Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Một số biện pháp rút ngắn khoảng cách lịch sử văn hoá ở học sinh dân tộc miền núi khi dạy học truyện ngắn Một người Hà Nội của nhà văn Nguyễn Khải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (841.28 KB, 53 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
-----------------------

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
-----------------------

NGUYỄN NGỌC THỦY

“Một số biện pháp rút ngắn khoảng cách lịch sử - văn hoá
ở học sinh dân tộc miền núi khi dạy học truyện ngắn “Một
người Hà Nội” của nhà văn Nguyễn Khải

NGUYỄN NGỌC THỦY

“Một số biện pháp rút ngắn khoảng cách lịch sử - văn hoá
ở học sinh dân tộc miền núi khi dạy học truyện ngắn “Một
người Hà Nội” của nhà văn Nguyễn Khải

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Chuy ên ng ành: Lý luận phương pháp dạy học V ăn
Mã số
: 60 14 10

Thái Nguyên - Năm 2009


Thái Nguyên - Năm 2009

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

http:// www.lrc-tnu.edu.vn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

http:// www.lrc-tnu.edu.vn


sinh dân tộc miền núi khi dạy học truyện ngắn “Một người Hà Nội”.

57

2.3.1 Biện pháp 1. Thăm dò khả năng tiếp nhận của học sinh

MỤC LỤC
Trang

trước khi dạy học truyện ngắn “Một người Hà Nội”. . . . . . . .. .

1. Lí do chọn đề tài . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

3

2.3.2 Biện pháp 2. Trang bị kiến thức lịch sử - văn hóa Hà Nội

2. Lịch sử vấn đề. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .


5

cho học sinh dân tộc miền núi khi dạy học “Một người Hà Nội” .

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

9

2.3.3 Biện pháp 3. Bồi dưỡng cảm xúc thẩm mĩ cho học sinh khi

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

10

dạy học “Một người Hà Nội” . . . . . . . . . . . . .. . .. . . . . . . . . . . . .

5. Phương pháp nghiên cứu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

10

2.3.4 Biện pháp 4. Tổ chức hoạt động thực tế văn học giúp học

6. Giả thuyết khoa học. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

11

sinh dân tộc miền núi hiểu về Hà Nội. . . . . . . . . . .. . .. . . . . . . . . .

7. Cấu trúc luận văn . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .


11

2.3.5 Biện pháp 5. Tổ chức hoạt động ngoại khóa văn học cho học

PHẦN MỞ ĐẦU

sinh tìm hiểu về hình tượng tác giả trong “Một người Hà Nội” . . .

PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1. MỘT SỐ TIỀN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA

Chƣơng 3 . THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM. . . . . .. . .. . . . . . . . . . . .

57

58

63

66

67
71

VẤN ĐỀ RÚT NGẮN KHOẢNG CÁCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA

3.1 Thiết kế bài dạy. . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . .. . . . . . . . . . . . . . . . . .

71


Ở HỌC SINH DÂN TỘC MIỀN NÚI KHI HỌC TÁC PHẨM

3.1.1 Thiết kế bài dạy. . . . . . . . . . . . .. . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . ...

71

VĂN CHƢƠNG. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

13

3.1.2 Giải thích thiết kế. . . . . . . . . . . . .. . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

88

1.1 Lý thuyết tiếp nhận văn học. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

13

3.2 Dạy thực nghiệm. . . . . . . . . . . . .. . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

92

1.2 Học sinh dân tộc miền núi và khoảng cách lịch sử - văn hố.. . . .

15

3.2.1 Mục đích thực nghiệm. . . . . . . . . . . . .. . .. . . . . . . . . . . . . . . .

92


1.3 Sáng tác của Nguyễn Khải và truyện ngắn “Một người Hà Nội”

17

3.2.2 Đối tượng, địa điểm, thời gian thực nghiệm. . . . . . . . . . . . .. .

92

Chƣơng 2. KHOẢNG CÁCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA Ở HỌC

3.2.3 Kết quả thực nghiệm. . . . . . . . . . . . .. . .. . . . . . . . . . . . . . . . .

93

SINH DÂN TỘC MIỀN NÚI KHI HỌC TRUYỆN NGẮN

PHẦN KẾT LUẬN. . . . . . . . . . . . .. . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

96

“MỘT NGƯỜI HÀ NỘI” CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN KHẢI VÀ

TÀI LIỆU THAM KHẢO. . . . . . . . . .. . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 101

BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

41

PHỤ LỤC


2.1 Khảo sát những khoảng cách lịch sử - văn hóa ở học sinh dân tộc
miền núi khi học truyện ngắn “Một người Hà Nội” . . . . . . . . . . . . . .

41

2.2 Nguyên nhân tạo ra những khoảng cách lịch sử - văn hoá giữa tác
phẩm "Một người Hà Nội" với bạn đọc - học sinh dân tộc miền núi . . 49
2.3 Một số biện pháp rút ngắn khoảng cách lịch sử - văn hóa ở học

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

1

http:// www.lrc-tnu.edu.vn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

2

http:// www.lrc-tnu.edu.vn


học văn hố phổ thơng. Sau 3 năm học tập, với kiến thức tiếp thu được trên ghế
nhà trường, các em sẽ có vốn kiến thức phổ thơng làm cơ sở cho việc tiếp tục

PHẦN MỞ ĐẦU

học tập trong các trường Công an để sau khi ra trường các em sẽ trở thành nguồn

1. Lí do chọn đề tài

1.1 Khoảng cách trong tiếp nhận văn chương là một hiện tượng phổ biến

cán bộ cốt cán cho việc bảo vệ an ninh quốc gia vùng biên giới của tổ quốc.

trong đời sống văn học, nó tồn tại khơng chỉ ở những độc giả bình thường mà có

Qua thực tế giảng dạy, chúng tơi nhận thấy ở các em có một khoảng cách,

cả ở những độc giả có trình độ cao. Khoảng cách đó biểu hiện ở nhiều phương

một khoảng trống khá lớn khi tiếp nhận tác phẩm văn học nghệ thuật, khoảng

diện khác nhau: giữa bạn đọc với tác phẩm; giữa bạn đọc với bạn đọc; giữa các

cách này thể hiện rõ hơn trong q trình chúng tơi hướng dẫn các em khám phá

nhà nghiên cứu, phê bình với nhau và khoảng cách đó cịn có ở chính bản thân

vẻ đẹp của tác phẩm văn học viết về miền xi. Có những chi tiết tưởng như đơn

mỗi bạn đọc. Vấn đề là khoảng cách tiếp nhận ấy lớn hay nhỏ còn phụ thuộc vào

giản, dễ hiểu đối với nhận thức của học sinh miền xi thì lại vơ cùng xa lạ, khó

các yếu tố như: tâm lý, điều kiện kinh tế, hồn cảnh xã hội và mơi trường sinh

hiểu đối với sự nhận thức của các em học sinh miền núi. Và càng khó hiểu, khó

sống. Trong dạy học tác phẩm văn chương, việc xác định được khoảng cách tiếp


tiếp nhận hơn đối với các em học sinh là người dân tộc thiểu số ở miền núi.Thực

nhận ở học sinh là một việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết, cơng việc đó

tế đó đã thơi thúc chúng tơi - những giáo viên giảng dạy văn hóa trong một ngơi

giúp người giáo viên xác định được đối tượng tiếp nhận của mình để từ đó đề ra

trường đào tạo con em các dân tộc ở miền núi phía Bắc phải tìm cho được một

những biện pháp giảng dạy phù hợp với khả năng nhận thức của học sinh nhằm

con đường, một phương pháp giảng dạy phù hợp.

nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ

Vì vậy, chọn đề tài nghiên cứu: “Một số biện pháp rút ngắn khoảng cách
lịch sử - văn hoá ở học sinh dân tộc miền núi khi dạy học truyện ngắn “Một

thông .
1.2 Đất nước ta là một quốc gia đa dân tộc, có 54 dân tộc anh em sinh sống

người Hà Nội” của nhà văn Nguyễn Khải là trước hết chúng tôi “tự cứu lấy

trên khắp mọi miền của tổ quốc kéo dài từ địa đầu Hà Giang đến mũi Cà Mau xa

mình”, tự tìm cho mình một con đường, một phương pháp giảng dạy phù hợp để

xơi, mỗi dân tộc có một phong tục tập qn riêng, một nét đẹp văn hoá riêng.


dẫn dắt học sinh dân tộc thiểu số miền núi thâm nhập vào tác phẩm văn chương

Điều kiện sinh sống và những ảnh hưởng của môi trường tự nhiên đã tạo nên nét

viết về miền xi để cảm, để hiểu về nó một cách đầy đủ và sâu sắc. Mặt khác,

đặc trưng riêng biệt ở mỗi vùng, miền khác nhau. Sự khác nhau ấy cịn thể hiện

chúng tơi cũng mong muốn góp một phần nhỏ bé cơng sức của mình vào việc

giữa người miền núi với người miền xuôi, giữa người dân tộc thiểu số với người

giúp các bạn đồng nghiệp thực thi có hiệu quả chương trình sách giáo khoa Ngữ

dân tộc đa số, giữa bạn đọc - học sinh miền núi với bạn đọc - học sinh miền xuôi

Văn 12 mới, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của việc dạy học Ngữ văn trong

khi tiếp nhận tác phẩm văn chương nghệ thuật.

nhà trường phổ thông hiện nay cho đối tượng học sinh là người dân tộc thiểu số.

Trường Văn hoá I - Bộ Công an - Thái Nguyên (nơi tôi đang giảng dạy môn

1.3 Nguyễn Khải là một nhà văn trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống

Ngữ văn) cho đối tượng học sinh là con em các dân tộc thiểu số vốn sinh sống ở

thực dân Pháp. Cả đời văn với hơn 40 năm lao động nghệ thuật, ông đã để lại


các tỉnh miền núi từ Hà Giang đến Quảng Trị. Các em được chiêu sinh về đây

cho đời một số lượng tác phẩm đồ sộ với một giá trị nhân sinh sâu sắc, người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

3

http:// www.lrc-tnu.edu.vn

4

http:// www.lrc-tnu.edu.vn


đọc hôm nay nhớ về nhà văn Nguyễn Khải, trân trọng tài năng một nhà văn -

Nghiên cứu về vấn đề dạy học văn ở miền núi, đặc điểm cảm thụ của học

một người lính là ở phong cách một nhà văn có sở trường về những truyện ngắn,

sinh dân tộc thiểu số miền núi đã có một số người quan tâm. Đặc biệt là những

một nhà văn luôn theo sát lịch sử dân tộc với những bước chuyển của thời đại để

cơng trình của các thầy cơ giáo trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, nơi đào

viết, để ca ngợi con người.


tạo đội ngũ giáo viên Trung học cơ sở và Trung học phổ thơng cho các tỉnh miền

Tìm hiểu về đời văn, đời người của nhà văn Nguyễn Khải thực tế đã có một

núi Việt Bắc và Tây Bắc của tổ quốc. Trải qua hơn 40 năm xây dựng và trưởng

số cơng trình nghiên cứu và một số nhà sư phạm quan tâm. Đặc biệt là nghiên

thành, nhà trường đã có nhiều đóng góp vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo ở các

cứu khoảng cách trong tiếp nhận tác phẩm văn học của bạn đọc - học sinh miền

tỉnh miền núi. Chúng ta có thể kể đến các cơng trình nghiên cứu và các tạp chí

núi như: nghiên cứu khoảng cách tiếp nhận thơ trung đại, nghiên cứu khoảng

của các tác giả như:

cách tiếp nhận thơ kháng chiến của đối tượng là học sinh dân tộc miền núi...
nhưng nghiên cứu khoảng cách tiếp nhận về truyện ngắn hiện đại đối với học
sinh là người dân tộc miền núi thì chưa có cơng trình nghiên cứu nào. Đặc biệt
nghiên cứu Khoảng cách lịch sử - văn hoá ở học sinh dân tộc thiểu số miền
núi khi tiếp nhận một tác phẩm truyện hiện đại lại càng chưa có cơng trình nào
cơng bố.

- Dạy văn và học văn ở miền núi (Đề tài nghiên cứu cấp trường) của 2 tác
giả Trần Thế Phiệt - Vi Hồng, 1990 - 1991.
- Vài nhận xét về đặc điểm cảm thụ của học sinh dân tộc thiểu số miền núi,
tạp chí NCGD, số 9/1991 của tác giả Phùng Đức Hải.

- Dạy và học văn ở miền núi, tạp chí Văn học số 2/1992 của tác giả Vi
Hồng.

Mặt khác, nghiên cứu dạy học truyện ngắn “Một người Hà Nội” cũng có
một vài tác giả đề cập. Song, nghiên cứu sâu về dạy học tác phẩm “Một người
Hà Nội”- một truyện ngắn đặc sắc của Nguyễn Khải ở giai đoạn sáng tác từ sau
năm 1978 (tác phẩm mới được đưa vào chương trình Sách giáo khoa Ngữ Văn
12 - chương trình thực thi đại trà từ năm học 2008 - 2009) cho đối tượng học
sinh là người dân tộc thiểu số thì chưa có tác giả nào. Vì mới được đưa vào

- Từ những bài thi vào đại học 1993 ta biết được những gì về dạy và học
văn ở miền núi của tác giả Hồng Hữu Bội, tạp chí Văn học tháng 3/ 1993.
- Dạy và học thơ cổ ở trường cấp II - III miền núi của hai tác giả Phạm
Luận - Hoàng Hữu Bội, NXB Giáo dục, 1994.
- Dạy và học tác phẩm văn chương ở trường THPT miền núi của tác giả
Hồng Hữu Bội, NXB Giáo dục,1997.

chương trình nên tác phẩm có rất nhiều cách lí giải khác nhau, cách soạn giảng

- Những biện pháp hạn chế khoảng cách tiếp nhận Thơ kháng chiến Việt

của giáo viên và sự tiếp nhận của học sinh cũng khác nhau trong quá trình chiếm

Nam 1946 - 1954 ở học sinh Trung học phổ thông miền núi (Luận văn thạc sĩ

lĩnh văn bản tác phẩm. Mạnh dạn chọn vấn đề nghiên cứu khi còn đang có nhiều

khoa học giáo dục) của tác giả Lý Thị Mai Hương, năm 2002.

bàn cãi, chúng tơi muốn đóng góp một tiếng nói của mình vào việc giải quyết

những khó khăn, bỡ ngỡ ban đầu khi thực thi chương trình mới.

Nghiên cứu dạy học truyện ngắn “Một người Hà Nội” của nhà văn
Nguyễn Khải đã có những tác giả đề cập đến như cuốn:
- Sách giáo viên Ngữ văn 12, tập II (Bộ chuẩn) do Giáo sư Phan Trọng

2. Lịch sử vấn đề

Luận tổng chủ biên, NXB Giáo dục, 2008.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

5

http:// www.lrc-tnu.edu.vn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

6

http:// www.lrc-tnu.edu.vn


- Sách giáo viên Ngữ văn 12, tập II (Bộ nâng cao) do Giáo sư Trần Đình Sử
tổng chủ biên, NXB Giáo dục, 2008.

4. Tăng cường rèn luyện tư duy văn học cho học sinh miền núi.
5. Tăng cường khả năng tác động của văn chương đối với chủ thể tiếp nhận

- Thiết kế dạy học Ngữ văn 12 (Nâng cao) của tác giả Hoàng Hữu Bội,

NXB Giáo dục, 2008.

bằng các biện pháp đặc thù của giảng dạy văn học.
Ngoài ra, cơng trình nghiên cứu: “Những biện pháp hạn chế khoảng

- Thiết kế dạy học Ngữ văn 12 do Giáo sư Phan Trọng Luận tổng chủ biên,
NXB Giáo dục, 2008.

cách tiếp nhận Thơ kháng chiến Việt Nam 1946 - 1954 ở học sinh trung học
phổ thông miền núi” (Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục) của tác giả Lý Thị

- Giới thiệu giáo án Ngữ văn 12, tập II của Tác giả Nguyễn Khắc Đàm Nguyễn Lê Huân, NXB Hà Nội, 2008.

Mai Hương, Đại học Sư phạm Thái Nguyên, năm 2002 cũng đã đề cập đến
khoảng cách tiếp nhận thơ kháng chiến của học sinh trung học phổ thông ở miền

- Thiết kế bài giảng Ngữ văn 12, tập II của tác giả Nguyễn Văn Đường,
NXB Hà Nội, 2008.

núi của tỉnh Thái Nguyên, ngoài việc nghiên cứu những cơ sở lí luận về tiếp
nhận văn học và đặc điểm của thơ kháng chiến Việt Nam giai đoạn 1946 - 1954

- Kĩ năng đọc - hiểu văn bản Ngữ văn 12 của tác giả Nguyễn Kim Phong,
NXB Giáo dục, 2008.

làm tiền đề cho việc nghiên cứu phát hiện ra khoảng cách tiếp nhận của học sinh
về thơ kháng chiến Việt Nam, qua khảo sát thực tế cảm thụ và tiếp nhận của học

Trong các cơng trình nghiên cứu khoa học trên thì cơng trình của tác giả


sinh, tác giả phát hiện được những khoảng cách tiếp nhận đó ở học sinh là:

Hoàng Hữu Bội “Dạy và học tác phẩm văn chương ở trường THPT miền

- Khoảng cách về ngôn ngữ.

núi”, NXB Giáo dục, 1997 được đánh giá là một công trình khoa học có tính

- Khoảng cách về lịch sử - văn hóa

thực tiễn cao. Bằng kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm ở trường Đại học Sư

- Khoảng cách giữa chủ thể trữ tình với sự cảm nhận của học sinh miền núi.

phạm Việt Bắc (nay là Đại học Sư phạm Thái Nguyên) và với tâm huyết của

Từ đó, tác giả đề xuất một số biện pháp rút ngắn khoảng cách tiếp nhận thơ

một nhà giáo luôn trăn trở cho sự nghiệp giáo dục đào tạo ở miền núi, tác giả đã
đi sâu tìm hiểu từ trong thực tế dạy học văn ở các nhà trường Trung học phổ
thông miền núi để phát hiện ra những khó khăn trở ngại mà học sinh miền núi
gặp phải trong quá trình tiếp nhận tác phẩm văn chương nghệ thuật. Từ đó, tác
giả đề xuất những biện pháp hữu hiệu có tính khả thi và tìm ra con đường dẫn
dắt học sinh miền núi khám phá thế giới hình tượng trong tác phẩm văn chương
đó là:

1. Ni dưỡng và phát triển hứng thú của học sinh miền núi đối với thơ
kháng chiến.
2. Lấp dần khoảng cách về ngôn ngữ trong tiếp nhận thơ kháng chiến của
học sinh miền núi.

3. Trang bị cho học sinh vốn hiểu biết về lịch sử và văn hoá miền xuôi.
Đồng thời, cung cấp cho học sinh vốn hiểu biết về cuộc kháng chiến chống Pháp

1. Giải tỏa tâm lí mặc cảm khép kín ở học sinh miền núi.
2. Giúp học sinh miền núi vượt qua hàng rào ngôn ngữ.
3. Giúp học sinh miền núi rút ngắn khoảng cách lịch sử - văn hố.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

kháng chiến ở học sinh Trung học phổ thơng miền núi đó là:

7

http:// www.lrc-tnu.edu.vn

của nhân dân ta.
4. Giúp học sinh miền núi cảm nhận được vẻ đẹp của chủ thể trữ tình trong
thơ kháng chiến Việt Nam.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

8

http:// www.lrc-tnu.edu.vn


Cuối cùng, với 2 thiết kế thể nghiệm là bài thơ “Tây Tiến” của Quang
Dũng và bài thơ “Bên kia sơng Đuống” của Hồng Cầm, tác giả Lý Thị Mai
Hương đã thuyết phục người đọc về vấn đề đặt ra trong luận văn.
Một số bài viết khác được đăng trên tạp chí, tuỳ vào từng góc độ, từng khía


chú trọng đến những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn “Một
người Hà Nội”.
- Khảo sát những khoảng cách lịch sử - văn hoá ở học sinh các dân tộc
miền núi khi học tập tác phẩm đó.

cạnh mà mỗi tác giả đề cập đến những vấn đề cụ thể, song nhìn chung các tác

- Đề xuất một số biện pháp nhằm rút ngắn khoảng cách lịch sử - văn hóa ở

giả đều nêu lên đặc điểm tâm sinh lí của học sinh dân tộc miền núi, những khó

học sinh các dân tộc thiểu số miền núi trong quá trình tiếp nhận truyện ngắn

khăn của việc dạy học văn ở các nhà trường miền núi... Mỗi cách nhìn khác

“Một người Hà Nội”.

nhau, thành công và hạn chế cũng khác nhau nhưng mỗi vấn đề được các tác giả
đề cập đến đều rất thiết thực, có tính thực tiễn cao, góp thêm giải pháp vào vấn
đề dạy học văn ở nhà trường phổ thông miền núi hiện nay.

- Kiểm chứng bằng thiết kế thể nghiệm và dạy thực nghiệm.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tƣợng nghiên cứu

Vấn đề được nghiên cứu trong khuôn khổ của luận văn này là sự kế tiếp

Đối tượng nghiên cứu là những khoảng cách lịch sử - văn hoá mà học sinh


thành tựu của các cơng trình khoa học đi trước, đồng thời luận văn đi sâu nghiên

dân tộc thiểu số miền núi gặp phải trong quá trình tiếp nhận truyện ngắn “Một

cứu cụ thể về khoảng cách lịch sử - văn hoá và những khó khăn trở ngại mà học

người Hà Nội”.

sinh dân tộc miền núi gặp phải trong quá trình tiếp nhận một truyện ngắn hiện

4.2 Phạm vi nghiên cứu

đại viết về miền xuôi.

Phát hiện những khoảng cách lịch sử - văn hoá ở học sinh các dân tộc thiểu
số miền núi đang học tập tại trường Văn hoá I - Bộ Cơng an - Thái Ngun khi

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu

học truyện ngắn “Một người Hà Nội” trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12.

- Phát hiện ra những khoảng cách lịch sử - văn hoá ở học sinh các dân tộc

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

thiểu số miền núi khi học truyện ngắn “Một người Hà Nội”

Nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp rút ngắn khoảng cách lịch sử - văn


- Đề xuất một số biện pháp rút ngắn khoảng cách về lịch sử - văn hoá ở đối

hoá ở học sinh dân tộc miền núi khi dạy học truyện ngắn “Một người Hà

tượng học sinh này nhằm dạy học có hiệu quả truyện ngắn “Một người Hà Nội”

Nội” của nhà văn Nguyễn Khải” chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên

cho học sinh các dân tộc miền núi

cứu sau

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1 Phƣơng pháp tổng hợp lí luận

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, người nghiên cứu có nhiệm vụ:

Sử dụng phương pháp tổng hợp lí luận nhằm tìm hiểu những cơ sở lí luận

- Tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Khải qua hai giai đoạn sáng

về truyện ngắn, đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Khải ở hai giai đoạn sáng tác,

tác, nhất là những sáng tác trong thời kì đổi mới (từ năm 1978 về sau), trong đó

những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn “Một người Hà Nội”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

9

http:// www.lrc-tnu.edu.vn

10

http:// www.lrc-tnu.edu.vn


và đặc điểm cảm thụ văn học của học sinh miền núi qua các cơng trình đã được

Luận văn gồm 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.

cơng bố.

Phần mở đầu luận văn trình bày những vấn đề có tính định hướng làm cơ
sở cho việc nghiên cứu nội dung của đề tài: Lí do chọn đề tài, lịch sử vấn đề, đối

5.2 Phƣơng pháp thống kê
Sử dụng phương pháp thống kê Toán học để chúng tơi xử lí số liệu thu thập
được trong q trình điều tra khảo sát và quá trình thực nghiệm.

tượng - phạm vi nghiên cứu, mục đích - nhiệm vụ nghiên cứu, phương pháp nghiên
cứu, giả thuyết khoa học và chúng tơi trình bày tóm lược bố cục của luận văn.
Phần nội dung của luận văn có 3 chương:

5.3 Phƣơng pháp điều tra khảo sát
Sử dụng phương pháp này để chúng tôi phát hiện những khoảng cách lịch


Chƣơng 1. Một số tiền đề lí luận và thực tiễn của vấn đề rút ngắn khoảng cách

sử - văn hoá ở học sinh lớp 12 là người dân tộc thiểu số miền núi khi học truyện

lịch sử - văn hóa ở học sinh dân tộc miền núi khi học tác phẩm văn chương.

ngắn “Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải.

Chƣơng 2. Khoảng cách lịch sử - văn hóa ở học sinh dân tộc miền núi khi

5.4 Phƣơng pháp thực nghiệm sƣ phạm

học truyện ngắn “Một người Hà Nội” và những biện pháp khắc phục.

Sử dụng phương pháp thực nghiệm sư phạm trong quá trình tiến hành xây
dựng thiết kế bài học và tổ chức dạy thực nghiệm tại trường Văn hoá I - Bộ
Công an - Tỉnh Thái Nguyên.

2.1 Khảo sát những khoảng cách lịch sử - văn hóa ở học sinh dân tộc
thiểu số miền núi khi học truyện ngắn “Một người Hà Nội”.
2.2 Nguyên nhân tạo ra những khoảng cách lịch sử - văn hoá giữa tác phẩm
"Một người Hà Nội" với bạn đọc - học sinh dân tộc miền núi

6. Giả thuyết khoa học
Khoảng cách trong tiếp nhận văn học là một hiện tượng tất yếu mà nguyên

2.3 Một số biện pháp rút ngắn khoảng cách lịch sử - văn hóa ở học sinh

nhân dẫn đến khoảng cách là do sự chênh lệch về vốn sống, điều kiện sống, về


dân tộc miền núi khi học truyện ngắn “Một người Hà Nội”.

trình độ năng lực tư duy, nhận thức của mỗi bạn đọc, giữa người sáng tạo và

Chƣơng 3. Thực nghiệm sƣ phạm

người tiếp nhận văn học. Vì vậy khoảng cách mà bạn đọc là học sinh dân tộc

Phần kết luận

thiểu số miền núi gặp phải trong quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học nói chung
và tác phẩm văn học viết về miền xi nói riêng là khơng thể tránh khỏi. Vấn đề
đặt ra là làm thế nào để hạn chế và làm gần lại khoảng cách tiếp nhận đó ở bạn
đọc - học sinh với tác phẩm văn học trong quá trình tiếp nhận. Nếu các biện
pháp rút ngắn khoảng cách lịch sử - văn hoá ở học sinh dân tộc thiểu số miền núi
mà chúng tôi đề xuất trong luận văn có tính thực tiễn cao thì nhất định luận văn
sẽ đóng góp vào việc thúc đẩy, nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc dạy
học văn trong các nhà trường Trung học phổ thông miền núi hiện nay.
7. Cấu trúc luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

11

http:// www.lrc-tnu.edu.vn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

12


http:// www.lrc-tnu.edu.vn


PHẦN NỘI DUNG

trình đồng sáng tạo. Bởi vì, văn bản văn học không thông báo những thông

Chƣơng 1

tin thông thường, để mở phần ý nghĩa, tạo thành một cấu trúc mời gọi, buộc

MỘT SỐ TIỀN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ RÚT

người đọc phải tự mình hồn thành tác phẩm.Vì vậy, muốn chiếm lĩnh được

NGẮN KHOẢNG CÁCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA Ở HỌC SINH DÂN

thế giới hình tượng thơng qua ngơn từ thì buộc người đọc phải chủ động tích

TỘC MIỀN NÚI KHI HỌC TÁC PHẨM VĂN CHƢƠNG

cực, phải hiểu được nghĩa của các từ, các hình ảnh, nhớ những điều đã đọc,
phát hiện được mối liên hệ giữa các câu, các phần, hiểu được những chỗ bỏ

1.1 Lí thuyết về tiếp nhận văn học
1.1.1 Khái niệm tiếp nhận văn học

trống, giải thích được những chỗ mâu thuẫn, vơ lí của văn bản tác phẩm...


Bàn về tiếp nhận văn học, sách giáo khoa Ngữ văn 12 - Tập 2 - Chương

Quá trình người đọc tự tìm hiểu, tự giải đáp cho đến khi người đọc sống với

trình chuẩn, NXB Giáo dục, 2008 viết: “Tiếp nhận văn học chính là q trình

nhân vật trong tác phẩm, hiểu và phát hiện được ý nghĩa của tác phẩm. Khi

người đọc hịa mình vào tác phẩm, rung động với nó, đắm chìm trong thế giới

tác phẩm của nhà văn trở thành tác phẩm của người đọc, hòa quyện với tư

nghệ thuật được dựng lên bằng ngôn từ, lắng nghe tiếng nói của tác giả,

tưởng tình cảm của người đọc thì đó là lúc người đọc đã hồn thành một q

thưởng thức cái hay cái đẹp, tài nghệ của người nghệ sĩ sáng tạo”. Cùng

trình đồng sáng tạo với nhà văn.

quan niệm về tiếp nhận văn học, sách giáo khoa Ngữ văn 12 - Tập 2 - Chương

Tiếp nhận văn học là một hoạt động mang tính chủ quan và khách

trình Nâng cao, NXB Giáo dục, 2008 viết: “Tiếp nhận là một hoạt động nắm

quan. Quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học của bạn đọc có những trạng thái

bắt thơng tin trong quá trình giao tiếp”. Trong cuốn: “Từ điển thuật ngữ văn


khác nhau, có trình độ văn hóa khác nhau. Có bao nhiêu bạn đọc thì có bấy

học”, NXB Giáo dục, 1996 cũng cho chúng ta biết được: “Tiếp nhận văn học

nhiêu cách tiếp nhận. Chẳng hạn với hình ảnh “khuôn mặt chữ điền” trong

là hoạt động chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của tác phẩm văn học,

bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử cũng có nhiều ý kiến khác nhau.

bắt đầu từ sự cảm thụ văn bản ngơn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng, cảm

Đã bao năm qua đi kể từ khi bài thơ ra đời cho đến bây giờ vẫn chưa có sự

hứng, quan niệm nghệ thuật, tài nghệ tác giả cho đến sản phẩm sau khi đọc ”.

thống nhất. Nếu chúng ta đặt hình ảnh đó vào trong bối cảnh ra đời của bài

Như vậy, tiếp nhận văn học thực chất là một quá trình giao tiếp, một cuộc

thơ thì cách lí giải nào cũng có căn cứ thuyết phục. Truyện Kiều của Nguyễn

đối thoại giữa bạn đọc với nhà văn thông qua tác phẩm. Cuộc đối thoại này địi

Du cũng là một trường hợp điển hình. Nhà thơ Tố Hữu ngợi ca nàng Kiều

hỏi người đọc phải vận dụng tất cả tri giác, cảm giác và năng lực cảm thụ của

bằng những tình cảm xúc động: “Nỗi niềm xưa nghĩ mà thương; Dẫu lìa ngó


mỗi người và tác phẩm văn học chỉ trở thành đích thực khi người đọc đón nhận

ý cịn vương tơ lịng” cịn Nguyễn Cơng Trứ lại cho rằng: “Đoạn trường cho

được thông điệp thẩm mĩ mà nhà văn gửi gắm qua tác phẩm văn học đó.

đáng kiếp tà dâm ”. Như vậy tính chủ quan và khách quan là đặc điểm nổi bật
trong tiếp nhận văn chương nghệ thuật.

1.1.2 Đặc điểm của tiếp nhận văn học
Theo cuốn Sách giáo khoa Ngữ văn 12 - tập 2, chương trình Nâng cao và

Hiệu quả của việc tiếp nhận văn học cịn phụ thuộc vào tầm đón nhận

chương trình Chuẩn, NXB Giáo dục 2008, thì tiếp nhận văn học là một quá

của bạn đọc. Nếu tác phẩm thấp hơn tầm đón nhận thì bạn đọc khơng thích

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

13

http:// www.lrc-tnu.edu.vn

14

http:// www.lrc-tnu.edu.vn



đọc. Ngược lại tác phẩm cao hơn tầm đón nhận sẽ khiến bạn đọc lúng túng.

1.2.2 Khái niệm khoảng cách và khoảng cách lịch sử - văn hố

Tầm đón nhận một mặt kích thích vai trị sáng tạo của bạn đọc hướng đến cái

● Khoảng cách là khoảng trống giữa hai sự vật. Ở đây là khoảng trống

mới mẻ của văn chương nghệ thuật, mặt khác nó giúp bạn đọc phát hiện ra ý

giữa tác phẩm văn chương với bạn đọc - học sinh, cụ thể hơn là khoảng trống

nghĩa tiềm ẩn sau câu chữ trong tác phẩm văn chương.

giữa truyện ngắn “Một người Hà Nội” của nhà văn Nguyễn Khải với bạn đọc

Ngoài ra, Lý luận văn học hiện đại còn xem tiếp nhận văn học là một hiện

là học sinh dân tộc miền núi. Nói cách khác, đây là những khó khăn, vướng

tượng có tính quy luật xã hội. Sự đọc khơng phải là một hoạt động hồn toàn tự

mắc mà học sinh dân tộc miền núi gặp phải khi tiếp nhận truyện ngắn “Một

do. Người đọc trước hết bị quy định bởi văn bản tác phẩm, các mã ngơn ngữ,

người Hà Nội”.

mã nghệ thuật, mã văn hóa được kết tinh trong mỗi tác phẩm văn học đó.

1.2 Học sinh dân tộc miền núi và khoảng cách lịch sử - văn hoá

● Khoảng cách lịch sử - văn hóa là khoảng trống của bạn đọc - học sinh
về một thời kì lịch sử đã qua trong quá khứ và về một nền văn hóa (gồm văn
hóa vật chất và văn hóa tinh thần của con người) được miêu tả trong tác phẩm

1.2.1 Khái niệm học sinh dân tộc miền núi
Trong cuốn “Dạy và học tác phẩm văn học ở trường PTTH miền núi”,

văn chương nghệ thuật.

NXB Giáo dục, 1997, tác giả Hoàng Hữu Bội đã đề cập đến quan niệm của

Khoảng cách mà luận văn đề cập đến ở đây là khoảng trống hiểu biết của

tác giả về học sinh miền núi, theo tác giả “đó là những trẻ em sinh ra và lớn

bạn đọc - học sinh dân tộc thiểu số miền núi về văn hoá vật chất và văn hố

lên ở miền núi, trong đó bao gồm con em các dân tộc ít người sống đan xen ở

tinh thần của người Hà Nội (Đặc biệt là văn hoá sống, văn hoá ứng xử của

một vùng núi và con em của người Việt sống nhiều năm ở vùng đó”.

người Hà Nội trong giới thượng lưu) và những hiểu biết của các em về giai

Học sinh dân tộc miền núi mà chúng tôi đề cập đến trong đề tài này

đoạn lịch sử đã qua ở nước ta vào những năm 80 của thế kỉ XX được nhà văn


được hiểu là những trẻ em các dân tộc ít người thuộc độ tuổi đi học từ 6 đến

Nguyễn Khải đề cập đến trong truyện ngắn “Một người Hà Nội”. Có 3

18 tuổi tại các tỉnh thuộc vùng miền núi của nước ta. Ở đây, chúng tôi giới

khoảng cách lớn:

hạn độ tuổi của học sinh dân tộc thiểu số miền núi đang là học sinh lớp 12, họ

- Bức tranh cuộc sống được tái hiện trong tác phẩm “Một người Hà Nội”

là con em các dân tộc: Tày, Mông, Dao, Thái, Mường, Nùng, Khơ Mú, Vân

là cuộc sống của những người giàu có ở Hà Nội - “giới thượng lưu” ở các giai

Kiều, Hà Nhì, Sách, Kháng, Thổ, Lào, Giáy, Lự, Bố Y, Sán Dìu, Si La, Sán

đoạn lịch sử chưa xa với bạn đọc nói chung nhưng lại càng xa với học sinh

Chỉ, Cống, Chứt, Poọng, Khùa được sinh ra và lớn lên ở các tỉnh miền núi:

các dân tộc miền núi. Đó là:

Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Hồ
Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái, Lào Cai, Quảng Ninh, Thanh
Hoá, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị) hiện đang học tập tại trường Văn hố
I - Bộ Cơng an - Tỉnh Thái Nguyên.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

+ Cuộc sống làm giàu lương thiện của người Hà Nội thời Pháp thuộc và
thời Hà Nội bị tạm chiếm sau năm 1945.
+ Cuộc sống của người Hà Nội từ khi thủ đơ được giải phóng cho đến hết
thời kì bao cấp (1946 - 1986).

15

http:// www.lrc-tnu.edu.vn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

16

http:// www.lrc-tnu.edu.vn


+ Cuộc sống của người Hà Nội ngày nay (từ khi đất nước bước vào thời
kì đổi mới theo kinh tế thị trường - từ năm 1990 trở lại đây).
Bức tranh cuộc sống ấy đã tạo nên khoảng cách lịch sử - văn hóa ở học
sinh dân tộc miền núi khi tiếp nhận tác phẩm.

Từ những khái niệm trên về thể loại truyện ngắn, chúng ta có thể hiểu truyện
ngắn là thể loại phản ánh đời sống theo phương thức tự sự với dung lượng
ngắn mà vẫn phản ánh cuộc sống trong chỉnh thể tồn vẹn. Nó có độ “nén” rất
lớn với khả năng chứa đựng nội dung thông tin và có sức mở hết sức phong

- Bức tranh cuộc sống được miêu tả trong “Một người Hà Nội” còn là


phú, đa dạng. Chính sự đa dạng ấy mà truyện ngắn đã thu hút nhiều sự quan

cuộc sống văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của người Hà Nội nói chung

tâm chú ý của giới nghiên cứu, phê bình và đã trở thành đề tài nghiên cứu của

và người Hà Nội trong giới thượng lưu nói riêng. Đó là cách ăn, cách ở, cách

nhiều luận văn, luận án. Trong khuôn khổ của luận văn này, chúng tôi không

mặc, cách nói năng, đi đứng, cách ứng xử trong các mối quan hệ xã hội phức

có tham vọng đi sâu tìm hiểu đặc điểm của thể loại truyện ngắn mà chỉ xin

tạp. Và cả văn hóa tâm linh của họ. Điều này đã tạo nên khoảng cách văn hóa

dựa vào khái niệm truyện ngắn để làm cơ sở nghiên cứu nhằm phát hiện ra

ở học sinh dân tộc miền núi khi tiếp nhận tác phẩm.

những khó khăn, trở ngại mà học sinh dân tộc thiểu số miền núi gặp phải khi

- Dựng lên trong tác phẩm bức tranh cuộc sống của “Một người Hà Nội”
trải qua các biến động thăng trầm của lịch sử. Qua cái nhìn của một cán bộ từ

tiếp nhận truyện ngắn “Một người Hà Nội”.
1.3.2 Hai giai đoạn sáng tác của Nguyễn Khải

kháng chiến trở về, nhà văn Nguyễn Khải gửi gắm điều gì? thơng qua hình


Là một nhà văn có sở trường với thể loại truyện ngắn, tính đến nay

tượng nhân vật Bà Hiền và nhân vật “Tơi”, tác giả ngợi ca điều gì và phê phán

Nguyễn Khải đã có hơn 70 truyện ngắn thành cơng. Cùng với sự đi lên của

điều gì? Đó lại là một khoảng cách nữa trong tiếp nhận tác phẩm “Một người

lịch sử xã hội, văn của Nguyễn Khải cũng theo dòng chảy của thời gian mà

Hà Nội” ở học sinh dân tộc miền núi nói chung và ở học sinh cả nước nói

thích ứng với từng giai đoạn, từng thời kì. Chính nhà văn đã tự chia sự nghiệp

chung.

sáng tác của mình làm hai giai đoạn “Từ 1955 đến 1977 tôi sáng tác theo một

1.3 Sáng tác của Nguyễn Khải và truyện ngắn “Một người Hà Nội”

cách, từ 1978 đến nay theo một cách khác”. Theo cách nói ấy của nhà văn thì
năm 1978 được coi là cái mốc quan trọng đánh dấu sự đổi mới trong sự

1.3.1 Khái niệm truyện ngắn
Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của thể loại truyện ngắn bao

nghiệp sáng tác về sau của Nguyễn Khải.

trùm hầu hết các phương diện của đời sống: Đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái


Trƣớc năm 1978, trong bối cảnh lịch sử cả dân tộc ta đang sống trong

độc đáo của nó là ngắn”.( Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán - Trần Đình

những năm tháng hào hùng, đau thương mà anh dũng: Đánh đuổi sự xâm lược

Sử - Nguyễn Khắc Phi biên soạn ,tr.303).

của đế quốc và thực dân. Văn chương thời kì này chủ yếu đi sâu ca ngợi vẻ

Cuốn Từ điển Tiếng Việt định nghĩa về thể loại truyện ngắn: Là truyện bằng

đẹp của con người Việt Nam trong chiến tranh với cảm hứng sử thi hào hùng.

văn xi, có dung lượng nhỏ, số trang ít, miêu tả một khía cạnh tính cách, một mẩu

Các tác phẩm văn học đề cao số phận cộng đồng, hướng đến một cái “ta”

trong cuộc đời của nhân vật”(tr. 1018).

chung bằng cảm hứng thời đại lớn. Tình cảm riêng tư, tình cảm cá nhân bị coi
nhẹ, văn học khơng quan tâm hoặc ít quan tâm đến số phận đời tư hay những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

17

http:// www.lrc-tnu.edu.vn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


18

http:// www.lrc-tnu.edu.vn


sinh hoạt trong đời sống thường ngày của cá nhân mỗi người. Văn của

chương Nguyễn Khải đã khẳng định: “Muốn hiểu con người thời đại với tất

Nguyễn Khải cũng nằm trong mạch cảm xúc chung ấy.

cả cái hay, cái dở của họ, nhất là muốn hiểu cách nghĩ của họ, cuộc sống tinh

Là một người lính, là một nhà văn trưởng thành từ cuộc kháng chiến

thần của họ phải đọc Nguyễn Khải”.

chống thực dân Pháp, Nguyễn Khải cũng giống như bao các nhà văn khác

Khi chiến tranh kết thúc, đất nước hồ bình thống nhất, non sơng thu về

thâm nhập vào thực tế để tìm nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Khi cuộc

một mối, khơng khí thời đại ấy tác động mạnh mẽ đến đời sống văn học. Các

kháng chiến chống Mĩ nổ ra, nhà văn đã từng lăn lộn với lực lượng vũ trang ở

nhà văn phát hiện ra rằng đề tài, chủ đề phản ánh trong văn học không phải


miền Tây của Tổ quốc cùng bộ đội công binh, đến với các đơn vị xe tăng

chỉ là những vấn đề thời đại lớn lao mà nó có ở ngay trong cuộc sống thường

trong chiến dịch Đường chín - Nam Lào để tìm hiểu, cắt nghĩa cốt cách của

ngày. Nhận thức được sự thay đổi đó, nhà văn tâm sự: “Vẫn là đất nước mình

các chiến sĩ, các gương mặt thuộc thế hệ chống Mĩ. Hịa bình lập lại, miền

mà thêm một bước đi là một bước lạ. Vẫn con người Việt Nam mình mà gặp

Bắc bước vào cơng cuộc xây dựng cuộc sống mới, nhà văn cịn đi đến những

thêm một người lại tưởng như buộc mình phải hiểu chút ít về con người” (Hai

vùng nơng thơn, tìm hiểu những xung đột chính trị quyết liệt xảy ra trong

ông già ở Đồng Tháp Mười). Nhớ lại một thời đã qua của văn học, nhà văn

từng xóm, từng thơn, từng gia đình, từng con người để viết về cuộc sống của

nhận ra một điều rằng: “Có một thời mà thời ấy kéo hơi quá dài, những ba

vùng nông thơn trong q trình xây dựng cuộc sống mới. Ơng quan tâm đến

chục năm, chúng ta chỉ tơn trọng có ý chí, có nghị lực, có chính trị, có tư

những vấn đề mang tính thời sự, chính trị của đất nước, những xung đột giai


tưởng”. Văn Nguyễn Khải giai đoạn này quan tâm đến đời sống nhân sinh

cấp, xung đột dân tộc, chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể. Nhà văn đã lấy

trong mạch cảm hứng đời tư, thế sự. Đề tài sáng tác giờ đây là những vấn đề

tiêu chí “đạo đức” và tiêu chí “chính trị” làm cơ sở xác lập cho giá trị mỗi con

đời thường, những biến đổi trong số phận con người, nhà văn hướng vào hai

người trong sáng tác của mình. Vì thế mà văn Nguyễn Khải thời kì này dạt

mạch cảm xúc chính đó là cuộc sống thường ngày của những người xung

dào nhiệt huyết chính trị và cảm hứng sử thi.

quanh, của bạn bè đồng nghiệp quen biết và số phận của những người thân

Sau năm 1978, nhận thức của nhà văn đã bắt đầu có những biến chuyển.

trong họ hàng nội ngoại gia đình nhà tác giả. Đọc văn Nguyễn Khải giai đoạn

Đặc biệt, trong hoàn cảnh riêng của nhà văn cũng có những thay đổi đột ngột:

này chúng ta thấy những mảnh đời bình dị được ơng quan tâm. Đó là cuộc

nhà văn đã gặp một gia đình lớn của mình sau mấy chục năm xa cách, ơng bắt

sống của “Hai ông già ở Đồng Tháp Mười” rất mực bình dị, đó là cuộc sống


đầu cảm thấy chính mình, cảm thấy cuộc đời riêng của mình, những rung

bình thường dám hi sinh, chấp nhận sự thiệt thòi để được một niềm hạnh phúc

động buồn vui của cuộc đời mình có thể được bộc bạch trên các trang văn. Vì

dù nhỏ nhoi như “Chị Mai”, đó cịn là cuộc sống bình dị rất đỗi đời thường

thế, đọc văn Nguyễn Khải thời kì này chúng ta thấy hiện lên những hình ảnh

như trong truyện ngắn “Một người Hà Nội”. Cuộc sống ấy được nhà văn

vô cùng sinh động và chân thực về một quá trình vận động từ cảm hứng sử thi

Nguyễn Khải ca ngợi: “Tơi thích cái thời này lắm, tơi khoan khối được sống

sang cảm hứng đời tư, thế sự trong cuộc sống thời bình. Nhà phê bình văn học

cái thời này, chỉ hơi kinh, chỉ khơng thích cái lối sống bặm trợn, gian trá, tục

Vương Trí Nhàn - người đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về sự nghiệp văn

tằn của hôm nay thôi” (Chị Mai). Cùng suy nghĩ ấy, một lần nữa nhà văn tâm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

19


http:// www.lrc-tnu.edu.vn

20

http:// www.lrc-tnu.edu.vn


sự trong tiểu thuyết “Gặp gỡ cuối năm”: “Tơi thích cái hôm nay, cái hôm nay

gũi với cuộc sống đời thường bắt nguồn từ “tâm tốt” ấy khiến cho sáng tác

ngổn ngang bề bộn trong bóng tối và ánh sáng, màu đỏ và màu đen, đầy rẫy

của Nguyễn Khải có được khơng khí “cởi mở” gần gũi với nhu cầu cá nhân

những biến động những bất ngờ là mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút thả

của con người, được đơng đảo độc giả đón nhận.

sức khai phá”. Cuộc sống mới hơm nay đã giúp nhà văn Nguyễn Khải phát

Tóm lại, trên hành trình hơn 40 năm cầm bút, Nguyễn Khải đã bộc lộ sự

hiện ra những đổi thay của lớp người hiện tại. Ông phát hiện ra những đổi

gắn bó sâu sắc với đời sống chính trị của đất nước. Ông lăn lộn trong đời sống

thay trong tư duy, trong nếp nghĩ của con người trong mỗi gia đình. Trong sự

để được lắng nghe, được trò chuyện, được đối thoại với con người. Mỗi lần


đổi thay ấy, nhà văn cịn nhận thấy rằng có những đổi thay mang niềm hạnh

đối thoại là một lần khác nhau nhưng đều có lí, cái lý lần sau bắt nguồn từ cái

phúc đến cho con người nhưng cũng có những đổi thay làm rạn nứt tình cảm

nhìn khống đạt, đơn hậu đầy chất nhân văn của một nhà văn nhiệt huyết với

gia đình, làm hoen ố đạo đức gia đình và có tác động không nhỏ đến truyền

cuộc đời. Đọc văn Nguyễn Khải trước sau ta vẫn thấy hình ảnh của một nhà

thống đạo đức gia đình và xã hội (Đổi đời).

văn trung thành với một lối viết riêng của mình, đó là “thích lối kể hơn lối tả,

Phẩm chất con người trong sáng tác giai đoạn này được nhà văn khám

không chú ý nhiều đến cốt truyện, hình dáng của truyện”(Vương Trí Nhàn)

phá trong quan hệ đời thường. Nếu giai đoạn trước 1978 Nguyễn Khải quan

mà nhà văn tập trung làm nổi bật một nhân vật, một kiểu nhân vật, một nhân

tâm đến hạnh phúc đời thường để ca ngợi, để cổ vũ cho cái lớn lao, cao cả

cách sống bằng giọng văn vừa tự nhiên vừa duyên dáng, dân dã, vừa đơn hậu,

mang tính chất thời đại thì sáng tác ở giai đoạn 1978 về sau Nguyễn Khải


khoan dung và chất chứa yêu thương đối với con người.

quan tâm đến số phận con người để khám phá những hạnh phúc của họ trong
cuộc sống hằng ngày. Đó là sự hi sinh thầm lặng của người phụ nữ “một đời

1.3.3 Truyện ngắn “Một người Hà Nội”
1.3.3.1 Tóm tắt tác phẩm

gánh chịu những tai hoạ vì những người thân yêu” như chị Khuê trong

“Một người Hà Nội” là sự khám phá, phát hiện ra vẻ đẹp và chiều sâu

“Người vợ”, chị Vách trong “Đời khổ”. Đó là khung cảnh hạnh phúc trong

văn hố của người Hà Nội, Nguyễn Khải không đi vào khai thác, khám phá

gia đình của gia đình ơng Phúc khiến người đọc vô cùng xúc động: “Ăn cơm

bản chất của con người trong quan hệ lớn lao mang tính thời đại mà đi sâu

xong ông ngồi hút thuốc lá, bà ngồi sát cạnh đặt bàn tay gầy guộc nhăn nheo

phản ánh vẻ đẹp của con người trong quan hệ đời thường, ngắm nhìn con

lên đùi chồng, ơng chồng nắm chặt lấy bàn tay ấy nắn bóp các ngón tay trị

người trong mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử, với quá khứ dân tộc, với quan

chuyện với tôi” (Nắng chiều). Cái nhìn về hạnh phúc của con người trong


hệ gia đình và tiếp nối thế hệ, để đi đến khẳng định, ngợi ca những giá trị

sáng tác của nhà văn giờ đây có nhiều biến đổi. Nhà văn phát hiện ra một

nhân văn cao đẹp của cuộc sống và con người.

chân lí giản đơn trên hành trình đến với hạnh phúc của con người là ở cái tâm,

Nhân vật chính trong truyện là nhân vật Bà Hiền. “Bà là chị em đơi

cái đạo lí ngàn đời hun đúc nên phẩm chất con người, là thước đo giá trị con

con dì ruột với mẹ già” của nhân vật “Tôi” được nhà văn đặt trong bao biến

người ở mọi thời đại và “chỉ có cái tâm tốt của con người mới làm nảy nở

động thăng trầm của lịch sử xã hội: Từ Hà Nội những năm giải phóng (1955)

những cái mầm yêu thương thui héo ở đâu đó” (Nắng Chiều). Chính sự gần

đến những năm chống Mĩ, rồi hồ bình lập lại và cả những năm Hà Nội đang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

21

http:// www.lrc-tnu.edu.vn


22

http:// www.lrc-tnu.edu.vn


bước vào thời kì phát triển kinh tế thị trường. Truyện được nhà văn bố cục

“chính phủ can thiệp nhiều vào việc của dân”, “cách mạng toàn để ý những

thành 7 đoạn.

chuyện lặt vặt”.

Đoạn 1. Giới thiệu về gia đình Bà Hiền qua cái nhìn của đứa cháu là

Đoạn 4. Kể chuyện Bà Hiền vào những năm sau hồ bình lập lại: Vào

bộ đội từ kháng chiến trở về Hà Nội - năm 1955: Trong suốt 9 năm cuộc

những năm sau hồ bình lập lại, trong khi nhiều người bị coi là “tư sản” phải

kháng chiến chống Pháp, gia đình Bà Hiền không đi tản cư mà vẫn sống ở Hà

đi học tập, cải tạo thì Bà Hiền vẫn ở lại Hà Nội sống một cuộc sống bình

Nội bởi lẽ “họ không thể rời xa Hà Nội” và cũng “không dính líu gì đến chính

thường. Bà mở của hàng bán hoa giấy làm bưu ảnh và sổ tay kỉ niệm vì “hoa


phủ thực dân”. Nơi ở của Bà Hiền rộng “Một toà nhà tọa lạc ngay tại một

đẹp, bán đắt, phải chịu thuế rất nhẹ”. Khi chồng bà có ý định mua máy in

đường phố lớn”. Cái mặc cũng rất sang trọng “mùa đông ông mặc áo ba-đờ-

nhỏ để kinh doanh, Bà Hiền khơng đồng ý vì bà cho rằng chồng bà không thể

xuy đi giầy da, bà mặc áo măng-tơ cổ lơng, đi giầy nhung đính hạt cườm”.

làm một ông chủ dưới chế độ mới.

“Cái ăn” cũng khác với số đơng “Bàn ăn trải khăn trắng giữa bàn có một lọ

Đoạn 5. Tác giả kể về đầu óc thực tế của Bà Hiền và việc bà đồng ý

hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy bản và từng người ngồi đúng chỗ

cho người con trai đầu tình nguyện đi đánh Mĩ: Gần 30 tuổi Bà Hiền mới xây

đã quy định”. Cuộc sống thực tại của gia đình Bà Hiền đã khiến cho người

dựng gia đình. Người bà chọn bạn trăm năm là một ông giáo cấp tiểu học hiền

cháu từ kháng chiến trở về băn khoăn: gia đình bà “khó có thể gắn bó với chế

lành, chăm chỉ, điều đó khiến cho cả Hà Nội phải kinh ngạc vì theo thói

độ mới và chế độ mới cũng khó có thể tin cậy được ở họ”.


thường, Bà Hiền sẽ lấy chồng là một ông quan đốc, quan trạng hay một văn

Đoạn 2. Giới thiệu về gốc gác họ hàng và cuộc sống của Bà Hiền thời

sĩ, thi sĩ nổi tiếng nào đấy. Bà Hiền đã vượt qua thói thường ấy, bà không

Pháp thuộc: Bà Hiền xuất thân trong gia đình giàu có lương thiện. Dịng họ

chạy theo những tình cảm lãng mạn viển vơng, coi chuyện hơn nhân, gia đình

Bà có Cụ Tú Dâu. Cụ Bà Tú Dâu là chị ruột mẹ Bà Hiền, là em ruột bà ngoại

là chuyện nghiêm túc, lâu dài. Sinh đến người con thứ năm Bà Hiền quyết

nhân vật “Tôi”. Bà Tú Dâu, bà mẹ Cô Hiền và bà ngoại nhân vật “Tôi” là ba

định dừng việc sinh đẻ để các con “có thể tự lập, khỏi sống bám vào anh chị”.

chị em gái xuất thân từ dân quê. Cả ba chị em đều ăn mặc theo cái mốt của

Trong nuôi dạy con, Bà Hiền chỉ bảo từng li từng tí, từ cách ăn, ở, đi đứng nói

thời ấy: “Khăn vấn bỏ đi gà, áo tứ thân bằng hàng tơ dệt thưa gọi là xuyến,

năng. Khi con còn nhỏ “ngồi vào bàn ăn là cô thường chú ý sửa chữa cách

mặc quần lĩnh Bưởi và đi hài”. Tuy “ba bà đặc nhà quê nhưng lại đẻ ra một

ngồi, cách cầm đũa, cách múc canh, cả cách nói chuyện trong bữa ăn”. Bà


loạt con gái rất tân thời”. Bà Hiền xinh đẹp, thông minh được gia đình cho

Hiền dạy con “là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn,

mở phịng tiếp khách văn chương - gọi là Salon lítteraire để mời gọi thi sĩ, văn

không được sống tuỳ tiện buông tuồng”.

sĩ, sinh viên cao đẳng của đất Hà Thành.

Thời kì đế quốc Mĩ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, Bà Hiền

Đoạn 3. Hà Nội năm đầu vừa giải phóng (năm 1955): Vừa mới được

vẫn là một “nội tướng” đảm đang việc quản lí gia đình, giáo dục con cái thành

giải phóng, nhiều người dân Hà Nội chưa thật vui vẻ, họ đang tìm cách thích

những thanh niên - những công dân Hà Nội hào hoa yêu nước. Khi Dũng

ứng với chế độ mới: cách sống, cách làm việc, cách nói năng ... Họ cho rằng

(người con trai đầu của Bà Hiền) vừa tốt nghiệp trung học tình nguyện xin

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

23


http:// www.lrc-tnu.edu.vn

24

http:// www.lrc-tnu.edu.vn


nhập ngũ, Bà Hiền tâm sự: “Tao đau đớn mà bằng lịng vì tao khơng muốn nó

dụ, đó là một gia đình thượng lưu nổi tiếng giàu có, họ có “một dãy nhà chôn

sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Sau ba

kiệu nước mắm và một gian nhà để tiền”. Nhìn bề ngồi, cuộc sống của họ rất

năm, người con trai thứ hai cũng đăng kí nghĩa vụ quân sự, Bà Hiền bày tỏ

mực phong lưu, họ “ăn ở giao tiếp theo kiểu cách nhà quan, dạy con cái cũng

thái độ của mình: “Tao khơng khuyến khích, cũng khơng ngăn cản, ngăn cản

theo khuôn phép nhà quan”. Song cái căn cốt bên trong, cái được người đời

tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết

nể trọng là nhờ hai bàn tay đảm đang của người phụ nữ gây dựng nên bằng

nó”. Cuối cùng, với kết quả thi đạt điểm cao, cậu con trai thứ hai được giữ lại

nghề buôn nước mắm.


học đại học.

Trong những năm tháng bị giặc Pháp tạm chiếm (1946 - 1954) đa số

Đoạn 6. Tháng 12 năm 1975, Bà Hiền tổ chức bữa tiệc liên hoan

người dân Hà Nội phải rời Hà Nội đi tản cư thì gia đình Bà Hiền ở lại Hà Nội

mừng Dũng - con trai đầu từ chiến trường trở về. Trong bữa cơm gặp mặt

chỉ vì bà khơng thể sinh cơ lập nghiệp ở một vùng đất khác, bà không muốn

cuối năm, Dũng kể lại câu chuyện xúc động về sự hi sinh của người bạn chiến

rời xa Hà Nội, muốn ở lại mãi với Hà Nội. Ngôi nhà rộng lớn của bà “tọa lạc

đấu tên là Tuất và người mẹ Hà Nội của Tuất chia tay nhau như thế nào trong

ngay cạnh đường phố lớn, hướng nhìn thẳng ra cây si cổ thụ và hậu cung của

đêm Dũng và Tuất vào chiến trường, về người mẹ của Tuất đã nén chịu nỗi

đền Ngọc Sơn”. Trong ngôi nhà rộng lớn ấy, Bà Hiền vẫn giữ cho mình một

đau mất con để tiếp tục sống, tiếp tục xây dựng cuộc sống mới ra sao.

lối sống riêng, một bản lĩnh riêng và kiên trì với nó. Người đọc nhận ra vẻ đẹp

Đoạn 7. Kể chuyện về Hà Nội vào những năm 90 của thế kỉ XX: Khi


văn hố Hà Nội chính gốc ở Bà Hiền toả ra từ cách ăn mặc lịch sự quý phái

đất nước đã bước vào thời kì đổi mới, Hà Nội cịn bộn bề, pha tạp nhưng Bà

khiến cho “Tơi” phải thốt lên rằng: “Cái mặc cũng sang trọng quá. Mùa đông

Hiền vẫn là “một người Hà Nội của hôm nay, thuần tuý Hà Nội, không pha

ông mặc áo ba-đờ- xuy, đi giày da, bà mặc áo măng- tô cổ lông, đi giày

trộn”. Bà Hiền kể cho nhân vật “Tôi” từ thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội

nhung đính hạt cườm”, đến cả cái ăn cũng không giống với số đông “ Bàn ăn

công tác ghé thăm bà về sức sống bất diệt của cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn

trải khăn trắng, giữa bàn có một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong

và niềm tin của bà vào cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.

giấy bản và từng người ngồi đúng chỗ đã quy định”. Trong hoàn cảnh ấy, gia

1.3.3.2 “Một ngƣời Hà Nội” là những khám phá, những kiến giải
của nhà văn Nguyễn Khải về “ mảnh đất kinh kì”, về vẻ đẹp và chiều sâu

đình Bà Hiền vẫn giữ một lối sống sang trọng, lịch lãm, đó là một lối sống giữ
nguyên các giá trị văn hoá truyền thống của con người Hà Nội.
Hà Nội sau những ngày vừa giải phóng (1956 - 1986): Đây là khoảng


văn hoá của ngƣời Hà Nội
● Tác phẩm đã tái hiện lại cuộc sống của tầng lớp thượng lưu ở Hà

thời gian mà người dân Hà Nội trong giới thượng lưu băn khoăn đi tìm cách
sống sao cho thích ứng với chế độ mới, gia đình Bà Hiền cũng là một gia đình

Nội qua các thăng trầm của lịch sử
Thời Pháp thuộc, những người dân Hà Nội trong giới thượng lưu bằng

như thế. Tuy bà là một người Hà Nội thuộc tầng lớp thượng lưu nhưng với

sự khơn ngoan, khéo léo, đảm đang, tháo vát của mình họ đã tạo dựng nên

chế độ xã hội mới bà thẳng thắn chỉ ra thực tế xã hội của thời kì bao cấp: “Vui

một cuộc sống tương đối khá giả. Gia đình cụ Tú Dâu - Hàng Bạc là một ví

hơi nhiều nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ?”, bằng sự nhanh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

25

http:// www.lrc-tnu.edu.vn

26

http:// www.lrc-tnu.edu.vn



nhẹn thơng minh của mình bà đã khéo léo đưa gia đình thích ứng với chế độ

Khám phá vẻ đẹp con người Hà Nội, nhà văn Nguyễn Khải tiếp tục

mới “từ cách sống, cách làm việc, và cả cách nói năng nữa”, nhưng thích

khai thác giá trị tốt đẹp của người Hà Nội là ở bản lĩnh, ở cốt cách của con

ứng mà vẫn giữ gìn cốt cách văn hố, giữ bản lĩnh để không bị dụ dỗ, lôi kéo

người giàu lòng tự trọng qua nhân vật Bà Hiền. Khi ở thời kì mà hầu hết

bởi thế lực nào.

người dân Việt Nam quan niệm rằng “Trời sinh voi, trời sinh cỏ” thì Bà Hiền

Là một người phụ nữ khơn ngoan, sống sâu sắc và rất thực tế, Bà Hiền

quyết định chấm dứt chuyện sinh đẻ ở tuổi 40. Đó là quyết định sáng suốt

“ khôn ngoan hơn các bà bạn và thức thời hơn ơng chồng”, bà có hai dinh cơ

xuất phát từ suy nghĩ, từ trách nhiệm của người làm cha làm mẹ, bà chuẩn bị

(do ông viết sách giáo khoa tiểu học được Nha học chính cơng nhận và cho in

cho con một nhân cách sống không phụ thuộc “ có thể tự lập được”. Bà Hiền


bán). Số tiền đó bà dành dụm mua được hai ngơi nhà, sau ngày hồ bình lập lại

chú ý cách dạy con ngay từ khi chúng còn bé như cách ăn, cách cầm đũa, cầm

(1956) bà bán bớt ngôi nhà ở hàng Bún cho người bạn từ kháng chiến trở về.

bát, cách nói năng… vì bà cho rằng đấy là một văn hoá sống, văn hoá riêng

Bà Hiền cho anh bếp về quê, giữ lại chị vú và coi họ như người trong nhà.

của người Hà Nội. Bà dạy con: “chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng

Khi ơng chồng có ý định mua máy in nhỏ để kinh doanh vì chế độ mới khơng

nói năng phải có chuẩn, khơng được sống tuỳ tiện, buông tuồng”. Cái chuẩn

cho phép mở trường tư thục thì Bà Hiền phản đối ý định của chồng vì bà biết

đạo đức theo quan niệm của bà là lòng tự trọng “biết tự trọng, biết xấu hổ”.

rằng chồng bà không thể làm một ông chủ dưới chế độ mới.

Con người khơng có lịng tự trọng, khơng biêt xấu hổ thì khơng phải là con

Là một phụ nữ có nhan sắc, thơng minh, thời trẻ giao thiệp rộng rãi với
đám nghệ sĩ, văn nhân quan chức nhưng bà khơng hề “lãng mạn hay mơ

người có nhân cách. Những điều nhỏ nhặt mà Bà Hiền dạy con chứa đựng cả
một chiều sâu văn hoá truyền thống của người Việt Nam.


mộng vớ vẩn”, gần 30 tuổi Bà Hiền mới lấy chồng, chọn bạn trăm năm là một

Khi cuộc kháng chiến chống Mĩ nổ ra, “vào đầu năm 1965, Hà Nội có

ơng giáo cấp tiểu học hiền lành, chăm chỉ khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc. Họ

đợt tuyển quân vào trong Nam”, Dũng - người con trai lớn của Bà Hiền tình

kinh ngạc là vì họ khơng thể tin rằng một người thơng minh và có “đầu óc rất

nguyện nhập ngũ, trong câu nói chất chứa nỗi đau của tình mẫu tử khi phải

thực tế” như bà lại chọn ông giáo cấp tiểu học làm bạn đời. Bà Hiền hiểu rõ

chấp nhận để con ra đi của Bà Hiền, người đọc thấy sự giằng xé nội tâm gay

rằng : Chọn bạn trăm năm là một ông giáo tiểu học là bà đã lấy chuẩn “đạo

gắt giữa một bên là tình thương con với một bên là ý thức trách nhiệm với đất

đức” để xác lập giá trị con người ở mọi thời đại “ông giáo dạy cấp tiểu học là

nước của người mẹ. Nỗi đau bà nén trong lòng, bà dạy con phải biết sống sao

người cần thiết của mọi chế độ, chế độ cộng sản cũng phải khuyến khích trẻ

cho có tự trọng. Quyết định của Bà Hiền là quyết định của một người mẹ, của

con đi học, học văn hoá và học làm người”. Đấy là quan niệm của bà về một


một công dân đầy ý thức trách nhiệm trước vận mệnh của đất nước: “Tao đau

tổ ấm gia đình hạnh phúc nên “đã tính là làm, đã làm là không thèm để ý đến

đớn mà bằng lịng, vì tao khơng muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè.

những đàm tiếu của thiên hạ”. Sự lựa chọn bạn đời của Bà Hiền cho chúng ta

Nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Câu nói của Bà Hiền giúp người đọc nhận

thấy thái độ nghiêm túc về việc hôn nhân của một đời người.

ra bên cạnh tinh thần yêu nước còn là một quan niệm sống đầy tự trọng của
một cơng dân Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

27

http:// www.lrc-tnu.edu.vn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

28

http:// www.lrc-tnu.edu.vn


Khi chiến tranh kết thúc, “tháng 12 năm 1975” Bà Hiền tổ chức bữa


người Hà Nội, nếu không phải là người gắn bó với nó thì khơng hiểu, khơng

cơm liên hoan mừng Dũng từ chiến trường trở về. Bữa cơm gặp mặt có những

thể cảm nhận được. Đấy là nét duyên, nét quyến rũ của người Hà Nội. Suốt

người bạn của Bà Hiền, có người cháu họ - nhân vật “Tơi”. Nghe câu chuyện

cuộc đời mình, Bà Hiền vẫn quen với nếp sống văn hoá của con người Hà

xúc động Dũng kể về sự hi sinh của Tuất và thái độ của bà mẹ Tuất đã gợi

Nội. Vẻ đẹp bình dị của bà được tỏa sáng, được tôn vinh trong cảm hứng ngợi

lên trong lòng người đọc suy nghĩ về nét đẹp của con người Hà Nội. Những

ca của người kể chuyện: “Bà già vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng

con người ln giữ cho mình cốt cách thanh lịch, lối sống tao nhã, luôn biết hi

quá. Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội

sinh vì lợi ích của đất nước như Bà Hiền, mẹ Tuất sẽ là những người lưu giữ,

rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi

phát huy văn hố “mảnh đất kinh kì”và nhân cách Hà Nội để nơi đây mãi mãi

góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những


xứng đáng là mảnh đất nghìn năm văn hiến với những con người Tràng An

ánh vàng”. Ví Bà Hiền như hạt bụi vàng - một hình ảnh, một sự vật nhỏ bé,

thanh lịch trong mọi thời đại.

khiêm nhường, cao đẹp mà quý báu. Nhiều hạt bụi vàng hợp lại thành ánh

Vào thời kì đất nước đổi mới, trong bộn bề phức tạp của cuộc sống

vàng chói sáng, đó là phẩm giá đã thành bản sắc Hà Nội, văn hoá Hà Nội.

thường ngày, chúng ta nhận thấy một Hà Nội hơm nay đã thay đổi, nhưng

● “Một người Hà Nội”cịn tái hiện sinh động và hóm hỉnh cách

“chỉ phần xác thơi, cịn phần hồn thì chưa”. Để thích nghi với nhịp sống mới,

nhìn, cách nghĩ rất ấu trĩ của một thời về những người giàu có và cách

người ta quan tâm đến cuộc sống hiện tại, từ bỏ lối sống cũ “cứ nhìn nghe

sống, cách nghĩ của dân ta thời bao cấp

những người Hà Nội bn bán, ăn uống, nói năng, cư xử với nhau ở ngoài

Năm 1955, là một người lính từ kháng chiến về giải phóng thủ đơ,

đường là đủ rõ”. Mặc cho cơn lốc thị trường và cuộc sống ngồi kia có thay


chứng kiến cảnh sống của gia đình Bà Hiền người kể chuyện tự bộc bạch:

đổi như thế nào thì Bà Hiền vẫn kiên định, vẫn lưu giữ hồn văn hố đất kinh

“Tơi khơng dám thốt ra miệng nhưng vợ chồng vẫn bảo riêng nhau: Cô Hiền

kì, và dù “cơ đã yếu nhiều, đã già hẳn, ngồi bảy mươi rồi cịn gì, nhưng cơ

đích thị là tư sản rồi. Đã là tư sản thì khơng thể tin cậy được. Việc mình mình

vẫn là người của hơm nay, một người Hà Nội của hôm nay, thuần tuý Hà Nội,

biết, việc cơ mặc cơ dính líu nhiều có ngày lại rắc rối”. Suy nghĩ ấy của nhân

không pha trộn”. Sau tấm bình phong, nơi tiếp khách của Bà Hiền người đọc

vật “Tôi” đã cho người đọc thấy sự chân thật về nét tâm lí một thời của cán

thấy vẹn nguyên cái hồn của Hà Nội được lưu giữ với vẻ đẹp cổ kính, sang

bộ, nhân dân ta từ kháng chiến trở về, một nét tâm lí mang đậm những định

trọng và quý phái “suốt mấy chục năm không hề thay đổi”. Không gian ấy

kiến giai cấp cho rằng những người giàu có đều là thuộc giai cấp bóc lột, ở

khiến cho nhân vật “Tôi” khi đối diện với nó phải thốt lên “bên ngồi trời rét,

thành thị là tư sản, ở nơng thơn là địa chủ. Ở khía cạnh này, nhà văn Nguyễn


mưa rây lả lướt chỉ làm ẩm áo chứ khơng làm ướt, lại nhìn một bà lão lau

Khải thẳng thắn chỉ ra cho người đọc nhớ tới “cái ấu trĩ” của một thời kì lịch

đánh cái bát thuỷ tiên, thấy tết quá, Hà Nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn một

sử khá dài cách chúng ta chưa xa. Đó là thời kì mà Bà Hiền nhận xét “vui hơi

cái tết Hà Nội”. Hình ảnh một bà lão ngoài bảy mươi đang lau đánh cái bát

nhiều, nói cũng hơi nhiều phải nghĩ đến làm ăn chứ”, đó là thời kì mà “chính

thuỷ tiên men đỏ trong khơng khí giáp tết là một nét phong lưu thanh lịch của

phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá”. Qua lời kể của chị vú, khi chị đi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

29

http:// www.lrc-tnu.edu.vn

30

http:// www.lrc-tnu.edu.vn


ra đường là cán bộ đuổi theo bám riết dò hỏi khiến chị bực mình bình luận:


Ý thức mở rộng khả năng chiếm lĩnh hiện thực, khả năng khám phá

“Cách mạnh gì tồn để ý những chuyện lặt vặt”. Đó là thời kì mà “chế độ này

phát hiện con người đã trở thành thường trực trong ngịi bút của Nguyễn

khơng thích cá nhân làm giàu, chỉ cần họ đủ ăn, thiếu ăn một chút càng hay,

Khải. Nếu trước 1978, cái nhìn của Nguyễn Khải về con người là cái nhìn một

thiếu ăn là vinh chứ khơng là nhục”, đó là thời kì mà khơng ai được làm bất

chiều “cái gì cũng có lí một thời nhất cử nhất động đều có lí” (Phía khuất

cứ việc gì gọi là “bn bán” hoặc thuê người làm, khiến cho Bà Hiền không

mặt người) thì giờ đây ơng nhận ra “con người là một tổng thể vô cùng phức

đồng ý cho chồng mua một máy in nhỏ để kinh doanh, đành để ông ăn bám

tạp, làm sao có thể cân đo đong đếm và có thể chia nó ra, ép nó lại thành

vợ: “Chú tuy chưa già nhưng đành để ngồi chơi, các em sẽ đi làm cán bộ, tao

những tiêu chuẩn chính xác trong một hệ thống hoạt động kinh tế mà còn có

sẽ phải ni một lũ ăn bám, dẫu họ có đủ tài để khơng phải sống ăn bám”.

hoạt động chính trị, hoạt động văn hố hoạt động tơn giáo và trăm ngàn ràng


Cũng qua cái nhìn của người cháu là bộ đội từ kháng chiến trở về,

buộc khác nó chia sẻ lo nghĩ của mọi người” (Khoảnh khắc đang sống).

cuộc sống của gia đình Bà Hiền “mấy chục năm sống dưới chế độ ta” mà vẫn

Trong truyện ngắn “Một người Hà Nội” nhân vật “Tơi” có cái nhìn khơng hề

cịn giữ nguyên vẹn nét đẹp văn hóa Hà Nội, đó là “mỗi tháng cô chú đều tổ

tĩnh tại, giản đơn về người cơ của mình và ln có sự thay đổi. Nếu lúc đầu là

chức một bữa ăn bạn bè, gồm các cựu công dân Hà Nội. Những tên tuổi

cái nhìn e ngại vì “cảm thấy cơ Hiền đích thị là tư sản rồi” nên không ghi tên

thành danh của đất kinh kì”. Họ ăn mặc sang trọng, q phái. Các ơng thì “mũ

cơ trong lịch cán bộ của mình thì về sau chứng kiến những đau đớn, dằn vặt

dạ, áo ba- đờ- xuy, bỏ áo khốc ngồi, bên trong mặc bộ đồ, thắt cà vạt”, còn

của người mẹ khi quyết định cho hai đứa con lên đường nhập ngũ thì cái nhìn

các bà “lược giắt trâm cài hoa hột lấp lánh... áo nhung, áo dạ, đeo ngọc, đeo

của nhân vật “Tôi” trở thành niềm ngưỡng mộ và cuối cùng là cảm hứng tôn

dây đi lại uyển chuyển”.


vinh ca ngợi khi phát hiện ra bản lĩnh, cốt cách văn hoá đậm nét trong con

Bên cạnh việc ca ngợi nét đẹp văn hóa của người Hà Nội, nhà văn

người cơ “một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của

cũng chân thật nói lên cái giản dị trong cuộc sống đời thường được diễn ra

Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu

hàng ngày của người Hà Nội nhằm phê phán theo lối tự trào “ngày thường,

đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng

các bà mặc áo bông ngắn, quần thâm, đi dép hay đi guốc, vuông khăn len tơi

ánh vàng”. Với cái nhìn đa chiều về con người trong tác phẩm, Nguyễn Khải

tớp buộc cổ hay bịt đầu, là các cô Lọ Lem của mỗi ngày” để nếu có trị

đã làm nên sự sâu sắc trong chủ đề của truyện “Một người Hà Nội”.

chuyện thì cũng được ăn nói “bng tuồng thiếu ý tứ” vì theo nhà văn “tất cả
bình dân, tất cả đều có quyền ăn nói thơ tục”.

“Một người Hà Nội” ngồi khẳng định, ngợi ca cái đẹp về chiều sâu
văn hoá trong lối sống của người Hà Nội, đó là nét thanh lịch hào hoa trong

Bằng cách đó, nhà văn nhẹ nhàng phê phán cái ẫu trĩ trong cách nhìn,


cách ăn mặc, ứng xử hằng ngày, cách dạy con của Bà Hiền, nét cá tính và bản

cách nghĩ của chúng ta ở một thời kỳ dài, thời kì đó chưa xa cịn rơi rớt đến

lĩnh, ln dám là mình ở nhân vật Bà Hiền nhà văn gửi gắm, bộc lộ một tình

bây giờ.

yêu sâu nặng, một niềm ngưỡng mộ tha thiết đối với văn hố đất kinh kì, tác

●“Một người Hà Nội” hàm chứa một chiều sâu tư tưởng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

31

http:// www.lrc-tnu.edu.vn

phẩm còn đặt ra vấn đề hãy thay đổi cách nhìn nhận, cách đánh giá về những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

32

http:// www.lrc-tnu.edu.vn


người trong giới thượng lưu Hà Nội. Những phẩm chất, nét đẹp văn hóa trong


Nghệ thuật trần thuật là bút pháp tiêu biểu trong tác phẩm tự sự, bởi tự

lối sống của họ và sự đóng góp của họ cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất

sự là kể lại, là chú trọng đến các yếu tố sự kiện. Vì thế, nghệ thuật trần thuật

nước cần được nhìn nhận một cách khách quan, hãy từ bỏ cái nhìn thành kiến

là việc tổ chức, sắp xếp xâu chuỗi sự kiện, tình tiết để tạo nên một cốt truyện,

vì quan điểm giai cấp. Qua đó, nhà văn cịn muốn khẳng định một cái nhìn,

một tình huống truyện. “Trần thuật” là phương diện kết cấu nên tác phẩm, là

một cách đánh giá con người: Đừng đem những định kiến chủ quan của mình

yếu tố thu hút độc giả đưa người đọc vào thế giới hình tượng tác phẩm, thơng

để vội vàng đánh giá con người và hành động nào đó trong cuộc sống.

qua ngơn từ tác phẩm để từ đó hình thành cảm xúc và thị hiếu thẩm mĩ ở

Khám phá giá trị vĩnh hằng trong những cái rất đời thường qua truyện

người đọc. Đọc truyện ngắn “Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải, chúng ta

ngắn “Một người Hà Nội” nhà văn Nguyễn Khải giúp chúng ta cảm nhận

thấy nhà văn trong khi trần thuật đặc biệt chú ý đến lối kể bằng đối thoại,


được giá trị quý báu vẫn tồn tại quanh ta, giá trị ấy chính là chất vàng mười

phân tích, bình luận nhằm góp phần bộc lộ tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm.

của cuộc sống mà bất cứ ai cũng có thể thấy xung quanh mình. Từ đó thức

Nhân vật người kể chuyện trong truyện ngắn “Một người Hà Nội” là người

tỉnh con người ý thức bảo vệ và phát huy những giá trị của mỗi vùng đất để

trần thuật lộ diện “Tôi”, tức là người trần thuật tham gia vào chuyện chứ

dân tộc Việt Nam mãi là đất nước giàu bản sắc văn hố truyền thống. Nguyễn

khơng bàng quan đứng ngoài. Cách xây dựng nghệ thuật như vậy khiến cho

Khải cố gắng đi tìm nét đẹp giản dị ở trong cuộc sống hằng ngày ở mỗi con

tác phẩm có bầu khơng khí gần gũi, cởi mở, gây hứng thú tranh luận giữa nhà

người bình thường để khẳng định giá trị văn hoá ở mỗi con người, coi đó là

văn và bạn đọc, đồng thời tạo nên tính “khách quan” khi đánh giá nhìn nhận

thước đo cần thiết cho sự trường tồn của một đất nước.

sự việc, hiện tượng. Đây là thủ pháp rất thành công của Nguyễn Khải.

Trong những phức tạp và sự bộn bề của cuộc sống hôm nay, nhà văn


Trong truyện ngắn “Một người Hà Nội” người kể chuyện xuất hiện ở

băn khoăn lo lắng về giá trị văn hoá của dân tộc ở mỗi người bị hồn cảnh xã

ngơi thứ nhất “Tơi” khiến cho người đọc dễ nhận ra người kể chuyện chính là

hội của thời mở cửa, của thời cơ chế thị trường đưa đẩy mà bản chất tốt đẹp

hình tượng tác giả, chính là “anh Khải”, “đồng chí Khải”. Câu chuyện mà

khơng còn nữa. Coi nhân vật Bà Hiền là “hạt bụi vàng của Hà Nội” nhà văn

nhân vật “Tôi” kể là câu chuyên về người thân trong gia đình, từ nguyên mẫu

Nguyễn Khải muốn khẳng định rằng: Trong Hà Nội hôm nay có mn vàn

ở ngồi đời - người cơ của mình, nhà văn đã tạo được một điểm nhìn nghệ

người Hà Nội mang trong mình tinh hoa, văn hố truyền thống của người Hà

thuật gần gũi, tin cậy để từ đó tình bày những trải nghiệm và suy nghĩ của bản

Nội. Và nhắc nhở chúng ta: Hãy giữ lại trong mình vốn sống, vốn văn hố

thân về những sự kiện và những chuyển biến trong cuộc đời nhân vật. Cũng

cho chính mình và cho cả dân tộc.

qua cuộc đời nhân vật mà nhà văn bộc lộ cách nhìn cuộc sống và con người


1.3.3.3 “Một ngƣời Hà Nội” thể hiện nghệ thuật đặc sắc trong văn

người cơ mình. Bà Hiền hiện dần lên trong quá trình biến đổi những quan

Nguyễn Khải
● Cách kể chuyện vừa thân tình, vừa hóm hỉnh có sức hấp dẫn đối

niệm nhìn nhận về con người và cuộc sống. Cứ mỗi lần tiếp xúc với người cô
của mình nhân vật “Tơi” lại khám phá được những bản chất tốt đẹp của người

với bạn đọc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

theo suy ngẫm, triết luận về nhân cách của người Hà Nội qua nếp sống của

33

http:// www.lrc-tnu.edu.vn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

34

http:// www.lrc-tnu.edu.vn


Hà Nội, lại chiêm nghiệm được những ý nghĩ sâu xa về cuộc đời này. Chẳng

không mấy vui vẻ về lối sống của con người Hà Nội: “trong bữa tiệc…hình


hạn “sau bữa tiệc mừng chiến thắng mười lăm năm, tầng lớp lính đã mất ngơi

như tơi nói hơi nhiều…về người dân Sài Gòn cũng lịch thiệp, nhã nhặn hơn

vị độc tơn của mình rồi. Bây giờ là thời các giám đốc công ty, các tổng giám

người dân Hà Nội. Những người ngồi nghe đều nín lặng, khơng một ai hỏi lại,

đốc công ty, các cố vấn chuyên viên kinh tế thật giả đủ loại lên ngôi ban phát

không một ai bình phẩm gì thêm”. Sự đối nghịch giữa hai thái độ trong một

mọi tiêu chuẩn giá trị cho cả xã hội”. Hoặc là, trong khung cảnh của tiết trời

bữa tiệc đó thể hiện một cuộc tranh luận ngầm giữa hai quan niệm đánh giá về

mùa xuân, trở lại thăm Bà Hiền, nhìn bà chăm chú lau đánh cái bát thuỷ tiên

Hà Nội của hai lớp người khác nhau. Cuộc tranh luận ngầm cịn diễn ra trong

chuẩn bị đón tết mà nhân vật “Tơi” có bao suy nghĩ về cái gì đó vừa mất đi

câu chuyện Bà Hiền kể về cây si đổ ở đền Ngọc Sơn. Khi người cháu thể hiện

trong sự xô bồ phức tạp của đời sống hôm nay ngay tại mảnh đất kinh kì này

thái độ bi quan về nếp sống, thái độ sống của người Hà Nội ngày nay đã làm

“năm nay chắc chưa thể có hoa thuỷ tiên. Dân Hà Nội nhảy tàu lên Lạng Sơn


mai một, làm mất đi nét đẹp truyền thống ngàn đời của mảnh đất “hào hoa

buôn bán đủ thứ mà lại không buôn được vài ngàn củ thuỷ tiên nhỉ? Ví thử có

thanh lịch” thì người cơ “khơng bình luận một lời nào về những nhận xét

thuỷ tiên liệu còn có người biết gọt thuỷ tiên? lại thêm cách sống, cái tâm lí

khơng mấy vui vẻ của tơi về Hà Nội” mà bà lại bình tĩnh kể cho người cháu

sống ồ ạt, xô bồ vụ lợi của đám người vừa thoát khỏi cái chết, cái khổ đã dễ

nghe về câu chuyện cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn bị bão đánh bật rễ, sau một

gì có được sự bình tĩnh để thưởng thức vẻ đẹp trang trọng của một dị hoa

tháng nhờ sự nỗ lực của chính quyền thành phố cây si được sống lại và trổ lá

thuỷ tiên”.

non. Câu chuyện tưởng chừng đơn giản nhưng trong đó lại chứa đựng triết lý

Xuất hiện trong tác phẩm để được đối thoại trực tiếp, để được bộc lộ

của nhà văn về niềm tin vào sự trường tồn của nét đẹp văn hoá Hà Nội “với

suy ngẫm và cách đánh giá của mình, nhân vật “Tơi”- người kể chuyện muốn

người già, bất kể ai, cái thời đã qua luôn là thời vàng son. Mỗi thế hệ đều có


đưa người đọc vào sự trải nghiệm, đánh giá về những vấn đề thời sự mà ơng

thời vàng son của họ. Hà Nội thì khơng thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp

đặt ra trong tác phẩm. Đó là nét đặc sắc trong văn cuả Nguyễn Khải.

riêng cho mỗi lứa tuổi”. Cho nên những điều khiến cho nhân vật tơi khó chịu,

● Giọng kể là giọng chiêm nghiệm, triết lí có pha chút tự trào tạo

bực tức khi chứng kiến cảnh “ông bạn đạp xe như gió đã làm xe người ta suýt
đổ lại cịn phóng xe vượt qua rồi quay mặt lại chửi: Tiên sư cái anh già”…

hứng thú cho người đọc khi đọc “Một người Hà Nội”
Giọng điệu kể chuyện cũng là một yếu tố quan trọng trong cách tổ chức

chỉ là sự nhất thời còn bản chất Hà Nội vẫn lưu giữ một sức sống văn hoá mà

kể chuyện của Nguyễn Khải cũng như trong truyện ngắn “Một người Hà Nội”.

khơng một thời nào có thể đổi thay. Những người như Bà Hiền, như những

Người đọc nhận ra giọng kể đa sắc điệu của nhà văn trong truyện ngắn

người bạn của bà, như Dũng, Tuất… là con người đang âm thầm lưu giữ và

này, khi thì giọng triết lý, lúc lại bộc lộ giọng biện luận, tranh biện qua việc

phát huy sức sống của văn hoá Hà Nội.


tạo ra các đối thoại giữa các nhân vật. Nhưng có khi giọng triết lý, tranh biện

Bên cạnh giọng điệu triết lý tranh biện, người đọc bắt gặp giọng điệu

chỉ xuất hiện ngầm, kín đáo qua thái độ của nhân vật trong tác phẩm. Chẳng

mang sắc thái tâm tình, đầy cảm xúc trong “Một người Hà Nội” đó là cảnh

hạn thái độ im lặng của người bạn Bà Hiền khi nghe nhân vật “Tôi” nhận xét

khi nhân vật “Tôi” chứng kiến một bà lão đang chuẩn bị đón tết mà cảm thấy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

35

http:// www.lrc-tnu.edu.vn

36

http:// www.lrc-tnu.edu.vn


“tết quá, Hà Nội quá”. Hay là, khi kể cho người cháu nghe xong câu chuyện

vào, sục đũa vào, vừa ăn vừa quát mắng con cái. Nhồm nhoàm, hả hê không


về cây si bị bão đánh đổ Bà Hiền tâm sự: “Thiên địa tuần hồn, cái vào ra

cần phải khn bó theo một qui tắc nào cả. Ăn cốt để sống, để làm việc, hay

của tạo vật là không thể lường trước được”. Với lịng cảm phục trước người

hớm gì cái thứ nghi lễ rườm rà của giai cấp tư sản ”. Trong bữa cơm gia đình

cơ của mình nhân vật “Tôi” thốt lên: “bà già vẫn giỏi quá, khiêm tốn và rộng

Bà Hiền tổ chức mừng Dũng trở về, khi được hỏi về chuẩn giá trị xã hội thuộc

lượng quá. Một người như cô phải chết đi thật tiếc…”. Với giọng điệu tâm

về lớp người nào thì “Tơi” cười phá lên trả lời: “Bây giờ là thời các giám đốc

tình này, Nguyễn Khải kín đáo thể hiện suy ngẫm của mình về văn hố Hà

cơng ti, tổng giám đốc công ti, các cố vấn, chuyên viên kinh tế thật giả đủ loại

Nội và ông muốn khẳng định rằng, dù cuộc sống có đổi thay thì Hà Nội vẫn

lên ngơi ban phát mọi tiêu chuẩn giá trị cho cả xã hội”. Cũng trong bữa tiệc

vẹn nguyên trong mình những giá trị văn hố bền vững.

ấy, nhân vật tơi nhận ra “Tôi chỉ là một loại nhân vật phụ, ghé gẩm vào cái

“Một người Hà Nội” cịn có giọng kể dân dã, giản dị - một đặc điểm


vinh quang chung mà thơi”.

trong giọng kể của Nguyễn Khải sau năm 1978. Có khi là lời nói của chính

“Một người Hà Nội” cịn có giọng điệu tự tin xen lẫn giọng hồi nghi.

người kể chuyện - nhân vật “Tôi”. Chẳng hạn, khi nhân vật “Tơi” nói về quan

Là một cán bộ từ kháng chiến trở về giải phóng thủ đơ Hà Nội, chứng kiến

hệ của mình với Bà Hiền, nhà văn dùng lối nói quen thuộc của ngơn ngữ khẩu

cảnh sống của gia đình người cơ mình, nhân vật “Tơi” băn khoăn: “nhưng tôi

ngữ hàng ngày “trong lý lịch tôi không ghi tên cơ Hiền, họ thì xa bắn súng đại

vẫn lo....tơi vẫn nghi ngại gia đình này khó gắn bó với chế độ mới ”. Khi Hà

bác chưa chắc đã tới, huống hồ cịn là bà tư sản, dính líu vào thêm phiền”.

Nội đang trong những ngày đầu giải phóng, tận mắt chứng kiến cảnh sống của

Trước niềm vui Hà Nội vừa được giải phóng, nhân vật “Tơi” bộc bạch “Với

người Hà Nội nhân vật “Tơi” bộc lộ: “Chúng tơi thì vui thế, tại sao những

lứa tuổi chúng tôi ngày ấy mới hăm bốn hăm nhăm cái xuân xanh là cực kì

người vốn sống ở Hà Nội chưa thật vui nhỉ?”.


khoan khoái”. Trong một tình huống khác, nhà văn để cho nhân vật chị vú

Bằng sự kết hợp nhiều giọng điệu kể chuyện như thế, Nguyễn Khải đã

bộc lộ giọng điệu “thông tục” khi trả lời câu hỏi của cán bộ về cách cư xử của

rút ngắn và làm gần lại khoảng cách giữa bạn đọc với nhà văn, giữa thế giới

Bà Hiền với chị: “Nếu họ khơng tử tế thì tơi đã xéo đi từ lâu rồi, không khiến

nghệ thuật của nhà văn với hiện thực cuộc sống, tạo ra hoàn cảnh thích hợp để

anh phải xui”.

tâm sự, giãi bày và đối thoại cùng độc giả. Vì vậy đọc “Một người Hà Nội”

Một giọng điệu làm nên sự độc đáo của “Một người Hà Nội” cịn là
lối nói tự trào, đùa tếu của chủ thể trần thuật. Văn Nguyễn Khải luôn ln có
xu hướng xóa nhịa khoảng cách giữa nhân vật và người kể chuyện, người đọc
bắt gặp lối nói đùa, tự trào của tác giả nói về mình một cách tự nhiên khơng e

chúng ta thấy một khơng khí tiếp nhận văn chương dân chủ, cởi mở, giản dị
tạo hứng thú cho người đọc tiếp nhận tác phẩm.
● “Một người Hà Nội” tiêu biểu cho nghệ thuật xây dựng nhân vật
trong văn của Nguyễn Khải

ngại “Gia đình tơi thì ăn uống bình dân hơn, vợ chồng con cái ngồi xúm xít

Nói đến kết cấu của một tác phẩm tự sự, chúng ta không thể không


quanh cái mâm nhôm, thức ăn có khi múc ra bát , ra đĩa, có khi cứ để nguyên

nói đến nghệ thuật xây dựng nhân vật. Bởi vì nhân vật là phương tiện quan

trong nồi, nồi lớn đặt giữa mâm, nồi nhỏ đặt cạnh mâm. Cứ việc sục muôi

trọng giúp nhà văn thực hiện ý tưởng sáng tác, quan điểm nghệ thuật trong tác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

37

http:// www.lrc-tnu.edu.vn

38

http:// www.lrc-tnu.edu.vn


phẩm nghệ thuật của mình. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn

Xây dựng nhân vật chính trong quan hệ với nhiều nhân vật khác để

“Một người Hà Nội” được nhà văn đặt trong mối quan hệ so sánh, để từ đó

làm sáng tỏ quan niệm, tư tưởng của mình là một đặc điểm nổi bật nữa trong

người đọc tự nhận thức được tư tưởng mà nhà văn gửi gắm qua mỗi hình


nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Khải. Bên cạnh một Bà Hiền khôn

tượng nhân vật. Chẳng hạn, để làm sáng tỏ lối sống của Bà Hiền, nhà văn so

ngoan, đảm đang, thông minh, thức thời, ln dám làm thì người đọc cịn thấy

sánh lối sống của bà với lối sống phổ biến của con người thời đại ấy (thông

nhiều người khác cũng đang âm thầm gìn giữ vẻ đẹp truyền thống ngàn năm

qua lối sống của gia đình người cháu): Nơi ở của bà “rộng quá, một toà nhà

văn hiến của mảnh đất Hà Thành, đó là những người bạn của Bà Hiền là bà

tọa lạc ngay tại một phố lớn, hướng nhà nhìn thẳng ra cây si cổ thụ và hậu

mẹ của Tuất. Đáng quý là sự âm thầm đấy còn giữ lại ở ngay trong những

cung của đền Ngọc Sơn. Với người vô sản ở quá rộng là một cái tội, trong khi

thanh niên hào hoa, thanh lịch như Dũng, Tuất. Họ là những người góp phần

cán bộ và gia đình họ phải ở chen chúc trong những khu nhà tập thể có khi

gìn giữ truyền thống văn hố nghìn đời của Hà Nội và của đất nước Việt Nam

phải ở ngay gầm cầu thang của nhà bạn bè”. “Cái ăn” của gia đình Bà Hiền

chúng ta.


cũng được so sánh với gia đình “Tơi”: “Bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có

Với cách xây dựng nhân vật như thế, Nguyễn Khải giúp người đọc dễ

một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy bản và từng người ngồi

dàng phát hiện ra nội dung tư tưởng của tác phẩm, hướng người đọc đến sự tự

đúng chỗ quy định” cịn “gia đình tơi thì ăn uống bình dân hơn, vợ chồng con

nhận thức mình và thấy rằng mình cần phải làm gì để gìn giữ truyền thống tốt

cái ngồi súm sít quanh cái mâm nhơm, thức ăn có khi múc ra đĩa, có khi cứ để

đẹp của văn hố từ ngàn xưa cịn lưu giữ đến hơm nay và tiếp tục phát huy giá

nguyên trong nồi, nồi lớn đặt giữa mâm, nồi nhỏ đặt cạnh mâm, cứ việc sục

trị truyền thống tốt đẹp ấy đến muôn đời.

muôi vào, sục đũa vào, vừa ăn vừa qt mắng con cái, nhồm nhồm hả hê,
khơng theo một quy tắc nào cả”. Ngay thái độ của những người trong gia đình
Bà Hiền cũng được nhà văn đặt trong mối quan hệ so sánh giữa một bên là
thái độ thân tình cởi mở của người chồng “ơng chồng bước tới, nắm tay tôi
hỏi hồn nhiên: Tại sao Chủ nhật trước đồng chí khơng ra chơi, cả nhà chờ
cơm mãi” và thái độ phấn khởi của những đứa con khi thấy đồng chí Khải
đến: “mẹ ơi! đồng chí Khải đến!” thì Bà Hiền cau mặt gắt: “phải gọi là anh
Khải, hiểu chưa?” rồi nghe ơng chồng nói thì “thở dài quay người đi”. Rõ
ràng, khi cuộc sống mới như vịng xốy quẩn quanh trong nếp sống, trong

cách nghĩ của con người thì Bà Hiền vẫn giữ nguyên bản lĩnh, cốt cách của
một con người không chạy theo thời thượng, vẫn ln là chính mình, dám làm
mình và khơng dễ dàng bị cám dỗ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

39

http:// www.lrc-tnu.edu.vn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

40

http:// www.lrc-tnu.edu.vn


pháp nhằm rút ngắn khoảng cách lịch sử - văn hoá của học sinh dân tộc miền

Chƣơng 2
KHOẢNG CÁCH LỊCH SỬ - VĂN HOÁ Ở HỌC SINH DÂN TỘC

núi về truyện ngắn này.

MIỀN NÚI KHI HỌC TRUYỆN NGẮN “MỘT NGƯỜI HÀ NỘI” CỦA

● Đối tƣợng khảo sát:

NHÀ VĂN NGUYỄN KHẢI VÀ NHỮNG BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC


Học sinh lớp 12 là người dân tộc miền núi đang học tập tại trường Văn

Là những giáo viên trực tiếp giảng dạy văn hoá cho học sinh dân tộc

hố I - Bộ Cơng an - Tỉnh Thái Nguyên.

thiểu số miền núi tại trường Văn hố I - Bộ Cơng an - Tỉnh Thái Ngun,

● Phƣơng pháp khảo sát:

chúng tôi đang đứng trước một thực tế vơ cùng khó khăn: Làm thế nào để

Chúng tơi tiến hành khảo sát 155 em học sinh gồm các dân tộc:

giúp học sinh người dân tộc thiểu số miền núi cảm, hiểu, tiếp nhận tác phẩm
viết về miền xuôi, về Hà Nội như truyện ngắn “Một người Hà Nội” của nhà

Dân tộc

Số học sinh Dân tộc

Số học sinh

Dân tộc

Số
học sinh

văn Nguyễn Khải? Làm thế nào để đưa học sinh dân tộc thiểu số miền núi


Tày

33

Sách

2

Sán Chỉ

1

vượt qua “màng cách điện tâm hồn” (Hoàng Hữu Bội - Dạy và học tác phẩm

Mơng

27

Kháng

2

Cống

1

Dao

26


Thổ

1

Chứt

1

Thái

24

Lào

1

Poọng

1

Mường

12

Giáy

1

Khùa


1

Nùng

10

Lự

1

Khơ Mú

3

Bố Y

1

Vân Kiều

2

Sán Dìu

1

Hà Nhì

2


Si La

1

văn học ở trường trung học miền núi) để xâm nhập vào tác phẩm, để xúc cảm,
để suy ngẫm với nhà văn về cuộc sống và con người? Để tìm lời giải đáp cho
những câu hỏi đó, trước hết phải phát hiện ra những khó khăn vướng mắc từ
trong thực tế tiếp nhận truyện ngắn “Một người Hà Nội” của học sinh dân tộc
thiểu số miền núi, để từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm hạn chế khoảng
cách tiếp nhận đó ở các em.
Để phát hiện ra những khó khăn, vướng mắc của học sinh dân tộc miền
núi khi tiếp nhận truyện ngắn “Một người Hà Nội” của nhà văn Nguyễn Khải
chúng tôi tiến hành các bước:

Bằng cách lập phiếu điều tra có in sẵn những câu hỏi, học sinh trả lời ghi

2.1 Khảo sát những khoảng cách lịch sử - văn hóa học sinh ở học sinh

vào phiếu khảo sát, từ kết quả đó chúng tơi tổng hợp và phân tích số liệu. Nội

dân tộc miền núi khi học truyện ngắn “Một ngƣời Hà Nội”

dung phiếu khảo sát như sau:

● Mục đích khảo sát:

Về nhân vật Bà Hiền:

Nhằm phát hiện những khó khăn trở ngại mà học sinh các dân tộc miền
núi gặp phải trong việc tiếp nhận truyện ngắn “Một người Hà Nội” của nhà

văn Nguyễn Khải, tìm ra những nguyên nhân để từ đó đề xuất một số biện

1. Cảm nhận đầu tiên của em về nhân vật Bà Hiền sau khi đọc xong
truyện “Một người Hà Nội” ?
2. Chi tiết nghệ thuật nào kể về nhân vật Bà Hiền khiến người miền núi
thích thú?

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

41

http:// www.lrc-tnu.edu.vn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

42

http:// www.lrc-tnu.edu.vn


3. Theo em Bà Hiền là người như thế nào (qua việc chọn bạn đời, việc
sinh con, việc quản lý gia đình, việc dạy con và sự chiêm nghiệm về lẽ đời) ?

6. Qua hình tượng nhân vật “Tơi” nhà văn đã ngợi ca điều gì và phê phán
điều gì?

4. Em thích nét tính cách nào ở nhân vật Bà Hiền?

Về nghệ thuật kể chuyện:


5. Cách sống của Bà Hiền có nét gì rất riêng của người Hà Nội?

1. Giọng điệu chủ đạo của truyện ngắn “Một người Hà Nội” là gì?

6. Chi tiết: “bên ngồi trời rét, mưa rây lả lướt chỉ đủ làm ẩm chứ không

2. Cách kể chuyện có gì đặc sắc?

làm ướt, lại nhìn một bà lão (nếu là một thiếu nữ thì phải hơn) lau đánh cái
bát thuỷ tiên thấy tết quá, Hà Nội quá” gợi cho em suy nghĩ gì?
7. Nhan đề của truyện gợi cho em suy nghĩ gì? (Tại sao tác giả lại đặt tên
truyện là “Một người Hà Nội”?.

3. Qua ngôn ngữ kể chuyện, nhà văn muốn cho người đọc biết gì về lối
sống của người Hà Nội qua các bước thăng trầm của lịch sử?
4. Ấn tượng sâu sắc để lại trong em khi đọc truyện “Một người Hà Nội”?
5. Qua việc đọc và tự tìm hiểu, em thấy có điều gì khó khăn khi tiếp nhận

8. Qua nhân vật Bà Hiền em hiểu gì về người Hà Nội?

truyện ngắn “Một người Hà Nội” của nhà văn Nguyễn Khải? Để hiểu được

Về nhân vật “Tôi” - Ngƣời kể chuyện:

truyện ngắn này em đề xuất ý kiến gì?

1. Em hiểu tơi ở đây là ai?

● Kết quả khảo sát


2. Nhân vật “tơi” đã có cái nhìn như thế nào về người Hà Nội?

Kết quả thống kê được từ phiếu khảo sát đã cho chúng tôi thấy học sinh

3. Em suy nghĩ gì về lời bình luận của người kể chuyện qua đoạn văn sau
đây về nhân vật Bà Hiền:

các dân tộc miền núi gặp phải khó khăn, vướng mắc khi đến với truyện ngắn
“Một người Hà Nội” như sau:

- “Cô đã yếu nhiều, đã già hẳn, ngồi bảy mươi rồi cịn gì? Nhưng cơ
vẫn là người của hơm nay, một người của Hà Nội hôm nay, thuần tuý Hà Nội,
không pha trộn”.

2.1.1 Học sinh dân tộc miền núi chƣa hiểu đƣợc nét tâm lí thời đại
của một thời kì dài trong chế độ ta
Viết truyện ngắn "Một người Hà Nội" nhà văn Nguyễn Khải đã bám

- “Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà

sát quá trình lịch sử của dân tộc ta từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến

Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở

chống thực dân Pháp đến cuộc sống thực tại những năm 90 của thế kỉ XX qua

mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng

câu chuyện cuộc sống gia đình Bà Hiền, cụ thể là: cuộc sống của gia đình Bà


những ánh vàng”.

Hiền trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp, qua những năm đầu Hà

4. Vì sao người kể chuyện lại thấy “tức” và “đau” khi gặp những người
thiếu lễ độ, thiếu văn hố?

Nội vừa giải phóng đến những năm 90 của thế kỉ XX .Theo một trình tự thời
gian diễn biến sự việc, nhà văn kể lại những chặng đường lịch sử đó với giọng

5. Câu chuyện Bà Hiền kể về cây si ở đền Ngọc Sơn bị gió quật đổ được
sống lại nhờ sự nỗ lực của chính quyền thành phố có ý nghĩa gì?

tự trào hóm hỉnh để phê phán những ấu trĩ của cán bộ ta.
Sinh ra và lớn lên ở miền núi trong thời bình, học sinh là người dân tộc
thiểu số miền núi không hiểu được những năm tháng gian khổ, ác liệt mà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

43

http:// www.lrc-tnu.edu.vn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

44

http:// www.lrc-tnu.edu.vn



nhân dân ta ở miền xuôi, nhân dân thủ đô Hà Nội phải chịu đựng, các em

trong truyện ngắn "Một người Hà Nội" của nhà văn Nguyễn Khải mỗi tháng

không hình dung gì được về cuộc sống của nhân dân ta, về chế độ chính sách

một lần tổ chức một bữa ăn với bạn bè gồm các cựu công dân Hà Nội, bữa

của Đảng và nhà nước trong thời kì đầu xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Do vậy

cơm sang trọng và thân mật… em thấy đó là cách sống rất hay, nhưng người

các em không sao hiểu được giọng tự trào của nhà văn và những điều nhà văn

dân ở bản em thì chưa bao giờ có buổi gặp mặt như thế vì sáng sớm đã phải đi

phê phán. Trong phiếu điều tra các em đã thể hiện rõ điều này: “Em khơng

nương. Nếu nương rẫy ở gần thì kịp về nhà ăn bữa cơm trưa còn nếu ở xa quá

biết tại sao trong kháng chiến chống Pháp, những gia đình địa chủ, tư sản ở

thì mặt trời lặn mới về. Cuộc sống vất vả, lam lũ, suốt ngày lo làm sao có cơm

nước ta, nhất là ở Hà Nội lại bị coi là người bóc lột, phải đi học tập, cải tạo.

ăm là tốt lắm rồi. Còn việc tổ chức ăn uống như gia đình Bà Hiền thì chẳng

Mà em không biết học tập cải tạo ở đâu, em nghĩ chắc họ đi tù thì phải” (em


bao giờ có”.

Phùn Dùng Hiển - dân tộc Dao - Quảng Ninh). Có em bộc lộ: “nhà văn

Viết truyện ngắn "Một người Hà Nội" nhà văn Nguyễn Khải muốn gợi

Nguyễn Khải nói về “chế độ mới”, em không hiểu chế độ mới ở đây là chế độ

lại khơng khí một Hà Nội cổ kính, sang trọng qua miêu tả chi tiết về gian

nào? ” (em Ngân Văn Hai - dân tộc Thái - Thanh Hố). Từ thực tế cảm thụ đó

phịng tiếp khách của gia đình Bà Hiền, nhưng chi tiết ấy lại khiến học sinh

của học sinh, chúng tôi cho rằng, khơi gợi lại tâm lí thời đại, khơng khí của

người dân tộc thiểu số miền núi khơng hình dung được như thế nào? em Già

lịch sử để giúp cho học sinh dân tộc thiểu số miền núi cảm nhận được những

Bá Trồng - dân tộc Mông - Nghệ An viết: “Em khơng thể nào hình dung ra

ý sâu kín ẩn chứa trong tác phẩm văn chương nói chung, văn chương viết về

khung cảnh phòng tiếp khách nhà Bà Hiền, nào là sập gụ chân quỳ, nào là tủ

miền xuôi, về Hà Nội nói riêng là cần thiết.

chùa, lư hương, bộ sa lơng gụ… những đồ vật ấy em chưa nhìn thấy bao giờ”.


2.1.2 Học sinh dân tộc miền núi rất xa lạ với bức tranh đời sống vật
chất và đời sống tinh thần của tầng lớp thƣợng lƣu ở Hà Nội qua các giai

Rõ ràng, đối với học sinh dân tộc thiểu số miền núi thì đời sống vật chất và
cuộc sống tinh thần của người Hà Nội còn rất xa lạ với các em.
Qua miêu tả cách ăn, mặc của người Hà Nội trong truyện ngắn "Một

đoạn lịch sử đƣợc miêu tả trong tác phẩm
Qua nghiên cứu các phiếu khảo sát của các em học sinh về truyện ngắn

người Hà Nội" chúng tôi nhận thấy rằng với cách ăn cách mặc đó của người

"Một người Hà Nội" của nhà văn Nguyễn Khải, chúng tôi thấy học sinh dân

Hà Nội rất quen thuộc đối với người miền xi thì lại vô cùng xa lạ đối với

tộc thiểu số miền núi rất xa lạ với bức tranh đời sống vật chất và đời sống tinh

học sinh dân tộc thiểu số miền núi. Em Hồ Cương - dân tộc Vân Kiều -

thần của tầng lớp thượng lưu ở Hà Nội. Chẳng hạn, trong truyện ngắn "Một

Quảng Bình viết: “Là một người sinh ra ở miền núi, khi đọc truyện ngắn

người Hà Nội" nhà văn Nguyễn Khải đã tái hiện lại một nếp sống, nếp sinh

"Một người Hà Nội" của nhà văn Nguyễn Khải, em thấy cuộc sống của

hoạt của giới thượng lưu ở Hà Nội qua miêu tả việc tổ chức bữa ăn mỗi tháng


những người giàu có, lương thiện như gia đình Bà Hiền ở Hà Nội khác xa với

một lần của gia đình Bà Hiền với những người bạn của bà cũng khiến các em

cuộc sống của người dân ở bản em. Bữa ăn của gia đình Bà Hiền chuẩn bị cẩn

bỡ ngỡ khó hiểu. Em Và Bá Pó - dân tộc Mông - Nghệ An giãi bày rất thật

thận q, cịn người dân q em đến bữa ăn thì “cả nhà ăn chung nồi, ngồi

cảm nghĩ của người dân tộc thiểu số miền núi: “Em thấy gia đình Bà Hiền

chung mâm” vừa ăn vừa nói chuyện bằng thứ tiếng của dân tộc em”. Em Phàn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

45

http:// www.lrc-tnu.edu.vn

46

http:// www.lrc-tnu.edu.vn


Dùn Sinh dân tộc Dao - Hà Giang thì viết: “Cái mặc của người Hà Nội khác

thực mà tinh tế sâu sắc. Phẩm chất bền vững đó thuộc về đạo lí làm người và


hẳn với người quê em. Người dân quê em ăn mặc rất đơn giản, quần áo thì

cũng chính là căn cốt giúp Bà Hiền có thể sống tốt đẹp ở mọi thời, trong mọi

làm từ sợi cây rừng dệt thành vải, để may áo quần. Còn người Hà Nội các ơng

mối quan hệ gia đình và xã hội. Dù cuộc sống có những lúc thăng trầm,

mặc áo ba-đờ-xuy, đi giày da, các bà đi giày nhung đính hạt cườm, mặc áo

nhưng lúc nào Bà Hiền cũng tỏ rõ là con người khôn ngoan mà sang trọng,

măng-tô cổ lơng thì đúng là em chưa nhìn thấy bao giờ, qua cách tả của nhà

thức thời mà chu đáo, linh hoạt mà trung thực. Cũng qua nhân vật Bà Hiền

văn Nguyễn Khải em nghĩ chắc đấy là những bộ quần áo rất đẹp”.

nhà văn Nguyễn Khải muốn đề xuất một cách nhìn về người Hà Nội với vẻ

Nói về cách dạy con của Bà Hiền, nhiều em học sinh cho rằng Bà Hiền

đẹp truyền thống của đất kinh kì nghìn năm văn hiến. Và cho dù cuộc đời, xã

quá cẩn thận trong việc dạy dỗ con cái, điều đó quá xa vời với đời sống của

hội có đổi thay, “thiên điạ có tuần hồn” thì người Hà Nội vẫn là những con

người dân ở vùng núi cao xa xôi. Em Nông Công Dụng dân tộc Tày - Bắc


người “thuần tuý không pha trộn”. Nhưng học sinh là người dân tộc thiểu số

Kạn viết: “Đa số người dân bản em suốt ngày cặm cụi với công việc nương

miền núi không hiểu được ý đồ của nhà văn qua giọng điệu trần thuật hoặc

rẫy, chẳng bao giờ có thời gian để ý đến việc ăn mặc của con cái như thế nào.

không xác định được chủ đề mà nhà văn gửi gắm trong đó. Với "Một người

Ví dụ như bố mẹ em chẳng hạn, từ sáng sớm đến tối mịt luôn tay, luôn chân

Hà Nội" nhà văn Nguyễn Khải muốn khẳng định sức sống lâu bền của văn

với công việc nhà nông nên chẳng có thời gian để ý đến con cái”. Em Phùng

hoá đất Thăng Long, của người Hà Nội qua hình ảnh cây si ở đền Ngọc Sơn

Văn Ù dân tộc Thái - Điện Biên bộc bạch: “nhà văn Nguyễn Khải kể chuyện

bị gió quật đổ được sống lại nhờ sự nỗ lực của chính quyền thành phố, thì đối

Bà Hiền dạy con biết xấu hổ, biết tự trọng thì thật là tỉ mỉ, người dân quê em

với học sinh dân tộc thiểu số miền núi các em khó cảm nhận được. Em Lị

có lẽ chưa gia đình nào dạy con như thế”. Như vậy, từ kết quả những phiếu

Văn Văn - dân tộc Si La ở Lai Châu viết: “chi tiết ấy muốn nói rằng một xã


khảo sát chúng tôi nhận thấy học sinh dân tộc miền núi hiểu rất ít về vẻ đẹp về

hội cũ đã bị sụp đổ và một chế độ xã hội mới đã xuất hiện đổi mới và phát

chiều sâu văn hoá vật chất và văn hóa tinh thần của người Hà Nội.

triển”. Em Mong Văn Tươi dân tộc Chứt - Quảng Bình viết: “chi tiết cây si bị

2.1.3 Học sinh dân tộc miền núi chƣa có đủ độ tinh tế để hiểu đƣợc

gió quật đổ rồi sống lại có ý nghĩa là người đi trước ngã xuống thì người trẻ

thái độ của nhà văn trƣớc các hiện tƣợng đời sống qua giọng điệu trần

tiếp bước theo sau để học hỏi kinh nghiệm và cũng là sự chiêm nghiệm của

thuật của tác giả

lớp người đi trước”.

Chủ đề truyện ngắn "Một người Hà Nội" của nhà văn Nguyễn Khải

Hoặc chi tiết, nhân vật “Tôi” - người kể chuyện chứng kiến cảnh: một

được thể hiện qua việc miêu tả nhân vật Bà Hiền - một người Hà Nội có nhiều

bà lão lau đánh cái bát thuỷ tiên mà thấy dâng trào cảm xúc và thốt lên rằng:

nét đẹp. Bà là một người ln dám là mình: đề cao tự trọng trong quan hệ với


“tết quá, Hà Nội quá…”. Với chi tiết này nhiều học sinh dân tộc thiểu số miền

mọi người, với đất nước, trong chiêm nghiệm về lẽ đời, trong thu xếp việc gia

núi cho rằng đấy là việc làm cần cù, chăm chỉ, cẩn thận của bà cụ Hiền. Em

đình. Bà là người sống có văn hố. Ở Bà Hiền tốt lên một phẩm chất đáng

Vừ A Nếnh - dân tộc Mông - Lai Châu viết: “việc làm đó của Bà Hiền cho

quý: giản dị mà lịch lãm, thiết thực mà sang trọng, cần mẫn mà tài hoa, chân

chúng em biết được bà là người lao động cần cù, chịu khó, sáng tạo”.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

47

http:// www.lrc-tnu.edu.vn

48

http:// www.lrc-tnu.edu.vn


×