu hết các trường học trong cả nước và đã có những
chuyển biến bước đầu khá tích cực. Qua học Ngữ văn học sinh được bồi đắp năng
lực giao tiếp đời sống, giao tiếp thẩm mĩ với khả năng biết rung động, cảm xúc,
biết yêu, ghét, biết hướng đến những tình cảm nhân văn, trong sáng của con người.
Kiểm tra đánh giá kết quả học tập Ngữ văn của học sinh cũng đã bước đầu chuyển
mình theo hướng này. Tuy vậy, truyền thống giảng văn với nhiều thành tựu và cả
quán tính của nó đã khiến cho q trình đổi mới dạy học Ngữ văn ở nhà trường
phổ thơng cịn nhiều bất cập. Thêm nữa, đặc thù mơn học vừa mang tính khoa học
vừa mang tính nghệ thuật – nghệ thuật ngơn từ cũng tạo ra những hấp dẫn và khó
khăn riêng so với các bộ môn khác trong nhà trường phổ thông. Điều này đặt ra
vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, đề xuất các phương pháp, biện pháp, phương tiện,
… dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức và cảm thụ văn chương của
học sinh.
2.2.1 Thực trạng xây dựng và sử dụng sơ đồ, bảng dạy học Ngữ văn
Chúng tôi tiến hành khảo sát thực trạng xây dựng và sử dụng sơ đồ, bảng biểu
bằng trong dạy học truyện ngắn Việt nam bằng các biện pháp sau:
+ Thống kê số lượng sơ đồ, bảng, biểu trong một số cuốn sách như: sách giáo

viên, sách thiết kế bài giảng... phần văn học Việt Nam ở THPT.
Bảng 1Thống kê số lượng sơ đồ, bảng, biểu trong sách giáo viên, sách thiết
kế bài giảng Ngữ văn lớp 12, tập 2, phần văn học Việt Nam sau 1975.
Tên sách
Số lượng sơ Tên sơ đồ, bảng,
Tổng số
đồ, bảng
biểu
tiết
biểu
Sách giáo viên (Phan Trọng
0
Luận tổng chủ biên)
3

skkn


Thiết kế bài giảng Ngữ văn 12,
tập 2(Ban cơ bản của Phan
Trọng Luận).
Thiết kế bài giảng Ngữ văn 12,
tập 2(Ban cơ bản của Nguyễn
Văn Đường)
Thiết kế bài giảng Ngữ văn 12,
tập 2 (Ban nâng cao của Trần
Đình Chung )

0
0

0
0

+ Thống kê số lượng sơ đồ, bảng, biểu trong một số giáo án của giáo viên
trường THPT 5, thuộc huyện Triệu Sơn - Thanh Hóa khi dạy học truyện ngắn Việt
Nam sau 1975.
Bảng 2 Thống kê số lượng sơ đồ, bảng, biểu trong một số giáo án của giáo
viên khi dạy học truyện ngắn Việt Nam sau 1975.
Tên bài

Số lượng sơ đồ, bảng biểu
Trần Thị Nga

Lê Thị Quyên

Lê Thị San

Chiếc thuyền ngoài xa
0
1
1
(Nguyễn Minh Châu)
Một người Hà Nội
1
0
0
(Nguyễn Khải)
Nhận xét: Từ bảng thống kê, ta thấy trong số 3 GV được lựa chọn khảo sát giáo
án thì có 2 GV sử dụng sơ đồ, bảng biểu trong dạy học truyện ngắn sau 1975. Tuy
nhiên, số lượng sơ đồ được sử dụng rất ít. Thậm chí, truyện ngắn Một người Hà

Nơi (Nguyễn Khải) thì chỉ có 1 GV sử dụng với số lượng 1 sơ đồ. Kết quả này cho
thấy, sơ đồ, bảng, biểu vốn là những công cụ dạy học hữu ích trong dạy học Ngữ
văn lại ít được GV quan tâm và vận dụng. Đặc biệt, trong tình hình vấn đề đổi mới
phương pháp dạy học đang là vấn đề mang tính cấp thiết như hiện nay, việc GV
chưa thực sự chú ý đến vận dụng những phương tiện dạy học có khả năng mang lại
hiệu quả
Bảng 3 Sơ đồ, bảng biểu được sử dụng trong quá trình dạy học truyện ngắn
Việt Nam ở THPT. ( Một người Hà Nội của Nguyễn Khải )Điều tra 7 GV tổ
Ngữ Văn Trường THPT Triệu Sơn 5
Nội dung
SL
%
Sơ đồ, bảng, biểu tìm hiểu về tác giả
0
0
Sơ đồ, bảng, biểu giải thích ý nghĩa nhan đề tác phẩm
0
0
Sơ đồ, bảng, biểu tóm tắt tác phẩm
5/7
70
Sơ đồ, bảng, biểu phân tích tình huống truyện
2/7
30
Sơ đồ, bảng, biểu khám phá nhân vật
3/7
40
Sơ đồ, bảng, biểu tìm hiểu các chi tiết nghệ thuật
2/7
20

4

skkn


Sơ đồ, bảng biểu phân tích giá trị tác phẩm, thông điệp
0
0
nghệ thuật
Từ số liệu bảng thống kê ta thấy: trong dạy học truyện ngắn Một người Hà Nội
(Nguyễn Khai ) sơ đồ, bảng, biểu chủ yếu được sử dụng trong nội dung tóm tắt
tác phẩm (5/7 GV). Trong khi đó, trong các truyện ngắn này, q trình nhận thức
của nhân vật, hình tượng nhân vật là những nội dung rất phù hợp cho việc vận
dụng sơ đồ, bảng, biểu trong giảng dạy. Nhưng, số lượng GV sử dụng sơ đồ, bảng,
biểu khi dạy học hai nội dung này lại rất ít.
3 Xây dựng sơ đồ, bảng biểu để dạy học truyện ngắn Một người Hà Nội ở
trường Trung học phổ thông
3.1 Sơ đồ, bảng biểu thể hiện kết quả của sự khám phá sâu sắc nội dung học tập
Truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải là tác phẩm rất có giá trị
trong chương trình Ngữ văn ở trường trung học phổ thông. Đây là tác phẩm mới
được đưa vào giảng dạy trong chương trình, cụ thể là chương trình Ngữ văn 12.
Có nhiều vấn đề mà GV phải hướng dẫn HS tìm hiểu để phát hiện ra giá trị nội
dung, nghệ thuật của tác phẩm cũng như tài năng của người nghệ sĩ. Để xây dựng
được sơ đồ, bảng biệu phục vụ cho công tác giảng dạy hai truyện ngắn này, GV
cần khám phá tác phẩm một cách sâu sắc trên mọi phương diện như cốt truyện,
tình huống truyện, hệ thống hình tượng nhân vật...Nắm vững những yếu tố này là
cơ sở để sản sinh, sáng tạo ra những sơ đồ, bảng biểu giúp HS lĩnh hội tác phẩm
một cách toàn diện.
3.2 Sơ đồ bảng biểu thể hiện cốt truyện – xương sống của tác phẩm
Cốt truyện là một hệ thống những sự kiện, biến cố, hành động xảy ra liên

tiếp tạo nên sự vận động của hiện thực được phản ánh. Cốt truyện thể hiện mối
quan hệ qua lại giữa các tính cách trong một hồn cảnh xã hội nhất định nhằm thể
hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Để nắm được nội dung được phản ánh trong
tác phẩm và phân tích được giá trị nội dung lẫn nghệ thuật của tác phẩn thì trước
tiên, chúng ta cần phải tóm tắt cốt truyện. Đây được xem là hoạt động hết sức quan
trọng trong dạy học truyện ngắn, khi đã tóm tắt được cốt truyện thì việc phân tích,
cắt nghĩa tác phẩm sẽ trở nên dễ dàng hơn.

5

skkn


Việc tóm tắt cốt truyện bằng cách diễn xi cốt truyện sẽ khơng mang lại hiệu quả
cao vì học sinh sẽ khó ghi nhớ cốt truyện. Để khắc phục nhược điểm của cách tóm
tắt cốt truyện như trên, giáo viên có thể sử dụng sơ đồ để tóm tắt cốt truyện hoặc
hướng dẫn HS tự tạo ra sơ đồ tóm tắt cốt truyện riêng của mình. Để tóm tắt cốt
truyện, chúng ta có một số dạng sơ đồ tóm tắt như sau:
Dạng 1:

Sự việc 1

Sự việc 2

Sự việc n
Dạng 2:

Sự việc 1

Sự việc 2


Sự việc 3

Sự việc n

.......................

Sự việc 4

Dạng 3:
Sự việc 1

Sự việc 2

Dạng 4:

Sự việc n

Sự việc 3

Sự việc 4

Các nhân vật chính?
6

skkn


Câu chuyện xảy ra ở đâu?


Nhân vật chính gặp phải vấn đề gì?

Điều gì xảy ra khi bắt đầu câu chuyện?

Nhân vật chính đã phản ứng như thế nào?

Nhân vật chính giải quyết vấn đề như thế nào?

Vấn đề được giải quyết như thế nào?
Với những mẫu sơ đồ trên đây, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh sử dụng để
tóm tắt cốt truyện. Ví dụ, với truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải,
giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tóm tắt cốt truyện theo mạch trần thuật của
truyện. Với cách tóm tắt này, ta có dạng sơ đồ sau:
Nhân vật cô Hiền

Nguồn gốc, lai lịch xuất
thân

Một người Hà
Nội

Vẻ đẹp tâm hồn mang
tính nhân văn

Vẻ đẹp của những giá trị
truyền thống

7

skkn



Tóm tắt cốt truyện là một yêu cầu cần thiết và là cơ sở đề từ đó tìm hiểu các vấn
đề khác trong tác phẩm. Qua hành động tóm tắt cốt truyện, giáo viên sẽ đánh giá
được mức độ thâm nhập tác phẩm, năng lực tư duy sáng tạo và năng lực bao quát
ban đầu cũng như khả năng diễn đạt của học sinh. Sơ đồ tóm tắt cốt truyện giúp
học sinh phát triển năng lực ghi nhớ, tái hiện lại một cách ngắn gọn, đầy đủ nhất
các sự kiện, các tình tiết cốt lõi của câu chuyện. Sơ đồ tóm tắt cốt truyện bao giờ
cũng là dạng sơ đồ chuỗi, nhưng ở mỗi truyện ngắn sẽ có những hình thức chuỗi
khác nhau. Việc học sinh sáng tạo ra những hình thức chuỗi cho sơ đồ sẽ góp
3.3 Sơ đồ, bảng biểu thể hiện tình huống truyện - hạt nhân cốt lõi của tác phẩm
Đối với truyện ngắn, tình huống giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, nó
chính là cái hồn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại
đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ
sắc nét nhất.
Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 trong nhà trường phổ thông là những
truyện có tình huống độc đáo. Trong Một người Hà Nội - Nguyễn Khải các tình
huống truyện được xây dựng đều là tình huống nhận thức, Một người Hà Nội là
sự "tiệm ngộ" Tìm hiểu rõ Một người Hà Nội, chúng ta thấy có bốn tình huống
nhận thức, đó là  tình huống bà Hiền chọn chồng, tình huống bà bị “ngờ” là tư sản,
tình huống bà nhận tin con tình nguyện đi chiến đấu và tình huống bà phải bày tỏ
thái độ trước lối sống thủ đô thời kinh tế thị trường. Nhà văn Nguyễn Khải xây
dựng những tình huống này nhằm tạo cơ hội cho tính cách bà Hiền được bộc lộ.
Người kể chuyện đã "tiệm ngộ" dần trong quãng thời gian mấy chục năm quan sát,
suy tư, trải nghiệm và đối chứng. Mỗi lần gặp gỡ bà Hiền là một lần người kể
chuyện ngỡ ngàng, vỡ lẽ về một nét đẹp mới ở bà, để rồi phải nhìn lại những suy
nghĩ nơng nổi, giáo điều, đầy định kiến của mình. Qua phân tích trên chúng ta
thấy tình huống truyện có vai trị quan trọng trong tác phẩm nghệ thuật. Khi tìm
hiểu nhân vật, điều đầu tiên là phải phát hiện ra những hoàn cảnh đặc biệt, cái nền
mà nhân vật bộc lộ con người thật của mình. Trên cơ sở phân tích tình huống

truyện chúng ta sẽ phân tích, cắt nghĩa những vấn đề nhà văn đã xây dựng trong
tác phẩm, từ đó giải mã những thơng điệp nhà văn đã gửi gắm qua hệ thống ngôn
8

skkn


từ và hình tượng nghệ thuật. trong hoạt động này, giáo viên có thể hướng dẫn học
sinh sử dụng sơ đồ để khái quát tình huống truyện
Tình huống truyện

Nhận thức của cô Hiền

Nhận thức về những đổi
thay về cái mới

Thông điệp của nhà văn
Sơ đồ đã thể hiện được tình huống của truyện ngắn Một người Hà Nội là
tình huống nhận thức..
3.4 Sơ đồ, bảng biểu thể hiện thế giới nhân vật – bức tranh đời sống đa dạng,
sinh động, hấp dẫn của tác phẩm
Một nhân vật được xem là thành công khi thể hiện được một số phận, một quan
niệm nhân sinh độc đáo và thường điển hình cho một tầng lớp xã hội, một giai cấp,
thậm chí là một thời đại. Phân tích nhân vật giúp ta thấy được hiện thực xã hội và
quan niệm của nhà văn về con người, về cuộc đời.
Để phân tích nhân vật, chúng ta cần đi sâu vào các phương diện như lai lịch, ngoại
hình, ngơn ngữ, tính cách...đặc biệt là tâm trạng, đời sống nội tâm của nhân vật và
những phương diện này có thể được thể hiện bằng sơ đồ, bảng biểu trong dạy học
Ngữ văn. Với phương pháp dạy học này, giáo viên sẽ giúp học sinh phân tích nhân
vật một cách cụ thể, hệ thống và hiểu sâu sắc nhân vật, khắc phục được những

nhược điểm của việc phân tích thích nhân vật bằng thuyết trình, vấn đáp...trong
dạy học truyền thống khiến học sinh hiểu về nhân vật một cách hời hợt, mông
lung, hiểu sai về ý đồ nhà văn gửi găm,s qua nhân vật, thậm chí là có sự nhầm lẫn
nhân vật của tác phẩm này sang nhân vật của tác phẩm khác...điều này dẫn đến sự
ra đời của những bài văn phân tích nhân vật một cách máy móc, giản đơn, sáo
9

skkn


lịc
a
L

v
â

ito


ơ
g
N
ìn
h
m
rỗng, đặc biệt các em học sinh có cái nhìn sai lệch về tác phẩm, làm mất đi giá trị
của một tác phẩm văn chương. Nhận thức được tác động tích cực của việc phân

tích nhân vật bằng sơ đồ, bảng biểu đối với quá trình tiếp nhận tri thức của học


sinh trong dạy học tác phẩm văn chương, phân tích nhân vật bằng sơ đồ, bảng biểu
ngày càng được chú trọng trong đổi mới phương pháp dạy học.

Để phân tích nhân vật, có nhiều dạng sơ đồ GV có thể hướng dẫn HS sử

dụng như sơ đồ thể hiện tính cách, sơ đồ thể hiện diễn biến tâm lý nhân vật, sơ đồ

thể hiện cuộc đời nhân vật...Ví dụ, dùng sơ đồ để khái quát nhân vật, ta có dạng sơ
đồ tổng quát như sau:

Với dạng sơ đồ tổng quát trên đây, giáo viên có thể sử dụng chung cho q trình
phân tích nhân vật trong truyện ngắn. Từ sơ đồ, học sinh sẽ nắm được những tri

thức cơ bản về nhân vật. Tuy nhiên, tùy thuộc vào mỗi nhân vật khác nhau trong
mỗi tác phẩm, những phương diện quan trọng nhà văn phản ánh trong tác phẩm
mới được thể hiện trên sơ đồ. Không phải nhân vật nào cũng được miêu tả đầy đủ

ở các khía cạnh như sơ đồ trên. Mỗi nhân vật được nhấn mạnh ở những phương
diện khác nhau. Do đó, việc đi tìm đấy đủ các yếu tố của nhân vật như trên sơ đồ
tổng quát là việc làm vô nghĩa. Trong dạy học tác phẩm văn chương, giáo viên chỉ

cần hướng dẫn HS khai thác những phương diện quan trọng nhất, cơ bản nhất và

10

skkn


thành công nhất của nhân vật. Những phương diện được lựa chọn thể hiện trên sơ

đồ không chỉ biểu hiện vẻ đẹp của chính nhân vật. Điều quan trọng hơn là qua các
phương diện của nhân vật được thể hiện trên sơ đồ, học sinh thấy được chủ đề, tư
tưởng của tác phẩm cũng như ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Vì vậy, điều quan
trọng là giáo viên phải hướng dẫn HS lựa chọn và xây dựng sơ đồ phù hợp với
từng nhân vật khác nhau trong từng tác phẩm hoặc trong những tác phẩm khác
nhau và điều nhà văn phản ánh thơng qua nhân vật. Ví dụ sơ đồ thể hiện nhân vật
bà Hiền với nhân vật người cháu trong Một người Hà Nội là khác nhau, sơ đồ thể
hiện nhân vật bà Hiền chủ yếu tập trung vào nét tính cách của bà Hiền tương ứng
với bốn tình huống truyện, sơ đồ thể hiện nhân vật người cháu tập trung vào sự
"tiệm ngộ", nhận thức của anh về người cơ của mình.
Khi dạy học truyện ngắn Một người Hà Nội - Nguyễn Khải, giáo viên hướng dẫn
học sinh phân tích hình tượng nhân vật cơ Hiền qua câu chuyện của nhân vật "Tôi"
bằng cách yêu cầu học sinh hồn thiện sơ đồ:
Thời gian

Nhân vật cơ Hiền - Một người Hà Hành trình nhận thức của
Nội

nhân vật "Tơi"

Trước 1955
Hịa bình lập lại
Trong thời kỳ
kháng

chiến

chống Mĩ
Đất nước bước
vào nền kinh tế

thị trường
Kết luận
Để hoàn thành sơ đồ, học sinh cần tìm các nội dung liên quan của vấn đề.
Các nội dung này đều nằm trong văn bản trong sách giáo khoa, học sinh tìm và
gạch chân các chi tiết chính, sau đó sẽ sắp xếp lại các nội dung đó vào sơ đồ cho
phù hợp. Qua những nội dung đã trình bày, các em sẽ khái quát được vẻ đẹp của
hình tượng nhân vật cơ Hiền, rằng qua thời gian, qua sự biến thiên của thời thế
11

skkn


nhưng cô Hiền vẫn giữ được cốt cách của người Hà Nội, đó là một con người bản
lĩnh, tự tin, trung thực và giàu lòng tự trọng. Đối với nhân vật "Tơi", qua thời gian
nhân vật "Tơi" đã có sự thay đổi trong nhận thức về người cơ của mình, càng ngày
càng hiểu rõ hơn, đầy đủ hơn về lối sống của con người Hà Nội, về văn hóa Hà
Nội.
Trong khi tìm hiểu, phân tích nhân vật thì diễn biến tâm lý nhân vật là một
phương diện vô cùng quan trọng. Qua phương diện này, học sinh bộc lộ được tính
cách của mình. giáo viên có thể hướng dẫn học sinh xây dựng sơ đồ để tái hiện
diễn biến tâm lý của nhân vật, từ đó đi vào tìm hiểu chi tiết trở nên dễ dàng và
thuận lợi hơn
Nhân vật cơ

Trong kháng

Trong thời kì

Hiền


chiến chống Mĩ

đổi mới

Vẻ đẹp của cơ

Qua cảm nhận

Qua cảm nhận

Hiền

của người cháu

của “ Tôi”

Đi từ ngoại cảnh, trải qua những biến cố lịch sử xã hội để tìm ra vẻ đẹp
đích thực của Người Hà Nội

Trong q trình phân tích nhân vật, việc sử dụng sơ đồ, bảng biểu nhằm tái
hiện nhân vật đã mang lại tác động tích cực. Tất cả các yếu tố như ngoại hình, tâm
lý, tính cách, số phận và cả những suy tư sâu kín trong lịng nhân vật đều được tái
hiện dưới dạng trực quan sinh động, nhờ đó học sinh dễ dàng chiếm lĩnh tri thức,
mặt khác những tri thức này được các em khắc sâu và nhớ lâu vấn đề. Đồng thời,
các em được tự do thể hiện sự sáng tạo, phát huy tinh thần tích cực, chủ động
trong giờ học. Tuy nhiên, trong dạy học tác phẩm văn chương, giáo viên không
được lạm dụng phương pháp này, bởi vì sơ đồ bảng biểu mặc dù là những công cụ
dạy học mang lại hiệu quả cao nhưng hạn chế của những công cụ này trong dạy
12


skkn


học Ngữ văn là hạn chế khả năng cảm thụ và xúc cảm thẩm mĩ của người học. Vì
thế, giáo viên cần tạo cho học sinh cơ hội trình bày xúc cảm, suy nghĩ, đánh giá
của mình về các vấn đề được nêu trong tác phẩm. Việc làm này vừa giúp HS nắm
bắt kiến thức về nhân vật mà còn có những rung động thẩm mĩ, những thái độ và
đánh giá về nhân vật trong tác phẩm.
3.5 Sử dụng sơ đồ, bảng biểu trong hoạt động học tập cá nhân
Ở bất kỳ môn học nào, nếu học sinh chuẩn bị bài trước khi đến lớp thì nhất
định các em sẽ tiếp thu kiến thức nhanh hơn khi giáo viên truyền đạt. Môn Ngữ
văn không phải ngoại lệ. Việc chuẩn bị bài trước ở nhà sẽ giúp các em nắm bắt
vấn đề nhanh hơn, cảm thụ tác phẩm sâu sắc hơn.
Từ thực tế giảng dạy cho thấy, công tác chuẩn bị bài trước khi đến
lớp của học sinh rất bị coi nhẹ. Đối với học sinh, các em chưa ý thức được tầm
quan trọng của việc chuẩn bị bài trước khi đến lớp, mặt khác, do các em ngày càng
chán học văn, quay lưng lại với môn văn, nên việc chuẩn bị bài trước khi đến lớp
của HS chỉ mang tính chấtqua loa, đối phó. Các em soạn bài ở nhà chỉ mang tính
cảm tính, suy nghĩ vấn đề trong tác phẩm một cách đơn giản, nơng cạn và nghĩ gì
viết nấy, thậm chí các em chép lại từ các tài liệu tham khảo mà khi chép xong
khơng hiểu gì, khơng biết mình chép những gì. Đối với giáo viên, đa số các thầy
cơ ít quan tâm đến cơng việc chuẩn bị bài của học sinh, hoặc quan tâm thì chỉ tìm
hiểu xem các em đã soạn bài hay chưa mà chưa thực sự chú ý đến chất lượng. Mỗi
khi kết thúc bài dạy, giáo viên cũng chưa thực sự chú ý đến việc giao bài tập thực
hành hoặc củng cố kiến thức cho học sinh. Một trong những nguyên nhân của tình
trạng trên là do thời gian hạn chế so với lượng kiến thức cần truyền đạt trong một
giờ học, vì vậy, với 45 phút, các thầy cơ chỉ sắp xếp được thời gian truyền đạt
những nội dung cơ bản của một bài học, thậm chí có những giờ học cịn cháy giáo
án. Nhưng có một ngun nhân quan trọng hơn, đó là đa số các thầy cơ hiện nay
khơng cịn mặn mà với chun mơn, lên lớp dạy học vì nhiệm vụ chứ khơng bằng

niềm say mê nghề nghiệp, say mê văn chương. Điều này khiến một bộ phận lớn
các thầy cơ giáo ít quan tâm đến vấn đề học tập của học sinh, trong đó có hoạt
động học tập cá nhân. Cả hai nguyên nhân từ phía học sinh và giáo viên dẫn đến
hoạt động tự học của học sinh chưa hiệu quả.
13

skkn


Thái độ tự học không nghiêm túc của học sinh khiến hoạt động giảng dạy
trên lớp của giáo viên gặp nhiều khó khăn. Một giờ học với lượng thời gian là 45
phút, nếu giáo viên còn phải dành thời gian cho việc đọc tác phẩm thì thời gian
phân tích tác phẩm, thời gian liện hệ các vấn đề trong tác phẩm với hiện thực đời
sống, thời gian cho các em học sinh trình bày, cảm xúc, suy nghĩ, đánh giá về các
vấn đề của tác phẩm sẽ bị rút ngắn lại...dẫn đến tác phẩm không được khai thác
một cách tỉ mỉ, sâu sắc.
Qua những lần trao đổi trực tiếp với học sinh lớp 12 về nguyên nhân tại sao
các em khơng soạn bài hoặc soạn bài mang tính đối phó trước khi đến lớp, bên
cạnh những lý do mang tính tiêu cực như khơng thích học Văn, khơng biết trả lời
câu hỏi...cũng có những lý do chúng tơi có thể chấp nhận được, đó là số mơn cần
phải học với lượng kiến thức tương đối lớn, mặt khác, bước vào năm học cuối cấp,
các em chỉ muốn tập trung cho các mơn mình sẽ dự thi trong kỳ thi đại học, trong
khi đó hiện nay đa số học sinh tập trung vào ban tự nhiên, vì thế thời gian dành
cho các mơn xã hội rất ít. Để khắc phục tình trạng trên, chúng tôi nhận thấy việc
định hướng cho học sinh xây dựng và sử dụng sơ đồ, bảng biểu vào công việc
chuẩn bị bài ở nhà của học sinh là việc làm rất cần thiết, không chỉ giúp các em
tiết kiệm thời gian để học những môn khác mà còn giúp các em hiểu vấn đề và lưu
giữ kiến thức nhanh hơn, lâu hơn.
Trong hoạt động học tập cá nhân, giáo viên có thể định hướng cho học sinh
sử dụng sơ đồ để trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn tìm hiểu bài. Tùy vào

từng yêu cầu của từng câu hỏi, các em sẽ lựa chọn những dạng sơ đồ khác nhau để
trình bày câu trả lời của mình. Bên cạnh việc trả lời các câu hỏi trong sách giáo
khoa, các em có thể tự học theo cách hiểu của mình như tự tóm tắt cốt truyện bằng
sơ đồ, phân tích nhân vật bằng sơ đồ, tìm hiểu ý nghĩa của những biểu tượng trong
tác phẩm bằng sơ đồ...Ví dụ, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tìm hiểu ý nghĩa
biểu tượng của chiếc thuyền trong Một người Hà Nội của Nguyễn Khải như sau:

Biểu hiện

Cô Hiền
14

skkn


Biểu hiện bên ngồi Chiều sâu tâm hồn
Người cháu

Cách nhìn
Nhận thức

Quan niệm nghệ
thuật của nhà văn
Từ những hiểu biết ban đầu từ hoạt động đọc, phân tích và cắt nghĩa tác
phẩm trước khi đến lớp, học sinh sẽ hoàn thiện sơ đồ. Khi đến lớp, giáo viên sẽ
dựa vào sự chuẩn bị của các em để điều chỉnh, bổ sung cho các em những nội
dung kiến thức cần thiết qua hoạt động dạy học.
Sử dụng sơ đồ, bảng biểu trong hoạt động học tập cá nhân đã khắc phục
được những hạn chế trong khâu chuẩn bị bài của học sinh. Bởi vì, để xây dựng
được những sơ đồ, bảng biểu trong quá trình học tập, học sinh phải đọc kỹ tác

phẩm, phải khai thác tác phẩm một cách tỉ mỉ, rõ ràng, thấu đáo nhằm tìm ra mối
liên hệ của các vấn đề được nêu ra trong tác phẩm chứ không thể đọc qua loa, hời
hợt. Bằng năng lực tư duy, năng lực sáng tạo ở mỗi cá nhân, các em sẽ lựa chọn
những dạng sơ đồ mình cho là phù hợp. Từ những sơ đồ, bảng biểu các em trình
bày, giáo viên sẽ có cơ sở đánh giá ý thức tự học, đánh giá năng lực và phân loại
học sinh.
Như vậy, định hướng cho học sinh sử dụng sơ đồ, bảng biểu trong
hoạt động học tập cá nhân là việc làm rất cần thiết nhằm nâng cao chất lượng dạy
học truyện ngắn Việt Nam sau 1975, góp phần quan trọng trong việc đổi mới
phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường phổ thơng. Vì vậy, giáo viên nên chú
trọng hơn tới công việc chuẩn bị bài trước khi đến lớp và thực hành luyện tập sau
mỗi giờ học của học sinh, chú trọng tới công tác ra bài tập về nhà. Bên cạnh đó,
giáo viên cần có thái độ nghiêm túc, tôn trọng mọi sự sáng tạo, tôn trọng những
suy nghĩ, ý kiến các nhân của học sinh khi xây dựng sơ đồ, bảng biểu.
3.6 Sử dụng sơ đồ, bảng biểu trong quá trình học tập hợp tác

15

skkn


Học tập hợp tác là một phương pháp dạy học tiến bộ hiện nay đang
được áp dụng tại hầu khắp các trường phổ thông ở nước ta. Trong dạy học Ngữ
văn, học hợp tác đã tạo cơ hội cho học sinh giúp đỡ, chia sẻ khó khăn và cùng
nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng cách nói ra những điều mình đang nghĩ, mỗi
người có thể nhận ra trình độ hiểu biết của mình về vấn đề đưa ra, thấy mình cần
học hỏi thêm những gì ở bạn bè. Bài học trở thành q trình học hỏi lẫn nhau chứ
khơng phải sự tiếp nhận thụ động một chiều từ phía giáo viên.
Có thể nói, dạy và học theo hình thức học tập hợp tác nuôi dưỡng một môi
trường học tập sơi nổi. Nó tạo ra cơ hội cho từng thành viên trình bày suy nghĩ,

hiểu biết, thái độ của mình; được tập thể uốn nắn và điều chỉnh, tạo niềm vui và sự
hứng thú trong học tập, tránh được hiện tượng ỷ lại, tính cách năng lực của từng
thành viên được bộc lộ, học sinh sẽ năng động hơn, tự tin hơn.
Đối với dạy học truyện ngắn Việt Nam sau 1975, cụ thể là dạy học Một
người Hà Nội - Nguyễn Khải , phương pháp học tập hợp tác càng được phát huy
tác dụng khi hai truyện ngắn cùng có một đặc điểm chung rất thích hợp cho
phương pháp học này, đó là tính chất đối thoại của truyện.
Hiện nay, trong suy nghĩ của nhiều giáo viên và học sinh, học tập hợp tác
chỉ diễn giữa các học sinh với nhau, tuy nhiên hiểu này chưa thực sự hợp lý. Học
tập hợp tác có thể diễn ra giữa các học sinh với nhau trong hoạt động tự học trước
khi đến lớp, hợp tác trong các giờ học ngoại khóa hoặc hợp tác với nhau trong giờ
học chính khóa. Ngồi ra, học hợp tác còn diễn ra giữa giáo viên với học sinh, đó
là khi giáo viên tổ chức hạt động dạy học và là người hướng dẫn học sinh chiếm
lĩnh tri thức.
Kết quả làm việc của các nhóm sẽ được thể hiện dưới dạng sơ đồ, bảng
biểu. Giáo viên có thể đưa ra mẫu sơ đồ để học sinh thảo luận:
Để tiết kiệm thời gian, giáo viên có thể chuẩn bị phiếu học tập để học sinh
trình bày nội dung và ý kiến của mình. Quá trình thảo luận trên lớp, giáo viên cho
học sinh trao đổi những phiếu học tập và tiến hành thảo luận. Dưới đây là dạng sơ
đồ dự kiến học sinh có thể xây dựng:
Nhân vật cô Hiền

Đánh giá của HS A

Đánh giá của HS B
16

skkn



Hành động

- Việc hôn nhân:

=> Qua điều này Cô Hiền “ một hạt

khi cịn trẻ cơ là thấy cơ khơng ham bụi vàng của người
một cô gái xinh danh lợi, nghiêm túc Hà

Nội”

đẹp, giao lưu với trong hôn nhân

- “ hạt bụi”: nhỏ bé,

nhiều hạng người

tầm

nhưng

chọn

- “ hạt bụi vàng”: dù

người chồng “ là

nhỏ bé, tầm thường

một ông giáo cấp


nhưng rất có giá trị

tiểu học hiền lành,

=> Cơ Hiền là một

chăm chỉ”

người Hà Nội bình



thường

thương nhưng mang
nét đẹp tinh hoa
trong

bản

chất

người



Nội

3.7 Sử dụng sơ đồ, bảng biểu trong q trình ơn tập và kiểm tra, đánh giá


* Sử dụng sơ đồ, bảng biểu trong q trình ơn tập
Ơn tập kiến thức là việc làm vô cùng cần thiết đối với bất kỳ môn học nào ở
nhà trường phổ thông. Hoạt động này nhằm mục đích củng cố, hồn thiện, hệ
thống hóa những tri thức kỹ năng, kỹ xảo đã đạt được, đồng thời ôn tập là cơ sở tái
hiện và vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học. Việc ôn tập có thể diễn ra hàng ngày
sau từng bài học, có thể diễn ra sau khi học xong một chương, một phần và sau khi
học hết một mơn....Ơn tập có thể diễn ra trên lớp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của giáo
viên hoặc ơn tập ngồi giờ lên lớp được diễn ra khi khơng có sự hướng dẫn trực
tiếp của giáo viên. Học sinh tự ôn tập dựa trên cơ sở những cách thức ôn tập mà
giáo viên đã hướng dẫn hoặc dựa vào những bài tập mà giáo viên giao về nhà.
Hoạt động ôn tập nếu được thực hiện tốt thì học sinh khơng những củng cố lại

17

skkn


được kiến thức đã học mà còn được cấu trúc lại và ghi nhớ, vận dụng theo phương
pháp sáng tạo hơn.
Hoạt động ôn tập trong dạy học Ngữ văn được tiến hành dưới nhiều hình thức
khác nhau, cụ thể như:
Ơn tập thông qua trả lời các câu hỏi, làm các bài tập luyện tập dưới dạng tự
luận.
Ơn tập thơng qua lập sơ đồ tư duy, lập bảng tóm tắt từng nội dung được phản
ánh trong một tác phẩm hay toàn nội dung trong một bài học hoặc trong một giai
đoạn văn học.
Qua thực tế giảng dạy, chúng tôi nhận thấy hình thức ơn tập thơng qua lập
sơ đồ tư duy và lập bảng tóm tắt các đơn vị kiến thức là hình thức ơn tập mang lại
hiệu quả cao hơn so với những hình thức ơn tập khác. Bởi vì, kiến thức trong sơ

đồ, bảng biểu luôn luôn được mã hóa bằng những ngơn từ ngắn gọn, rõ ràng, súc
tích, học sinh có thể tri giác trực tiếp bằng các giác quan. Qua việc lập sơ đồ kiến
thức và các bảng tóm tắt, học sinh sẽ ghi nhớ kiến thức nhanh, lâu dài và có thể tái
hiện nhanh chóng, chính xác. Hơn nữa, với lượng kiến thức khổng lồ trong khoảng
thời gian ngắn, học sinh có thể khái quát được nhiều đội dung khác nhau và dễ
dàng liên hệ giữa các đơn vị kiến thức đó. Từ đó, các em có cái nhìn tổng thể về
vấn đề. Hoặc khi tổ chức ôn tập Một người Hà Nội - Nguyễn Khải, giáo viên có
thể định hướng cho học sinh khái quát hành trình nhận thức của nhân vật "Tơi" về
người cơ - cô Hiền bằng sơ đồ. Dưới đây là dự kiến dạng sơ đồ có thể hồn thiện:

18

skkn


Là người gắn bó và chứng kiến
cuộc đời bà Hiền nên nhân vật tôi
cảm thấy nghi ngại

- Phát hiện ra sự từng trải, lịch
lãm, bản lĩnh của bà Hiền nhưng
vẫn cịn những băn khoăn, nghi
ngại, khơng tin cậy.
- Khâm phục khi phát hiện bà
Hiền có đầu óc thực tế, biết tính
tốn

Hành trình nhận thức của nhân vật
"Tơi"
Hồi nghi, lo âu, khơng tin họ cịn

giữ được nét hào hoa, thanh lịch
của đất kinh kì.

Vỡ lẽ ra vẻ đẹp của bà Hiền
(thống nhất giữa tình yêu gia
đình và tình yêu Tổ quốc).

Nhìn nhận, đánh giá con người trong bản chất vơn có
của cuộc sống đời thường

Việc sử dụng sơ đồ, bảng biểu trong q trình ơn tập đã đem đến những hiệu quả
tích cực. học sinh một lần nữa được khắc sâu kiến thức. Tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của học sinh được phát huy tối đa. Vì thế, các phương tiện trực quan này
cần được sử dụng thường xuyên trong q trình ơn tập.
4. Đánh giá kết quả thực nghiệm
4.1 Mục đích, nội dung đánh giá
So sánh tác dụng, kết quả của lớp sử dụng giáo án thực nghiệm với lớp đối chứng
Tính khả thi của việc sử dụng sơ đồ, bảng biểu vào giảng dạy truyện ngắn Việt
Nam sau 1975 ở trường THPT.
4.2 Phương pháp đánh giá
Chúng tôi đánh giá dựa trên những căn cứ về kết quả của giờ dạy thực
nghiệm sử dụng sơ đồ, bảng biểu: Giáo viên hoàn thành bài giảng đúng giờ, đúng
giáo án, học sinh hiểu bài, hăng hái tham gia xây dựng bài. Đặc biệt, chúng tôi chú
ý đến hiệu quả của giáo án thực nghiệm thông qua các câu hỏi kiểm tra thực
nghiệm. Sau khi kiểm tra, chúng tôi tiến hành thống kê, đối chiếu kết quả thực
nghiệm của các lớp với nhau.
4.3 Thống kê kết quả thực nghiệm
19

skkn



Kết quả
Giỏi
Khá
T.bình
Yếu

BẢNG THỐNG KÊ KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
Thực nghiệm
Đối chứng
12A6 (40)
12A7 (40)
12A5 (41)
12A4(40)
5 (12,5%)
6 (15%)
3 (7,3%)
2 (5%)
21 (52,5%)
19 (47,5%)
14(34,2%)
15 (37,5%)
12 (30%)
14 (35%)
20 (48,7%)
18 (45%)
2 (5%)
1 (2,5%)
4 (9,8%)

5(12,5%)

BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
Kết quả
Thực nghiệm (80)
Đối chứng (81)
Giỏi
11 (13,7%)
5 (6,2%)
Khá
40 (50%)
29 (35,7%)
T.bình
26 (32,5%)
38 (47%)
Yếu
3 (3,8%)
9 (11,1%)
4.4 Kết quả thực nghiệm
Do thời gian thực nghiệm cịn hạn chế nên chúng tơi mới chỉ tiến hành thực
nghiệm đề tài tại 2 lớp ở trường THPT Triệu Sơn 5. Mặc dù kết quả thực nghiệm
này chưa phải là cơ sở để khẳng định sự thành công của đề tài nhưng bước đầu đã
cho thấy việc sử dụng sơ đồ, bảng biểu mang lại nhiều lợi thế trong việc đổi mới
phương pháp dạy học và nâng vao chất lượng dạy học Ngữ văn ở trường phổ
thông.
Từ kết quả thống kê, chúng tôi rút ra kết luận sau:
- Kết quả lớp thực nghiệm cao hơn lớp đối chứng. Điều này dựa vào kết quả
kiểm tra phiếu thực nghiệm: Sau khi kiểm tra, số học sinh có điểm khá giỏi tăng
lên, số học sinh có điểm trung bình, yếu có xu hướng giảm so với lớp đối chứng.
Trong giờ học, các em tích cực tham gia xây dựng bài, các em hứng thú hơn khi

được giao nhiệm vụ hoàn thiện sơ đồ, bảng biểu và tự mình hình thành những sơ
đồ, bảng biêu tương ứng với nội dung kiến thức trong bài học. Tính sáng tạo của
các em được phát huy tối đa. Kiến thức được học sinh nắm bắt nhanh, hiểu kỹ và
ghi nhớ lâu dài.
Từ kết quả thực nghiệm trên đây, chúng tôi khẳng định việc sử dụng sơ đồ,
bảng biểu trong dạy học truyện ngắn nói chung, dạy học truyện ngắn “Chiếc
thuyền ngồi xa” ở trường phổ thông là vô cùng cần thiết. Đây là một phương
pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và hướng tới phát triển
năng lực người học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn ở trường
THPT.

20

skkn



×