Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Hoàn thiện kiểm toán chu trình tiền lương và nhân viên trong kiểm toán BCTC tại Công ty Kiểm toán và Dịch vụ tin học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.71 KB, 64 trang )

phần mở đầu
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Kỹ thuật công nghiệp là bộ môn mang tính ứng dụng; nó giữ vai trò quan
trọng trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta. Bộ môn kỹ
thuật công nghiệp phổ thông có nhiệm vụ trang bị cho học sinh những nguyên
lý chung nhất của các quá trình sản xuất chủ yếu, các phương tiện kĩ thuật chủ
yếu và cách thức sử dụng chúng trong các quá trình công nghệ cơ bản. Đặc
trưng của môn kĩ thuật công nghiệp là tính ứng dụng và tính thực tiễn. Bộ
môn kĩ thuật công nghiệp được hợp thành từ nhiều phân môn khác nhau, mỗi
phân môn có những nét đặc thù riêng của nó. Phân môn kĩ thuật cơ khí được
dạy ở lớp 11 phổ thông với một lượng kiến thức lớn (dạy trong 33 tiết); do đó
vấn đề đặt ra là đòi hỏi người giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp dạy
học sao cho đạt hiệu qủa cao nhất.
Phương pháp dạy học trực quan là một trong những phương pháp dạy
học được ứng dụng nhiều trong giảng dạy ở phổ thông. Xuất phát từ nhiệm
vụ, nội dung của môn học cũng như đặc điểm của phương pháp dạy học trực
quan; em nhận thấy phương pháp dạy học trực quan là phương pháp dạy học
rất phù hợp với nội dung và đặc điểm của chương trình kĩ thuật công nghiệp
lớp 11 phổ thông. Phương pháp dạy học trực quan là phương pháp dạy học có
khả năng nâng cao chất lượng dạy học của bộ môn kĩ thuật công nghiệp, giúp
cho học sinh có cơ sở để phát triển tư duy lôgic, tư duy trừu tượng và năng
lực sáng tạo kĩ thuật.
Thực trạng dạy học kĩ thuật công nghiệp phổ thông những năm qua cho
thấy, đa số các giáo viên vẫn giảng dạy theo phương pháp thông báo, tái hiện,
học sinh ít được tạo điều kiện bồi dưỡng các phương pháp nhận thức, rèn
luyện tư duy khoa học. Điều này do nhiều nguyên nhân nhưng trong đó
- 1 -
nguyên nhân chính và chủ yếu là do giáo viên chưa vận dụng đúng phương
pháp - phương tiện day học tối ưu.
Với mong muốn tìm con đường để nâng cao chất lượng dạy học môn kĩ
thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông, em đã chọn đề tài khoá luận:


Vận dụng phương pháp dạy học trực quan trong dạy học môn kĩ thuật
công nghiệp lớp 11 phổ thông
2. Mục đích của đề tài
Vận dụng phương pháp dạy học trực quan nhằm nâng cao chất lượng
dạy học môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình dạy và học môn kĩ thuật
công nghiệp lớp 11 phổ thông theo phương pháp dạy học trực quan; bao gồm:
+ Nội dung dạy học môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông.
+ Các phương tiện trực quan thường dùng trong dạy học môn kĩ
thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông.
+ Hoạt động của giáo viên và hoạt động của học sinh trong giờ học
với việc sử dụng phương tiện trực quan.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sơ lí luận và thực tiễn của việc vận dụng phương pháp dạy
học trực quan trong dạy học kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông.
- Vận dụng phương pháp dạy học trực quan trong dạy học môn kĩ thuật
công nghiệp lớp 11 phổ thông.
- Tổ chức thực nghiệm và đánh giá kết quả.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lí luận và tổng kết kinh nghiệm:
- 2 -
Thực chất của phương pháp lí luận và tổng kết kinh nghiệm này là
phân tích và tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa . . . để định hướng về
mục đích và cơ sở lí luận cho đề tài.
- Phương pháp điều tra quan sát.
Thông qua dự giờ, trao đổi, thảo luận, nghiên cứu lịch trình, giáo án,
sổ điểm, nhất là các phương tiện trực quan và cách sử dụng chúng . . . nhằm
tìm hiểu việc dạy và học để có thể đánh giá sơ bộ kết quả dạy và học bộ môn.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.

+ Tiến hành giảng dạy theo tiến trình đã soạn thảo.
+ Tiến hành giảng dạy theo tiến trình bình thường (đối chứng).
+ Dùng thống kê toán học để sử lí kết quả thu được, từ đó rút ra
những kết luận của đề tài.
6. Cấu trúc của khoá luận.
Ngoài phần mở đầu kết luận và tài liệu tham khảo kết quả nghiên cứu
được trình bày trong 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc vận dụng phương pháp
dạy học trực quan trong dạy học môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông.
- Chương 2: Vận dụng phương pháp dạy học trưc quan trong dạy học
môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông.
- Chương 3: Thực nghiệm đánh giá.
- 3 -
Chương 1
cơ sở lí luận và thực tiễn của việc vận dụng
phương pháp dạy học trực quan trong dạy học
môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông
1.1 Một số khái niệm liên quan
1.1.1 Phương pháp dạy học trực quan
1.1.1.1 Trực quan:
Trực quan là quá trình quan sát, nhận biết sự vật hiện tượng bằng các
giác quan của con người.
1.1.1.2 Phương tiện trực quan:
Phương tiện trực quan là các phương tiện dạy học (vật thật, vật tượng
trưng, mô hình, tranh vẽ, sơ đồ, . . .) diễn tả một đối tượng nào đó. Nói cách
khác, phương tiện trực quan là những phương tiện (công cụ) mà giáo viên và
học sinh sử dụng trong quá trình dạy học nhằm cung cấp tri thức, rèn luyện kỹ
năng cho học sinh thông qua sự tri giác trực tiếp bằng các giác quan.
Dựa vào tác động của tài liệu trực quan vào các giác quan người ta chia ra:
phương tiện trực quan nghe, phương tiện trực quan nhìn, phương tiện trực

quan nghe nhìn ...
Dựa vào nguồn gốc, người ta xếp phương tiện trực quan thành hai nhóm cơ
bản:
+ Nhóm phương tiện trực quan nhân tạo: Nhóm này gồm có mô hình, hình
vẽ, sơ đồ nguyên lí, đồ thị, sơ đồ khối, sơ đồ lắp ráp. Những phương tiện trực
quan này dùng để phác họa bản chất, cấu tạo chính của vật phẩm kĩ thuật hay
một quá trình sản xuất công nghiệp. Nó dùng để phản ánh những mối liên hệ
giữa các hiện tượng vật lí, kĩ thuật và thao tác thực hành kĩ thuật.
- 4 -
+ Nhóm phương tiện trực quan tự nhiên: Nhóm này bao gồm vật thật, sản
phẩm kĩ thuật. Loại phương tiện này có tác dụng giới thiệu cấu tạo, quá trình
hoạt động của các máy móc, thiết bị.
Ngoài ra các thao tác (hoặc động tác) mẫu của giáo viên cũng là phương
tiện trực quan sinh động trong việc giới thiệu các hành động, thao tác kĩ thuật.
1.1.1.3 Phương pháp dạy học trực quan:
Phương pháp dạy học trực quan là phương pháp dạy học trong đó sử
dụng các vật thể kỹ thuật, các quá trình công nghệ, các phương tiện gián tiếp
và các thao tác kỹ thuật công nghệ nhằm giúp học sinh trực tiếp cảm giác, tri
giác tài liệu mới trên cơ sở đó tạo ra các biểu tượng cụ thể trong học sinh, rèn
luyện kĩ năng, kĩ xảo.
Phương pháp dạy học trực quan bao gồm: hoạt động quan sát của học
sinh và hoạt động trình bày trực quan của giáo viên. Hai hoạt động này luôn
tương tác và hỗ trợ cho nhau thúc đẩy quá trình nhận thức đạt hiệu quả cao.
1.1.2 Chất lượng dạy học
1.1.2.1 Chất lượng
Theo tiêu chuẩn quản lí của quốc tế thì: "Chất lượng là tập hợp các đặc
tính của một thực thể, tạo cho thực thể đó khả năng thoả mãn những nhu cầu
đã được công bố hoặc còn tiềm ẩn ”.
1.1.2.2 Chất lượng dạy học
Từ khái niệm về chất lượng như trên ta thấy rằng trong hoàn cảnh giảng

dạy cụ thể thì kết quả học tập (mức độ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo của học sinh
đạt được sau khi học) phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp giảng dạy của
giáo viên. Người giáo viên cần biết kết hợp, sử dụng một cách linh hoạt các
phương pháp dạy học. Đồng thời phải biết cách lựa chọn phương pháp dạy
học phù hợp với yêu cầu và nội dung bài giảng sao cho học sinh lĩnh hội được
kiến thức, kĩ năng đồng thời phát triển được tư duy và trí tưởng tượng.
- 5 -
Như vậy chất lượng dạy học chính là chất lượng tri thức mà người giáo
viên truyền thụ cho học sinh, học sinh lĩnh hội những tri thức đó và phải đạt
được trình độ nhất định theo mục tiêu của môn học đặt ra.
Trong thực tế hiện nay của nước ta thì chất lượng dạy học nói riêng và
chất lượng giáo dục nói chung còn thấp, chưa đáp ứng đuợc nhu cầu của xã
hội về nguồn nhân lực. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là do việc
kiểm soát quá trình làm ra chất lượng trong giáo dục và dạy học chưa được
thực hiện theo một hệ thống chuẩn mực thống nhất.
1.1.2 Chất lượng dạy học môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông
Mục tiêu đặt ra cho môn học là phải làm sao giúp học sinh:
+ Hiểu được: hệ thống kiến thức cơ bản, hiện đại, thực tiễn về cấu tạo
và nguyên lí hoạt động của động cơ đốt trong; cấu tạo và nguyên lí hoạt động
của các hệ thống chính trên động cơ đốt trong, ôtô (hiểu được nghĩa là có thể
phân tích, so sánh, phân biệt, tóm tắt, liên hệ, xác định, giải thích ... được về
đối tượng nhận thức).
+ Hình thành và rèn luyện một số kĩ năng: đọc hiểu sơ đồ cấu tạo, sơ đồ
nguyên lý hoạt động của các cơ cấu, hệ thống; nhận biết các dấu hiệu cơ bản
để phân biệt các loại động cơ đốt trong, ôtô.
+ Phát triển tư duy kĩ thuật và năng lực kĩ thuật. Cụ thể là: từ sơ đồ hình
dung được vị trí, hình dạng và công dụng của các bộ phận chính trên động cơ
đốt trong, ôtô; khái quát được nguyên lí hoạt động của các bộ phận trên sơ đồ
cấu tạo và chỉ ra ứng dụng thực tế của nó.
+ Hình thành thế giới quan khoa học và nhân cách, định hướng nghề

nghiệp.
Mục tiêu này là cơ sở để đánh giá chất lượng dạy học môn kĩ thuật công
nghiệp lớp 11 phổ thông.
- 6 -
1.2 Cơ sở lí luận củaviệc sử dụng phương pháp dạy học trực quan.
1.2.1 Cơ sở khoa học của phương pháp dạy học trực quan trong dạy học
môn kĩ thuật công nghiệp phổ thông
1.2.1.1 Cơ sơ triết học
Chúng ta đều biết rằng mọi lý thuyết bắt nguồn từ thực tiễn. Vì vậy lí
luận về nhận thức coi thực tiễn là cơ sở, là động lực, mục đích đồng thời là
tiêu chuẩn kiểm tra kiến thức.
Theo quan điểm duy vật biện chứng quá trình nhận thức trải qua ba giai
đoạn: giai đoạn nhận thức cảm tính, giai đoạn nhận thức lí tính, giai đoạn tái
sinh cái cụ thể và cái trừu tượng. Vấn đề này Lênin đã chỉ ra: ”Từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn đó là
con đường biện chứng của nhận thức chân lí, nhận thức thực tại khách quan”.
Quan điểm này cho rằng trực quan là xuất phát điểm của nhận thức, tức
là trực quan là nguồn cung cấp tri thức. Sự trực quan sinh động được đặc
trưng bởi quá trình tâm lí đó là: cảm giác, tri giác biểu tượng, các quá trình
tình cảm và ý chí. Sự nhận thức này mới chỉ phản ánh được các thuộc tính
bên ngoài, thuộc tính không bản chất. Tuy nhiên, ở đây đã xuất hiện yếu tố cơ
sở của tư duy (hình ảnh trực quan). Để nhận thức được bản chất của sự vật và
hiện tượng cần xử lí các thông tin trong trí óc. Từ hình tượng cảm tính thu
được, loại bỏ các khía cạnh ngẫu nhiên không bản chất ghi lại những dấu hiệu
cơ bản, giống nhau; nghĩa là để nắm được bản chất cần có tư duy.
Như vậy trực quan sinh động - nhận thức cảm tính, tư duy trừu tượng và
nhận thức lí tính là những bộ phận hữu cơ của quá trình lĩnh hội tri thức.
Tri thức cần phải kiểm tra và vận dụng qua thực tiễn, tức là kết quả cao
nhất của nhận thức. Thực tiễn cao hơn này lại tạo thành sự trực quan sinh
động cao hơn cho quá trình nhận thức mới. Quá trình nhận thức là sự thống

- 7 -
nhất giữa trực quan sinh động và tư duy trừu tượng với sự xâm nhập của thực
tiễn vào cả hai.
1.2.1.2 Cơ sở tâm - sinh lí học.
Quá trình dạy học là một quá trình nhận thức được tổ chức một cách đặc
biệt. Quá trình này theo thuyết duy vật biện chứng gồm ba giai đoạn kế tiếp
nhau: giai đoạn nhận thức cảm tính, giai đoạn nhận thức lí tính và giai đoạn
tái sinh cái cụ thể trong tư duy.
Nhận thức cảm tính là giai đoạn phản ánh trong ý thức con người các sự
vật, hiện tượng với tập hợp các thuộc tính. Nhận thức cảm tính được nảy sinh
do các tác động trực tiếp của sự vật, hiện tượng lên các giác quan của con
người (thị giác, thính giác, . . .). Cơ sở tâm lí của nhận thức cảm tính là tín
hiệu thứ nhất. Tư duy trừu tượng là hệ thống tín hiệu thứ hai, nó là giai đoạn
phản ánh trừu tượng, khái quát hoá đối tượng nhận thức dưới dạng những
khái niệm, định luật, học thuyết. Nhận thức cảm tính là giai đoạn thấp của quá
trình nhận thức nhưng nó giữ vai trò quan trọng vì từ đó tạo ra chất liệu cho
quá trình tư duy trừu tượng. Không có nhận thức cảm tính thì sẽ không có quá
trình tư duy trừu tượng. Giai đoạn tái sinh cái cụ thể trong tư duy là sự kiểm
tra và vận dụng tri thức mới thu được vào tình huống mới.
Trong dạy học để tổ chức quá trình nhận thức được thuận lợi người ta sử
dụng phổ biến các phương tiện trực quan, nhất là với học sinh phổ thông. Với
đối tượng học tập chính là học sinh phổ thông, giai đoạn này cần phải đảm
bảo cho chúng nắm vững các tài liệu trực quan, tức là thu nhận được càng
nhiều tư liệu cảm tính thì càng tốt. Tư liệu cảm tính càng phong phú thì sự
trừu tượng hoá càng hiệu nghiệm. Việc sử dụng các phương tiện trực quan
trong dạy học nhằm giúp học sinh quan sát và từ đó giúp học sinh thu nhận
các thông tin về những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ – quan hệ
- 8 -
của cái cụ thể hiện thực. Tuy vậy quan sát phải gắn bó với tư duy trừu tượng,
trên cơ sở khái quát hoá thì nó mới để lại dấu vết mạnh mẽ trong ý thức học

sinh. Nhà giáo dục học Liên Xô Usinxki đã khẳng định rằng: ”Trong ý thức
học sinh chỉ để lại dấu ấn sâu sắc nhất khi giáo viên tác động cùng lúc đến
nhiều giác quan học sinh, có nghĩa vừa giảng giải vừa đưa cho học sinh xem
thậm chí cho học sinh cảm giác các sự vật cần nghiên cứu”. Vì vậy khi giảng
bài giáo viên vừa phải giảng bài vừa đưa cho học sinh xem các tranh vẽ, mô
hình, phim ảnh hay vật thật, . . . để tăng độ rõ của ấn tượng.
Những nghiên cứu về tâm lí trong dạy học cho thấy rằng mỗi giác quan
của con người có khả năng tri giác một khối lượng thông tin khác nhau trong
cùng một thời gian. Để đánh giá khả năng tri giác thông tin trong một đơn vị
thời gian, người ta đưa ra khái niệm năng lực dẫn thông của đường tiếp thu
thông tin học tập. Năng lực dẫn thông là khả năng tiếp nhận thông tin trong
một đơn vị thời gian. Với các giác quan cụ thể người ta đã rút ra đuợc: Năng
lực dẫn thông của đường tiếp thu thông tin bằng thị giác là lớn hơn nhiều
(khoảng 100 lần) so với thính giác. Điều đó được giải thích là vì: khác với lời
nói (thông tin đến với học sinh chậm, chủ yếu theo con đường thính giác một
cách từ từ theo trình tự và ý nghĩa của từng từ, câu nói), thông tin truyền theo
con đường thị giác cùng một lúc cho một hình ảnh trọn vẹn với tất cả các chi
tiết của đối tượng nhận thức. Điều này nói lên được nhiều ưu điểm của
phương pháp dạy học trực quan so với phương pháp dạy học dùng ngôn ngữ
nhưng không thể coi là tối ưu và vạn năng được, vì nó phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác.
Như vậy người giáo viên phải biết sử dụng hợp lý khả năng dẫn thông
của các đường tiếp thu thông tin để ghi lại các thông tin học tập trong ý thức
học sinh.
- 9 -
1.2.1.3 Yêu cầu của bản thân môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông.
Đối tượng nghiên cứu của phân môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ
thông là nghiên cứu một loại máy móc cụ thể, ứng dụng rộng rãi trong thực
tế. Nhưng các loại máy này lại được xây dựng trên cơ sơ lí thuyết mà học sinh
chưa đủ kiến thức cơ sở để hiểu về nó. Ví dụ kiến thức về nhiệt kỹ thuật, cơ

kỹ thuật, . . .
Vấn đề đặt ra là người giáo viên phải chỉ rõ cơ sở khoa học và khắc sâu
những nguyên lí kĩ thuật cho học sinh. Giáo viên phải sử dụng hợp lí các
phương tiện trực quan kết hợp với lời giải thích tương ứng.
Xuất phát từ bản thân vật phẩm kĩ thuật, xuất phát từ việc nghiên cứu
cấu tạo và nguyên lí hoạt động của vật phẩm kĩ thuật. Mối liên hệ này thể
hiện mối liên hệ giữa cái cụ thể trực quan với cái trừu tượng lí thuyết trong đó
trực quan sinh động là điểm xuất phát của nhận thức.
Trực quan sinh động đóng vai trò quan trọng để tạo ra ba yếu tố: khái
niệm - hình ảnh - thao tác giúp tư duy kĩ thuật của học sinh được phát triển.
Trực quan sinh động còn góp phần hình thành ba khâu: lĩnh hội - thiết kế -
vận dụng kĩ thuật trong việc bồi dưỡng năng lực kĩ thuật của học sinh. Khi
hình thành năng lực kĩ thuật, giáo viên thường phải diễn tả các thao tác để học
sinh quan sát, đó chính là phương tiện trực quan cần thiết.
Như vậy sự thống nhất giữa cái cụ thể và trừu tượng đòi hỏi trực quan
phải tác động đến toàn bộ quá trình lĩnh hội các tri thức kĩ thuật.
Có thể tóm tắt mối liên hệ giữa cụ thể với trừu tượng như sơ đồ sau:
- 10 -
Sơ đồ trên cho thấy: cái cụ thể (trực quan) và cái trừu tượng (lý thuyết)
đều là kết quả của quá trình nhận thức, trong đó mô hình đóng vai trò cầu nối,
thể hiện mối liên hệ giữa hai con đường nhận thức là quy nạp và suy diễn.
1.2.2 Một số phương tiện trực quan thường dùng trong dạy học môn kĩ
thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông
Do đặc điểm của môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông chủ yếu
dạy về hoạt động và cấu tạo của các cơ cấu và hệ thống của động cơ đốt trong
và ôtô nên phương tiện trực quan chủ yếu là:
- Vật thật: các chi tiết, bộ phận của động cơ đốt trong, ôtô.
- Mô hình: mô hình động cơ 4 kỳ, động cơ 2 kỳ, mô hình động cơ xăng,
động cơ điêden, mô hình hộp số, mô hình hệ thống truyền lực, . . .
- Hình vẽ: sơ đồ, tranh giáo khoa, đồ thị, . . . biểu diễn các cơ cấu, hệ

thống, bộ phận, chi tiết, . . . của động cơ đốt trong, ôtô.
Các phương tiện trực quan trên còn được sử dụng như một phương tiện
thực hành để hướng dẫn học sinh tìm tòi bộ phận trong các giờ thực hành.
1.2.3 Những yêu cầu đối với phương tiện trực quan và với việc sử dụng
phương tiện trực quan trong dạy học
1.2.3.1 Những yêu cầu đối với phương tiện trực quan
Phương tiện trực quan phải đáp ứng các yêu cầu sau:
Tr c quan 
(c th ) 
Mô hình
Lý thuy t 
(khái ni m)
Quá trình tr u t ng hoá  
(quy n p)
Quá trình c th hoá (suy di n)  
- 11 -
+ Phương tiện trực quan phải phù hợp với mục tiêu và nội dung bài
giảng, thúc đẩy khả năng tiếp thu của học sinh.
+ Phương tiện trực quan phải đảm bảo tính khoa học; nghĩa là phản ánh
được các dấu hiệu chủ yếu của đối tượng phản ánh.
+ Phương tiện trực quan phải được chế tạo đúng quy định, nhất là các
yêu cầu kỹ thuật, mỹ thuật.
+ Phương tiện trực quan phải đơn giản, dễ sử dụng, không mất nhiều
thời gian trong giờ dạy.
+ Phương tiện trực quan phải đủ lớn đảm bảo cho tất cả học sinh trong
lớp đều quan sát được các sự vật hiện tượng một cách rõ ràng. Vì trong quá
trình dạy học người giáo viên phải tổ chức hướng dẫn và điều khiển học sinh
quan sát theo trình tự, phân tích được toàn diện đối tượng.
1.2.3.2 Những yêu cầu khi sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học
Khi sử dụng phương tiện trực quan trong giảng dạy cần chú ý tới các yêu

cầu sau:
+ Sử dụng đúng lúc, đúng chỗ; dùng đến đâu đưa ra đến đó, tránh sự
phân tán chú ý của học sinh.
+ Sử dụng đúng liều lượng, không ảnh hưởng đến quá trình tư duy của
học sinh.
+ Kết hợp nhiều loại phương tiện trực quan để huy động được nhiều giác
quan của học sinh (đa phương tiện).
+ Sử dụng theo đúng trình tự vận động kiến thức và tiến trình bài dạy;
kết hợp hướng dẫn quan sát với trả lời các câu hỏi gợi mở để học sinh suy
nghĩ (tư duy) tìm ra bản chất của đối tượng nhận thức.
1.3 Thực trạng của việc sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học môn kĩ thuật
công nghiệp lớp 11 phổ thông
1.3.1 Khái quát về thực trạng dạy học môn kĩ thuật công nghiệp phổ
thông
- 12 -
Trên thực tế giảng dạy thì chất lượng dạy học môn kĩ thuật công nghiệp
lớp 11 phổ thông nói riêng và môn kĩ thuật công nghiệp nói chung chưa đạt
được hiệu quả cao, chưa đáp ứng được mục tiêu của môn học đề ra cũng như
yêu cầu của xã hội. Sở dĩ như vậy là vì sau khi học xong chương trình kĩ thuật
công nghiệp lớp 11 hầu như học sinh chưa nhận biết được các loại động cơ,
chưa hiểu rõ về nguyên lý hoạt động của chúng. Học sinh chưa định hướng
được mục đích mình học môn học này để làm gì, áp dụng vào thực tế ra sao.
Chính vì vậy mà các em còn coi thường môn học này, chưa quan tâm học hỏi
về nó nhiều. Mặt khác môn học này ở phổ thông chưa được đánh giá đúng
đắn, còn xem đây lá một môn học phụ, học sinh học tập theo kiểu đối phó.
Hơn thế nữa nhiều trường còn tuỳ tiện cắt giảm số tiết hoặc thậm chí bỏ môn
kĩ thuật công nghiệp chỉ dạy môn kĩ thuật nông nghiệp; về nội dung môn học
đa dạng phức tạp nhưng số tiết /tuần quá ít (1tiết); do vậy học sinh khó nhớ,
mau quên; cách tính điểm cho môn học chưa hợp lí: tính điểm ghép chung với
môn kĩ thuật nông nghiệp.

Về phía học sinh thì như vậy còn về phía giáo viên cũng còn nhiều vấn
đề chưa được giải quyết. Hiện nay, đội ngũ giáo viên dạy kĩ thuật còn thiếu
trầm trọng. Lực lượng giáo viên đứng lớp dạy kĩ thuật công nghiệp chỉ chiếm
khoảng 50 ÷ 60% số giáo viên kĩ thuật công nghiệp đã được đào tạo ra. Số
giáo viên đúng chuyên ngành ở trung học cơ sở là 10%, ở trung học phổ
thông là 30%, số còn lại được lấy từ nhiều nguồn khác nhau như giáo viên lí -
kĩ thuật công nghiệp (Đại học sư phạm II ), giáo viên Vật lí hay giáo viên
Toán (dạy chương trình kĩ thuật lớp 10 ), . . . Thậm chí ở một số trường, giáo
viên các môn xã hội cũng được chuyển sang dạy môn kĩ thuật công nghiệp.
- 13 -
Như vậy phần lớn giáo viên kĩ thuật công nghiệp là giáo viên kiêm
nhiệm nên tâm lí người dạy không ổn định, chất lượng không đồng đều, hiệu
quả bài dạy còn hạn chế.
Về phương pháp giảng dạy, hầu hết các giáo viên vẫn sử dụng các
phương pháp giảng dạy nặng về thuyết trình, giảng giải, ít sử dụng phương
tiện trực quan, ít liên hệ kiến thức với thực tế, . . .
Trong thực tế, khoa học và công nghệ đang thay đổi từng ngày từng giờ,
các hiện tượng thực tế học sinh phải tiếp xúc vô cùng phong phú. Nhưng việc
đào tạo lại và bồi dưỡng thêm cho giáo viên không được chú ý đúng mức, vì
thế trong giảng dạy, nhiều giáo viên được đào tạo đúng chuyên ngành vẫn tỏ
ra lúng túng chứ chưa nói đến những giáo viên trái môn. Do vậy, nhiều khi
giáo viên dạy không đúng kiến thức cho học sinh, dẫn tới tình trạng học sinh
học mà đôi khi không hiểu được bản chất của vấn đề.
Nói tóm lại, đội ngũ giáo viên kỹ thuật hiện nay chưa đáp ứng được yêu
cầu dạy kĩ thuật công nghiệp ở các trường phổ thông.
Môn kĩ thuật công nghiệp là một môn mang tính ứng dụng cao. Hầu hết
các nội dung môn học đều gắn với những ứng dụng trong thực tiễn. Vì vậy,
dạy học kĩ thuật công nghiệp có hiệu quả đòi hỏi phải có đầy đủ trang thiết bị
cần thiết: mô hình, vật thật, nhà xưởng, . . . Môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11
là phân môn có nhiều nội dung khá trừu tượng, nhiều khi giải thích học sinh

cũng không hiểu được nhưng nếu được quan sát bằng phương tiện trực quan
kết hợp với lời giảng giải của giáo viên thì học sinh có thể hiểu và nắm bài rất
nhanh.
Trong thực tế hiện nay cho thấy: Khoảng 80% số trường THPT không có
phòng học bộ môn và xưởng thực hành. Xưởng thực hành chỉ được xây dựng
ở một số rất ít trường thành phố, thị xã. Lực lượng ít, xưởng trường không
- 14 -
có, trang thiết bị còn nghèo nàn dẫn đến tình trạng giáo viên chỉ dạy phần lí
thuyết, dạy chay là chủ yếu; việc sử dụng phương tiện đã có hoặc cải tiến làm
thêm đồ dùng dạy học ít được quan tâm.
Từ thực trạng nêu trên mà chất lượng dạy học môn kỹ thuật công nghiệp
lớp 11 chưa đạt được hiệu quả cao, chưa đạt được mục tiêu môn học đề ra đặc
biệt là chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
Để cải thiện tình hình trên và nâng cao chất lượng dạy học môn kĩ thuật
công nghiệp lớp 11 phổ thông thì cần phải giải quyết một số vấn đề sau:
+ Hoàn thiện nội dung chương trình sao cho những vấn đề kĩ thuật được
giảng dạy vừa cơ bản, sát thực tiễn và đảm bảo tính hiện đại.
+ Xác định rõ vị trí vai trò của môn học.
+ Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các trường phổ
thông.
+ Phải nâng cao trình độ giáo viên dạy Kĩ thuật.
+ Phải đổi mới phương pháp dạy học.
1.3.2 Tìm hiểu các phương tiện trực quan hiện có ở trường phổ thông cho
môn học kĩ thuật công nghiệp
Như trên chúng ta đã biết được vai trò rất lớn của phương tiện dạy học
trực quan trong việc hỗ trợ người giáo viên truyền thụ kiến thức cho học sinh.
Phương tiện trực quan kích thích quá trình học tập tìm tòi, sáng tạo, . . .
phát triển tư duy lôgic của học sinh.
Trong thực tế quá trình học tập trước đây ở phổ thông và qua hai đợt
thực tập sư phạm ở trường PTTH Vân Cốc, em đã trực tiếp tìm hiểu cơ sở vật

chất kĩ thuật của trường thực tập và thu được kết quả như sau:
Phương tiện dạy học trực quan ở các trường phổ thông hiện nay còn quá
ít, không đủ đáp ứng nhu cầu dạy và học của giáo viên và học sinh. Đối với
- 15 -
tất cả các phân môn, các khối lớp khác nhau thì phương tiện trực quan dành
cho giảng dạy và học tập chủ yếu là tranh giáo khoa. Đặc biệt đối với phân
môn kĩ thuật công nghiệp thì phương tiện dạy học trực quan là vô cùng thiếu.
+ Đối với lớp 10 thì đồ dùng trực quan dành cho giảng dạy và học tập
chỉ có tranh giáo khoa, còn lại các, mô hình, vật thật, . . . hoàn toàn không có.
+ Đối với lớp 12 thì đồ dùng trực quan cũng chỉ là tranh giáo khoa, một
số linh kiện điện tử như (tranzito, tụ, điện trở, . . .), biến áp.
+ Đối với khối 11 đây là một khối học nằm giữa khối 10 và12 . Đặc thù
của môn kĩ thuật công nghiệp 11 là môn học gắn liền với thực tiễn cuộc sống.
Tất cả các máy móc nghiên cứu ở chương trình học này học sinh thường
xuyên va chạm và tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày. Nội dung phân môn
chứa đựng rất nhiều khái niệm trừu tượng, các nguyên lí hoạt động, cấu tạo
của máy móc động cơ đòi hỏi phải có trực quan nhưng trực quan lại vô cùng
thiếu thốn. Đồ dùng trực quan cho môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 mới chỉ
có tranh giáo khoa phóng to và sơ đồ khối do giáo viên tự làm lấy. Còn các
loại phương tiện trực quan rất quan trọng và cần thiết như: mô hình, vật thật, .
. . thì lại chưa có.
Đối với phân môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 có rất nhiều kiến thức liên
quan đến thực tế cuộc sống chính vì vậy cần có trang thiết bị, đồ dùng trực
quan để giảng dạy lí thuyết cũng như thực hành cho học sinh. Thông qua
phương tiện trực quan ấy học sinh sẽ phát triển tư duy lôgic, óc sáng tạo, tay
nghề kĩ thuật. Trên thực tế hiện nay cơ sở vật chất kĩ thuật dành cho phân
môn này còn thiếu, các trường hầu như không có phòng thực hành dành cho
phân môn kĩ thuật. Riêng một số trường dạy nghề đã có nhưng quá ít so với
nhu cầu dạy và học hiện nay.
- 16 -

1.3.3 Tìm hiểu việc sử dụng phương tiện trực quan và phương pháp dạy
học trực quan ở phổ thông
Việc sử dụng phương tiện trực quan và phương pháp dạy học trực quan ở
trường phổ thông là một vấn đề cần quan tâm đến hiện nay. Thông qua đợt
thực tập sư phạm trực tiếp tìm hiểu, trao đổi với các giáo viên kĩ thuật, tham
gia dự giờ giảng của giáo viên, của sinh viên; em nhận thấy việc sử dụng
phương tiện trực quan để giảng dạy môn kĩ thuật công nghiệp là quá ít. Đối
với tất cả các khối lớp phần lớn giáo viên dạy chay không sử dụng phương
tiện trực quan, nếu có sử dụng thì cũng chỉ sử dụng tranh giáo khoa. Một số
giáo viên có thêm sơ đồ khối tự vẽ, mô hình thì hầu như không có. Điều này
cũng một phần do cơ sở vật chất kĩ thuật còn nghèo nàn, trang thiết bị ở phổ
thông còn thiếu thốn, phần còn lại là do giáo viên còn ngại sử dụng phương
tiện trực quan trong giờ giảng. Bởi vì khi sử dụng phương tiện trực quan trong
giờ giảng đòi hỏi người giáo viên phải có sự chuẩn bị bài giảng kĩ càng hơn
để có thể giải đáp được các câu hỏi mà học sinh đưa ra, không bị bất ngờ hay
khó xử.
Trong khi sử dụng phương tiện trực quan để giảng dạy, giáo viên còn
mắc phải một số sai sót sau:
+ Đánh giá chưa đúng hoặc đánh giá quá cao vai trò của phương tiện
trực quan.
+ Kiến thức và phương pháp giảng dạy của giáo viên trong việc sử dụng
phương tiện trực quan còn lúng túng, dẫn đến hiệu quả sử dụng phương tiện
trực quan bị giảm sút.
+ Giáo viên sử dụng phương tiện trực quan : tranh ảnh, sơ đồ, . . . quá
lâu trong giờ học làm học sinh mất đi cảm giác mới mẻ và thấy nhàm chán.
- 17 -
+ Nhiều giáo viên đặt tất cả phương tiện trực quan của giờ dạy lên bàn
làm phân tán sự chú ý của học sinh, khiến học sinh chỉ tập trung quan sát các
đồ dùng trực quan mà không quan tâm chú ý đến lời giảng của giáo viên .
+ Hầu hết giáo viên sử dụng phương tiện trực quan chỉ như là để minh

họa mà không coi đó là nguồn thông tin rất tốt cho học sinh tự khám phá kiến
thức.
Phương pháp dạy học trực quan là một phương pháp dạy học có từ rất
lâu. Tuy nhiên việc vận dụng nó trong giảng dạy hàng ngày còn chưa phổ
biến. Hiện nay phương pháp dạy học trực quan đang được phổ biến rộng rãi
trong chương trình dạy học ở bậc mẫu giáo và tiểu học , ngày càng được phát
triển ở các cấp học khác.
Đối với chương trình kĩ thuật công nghiệp phổ thông việc vận dụng
phương pháp dạy học trực quan để giảng dạy còn chưa được phát triển rộng
rãi. Đặc biệt là đối với chương trình kĩ thuật công nghiệp lớp 11. Vấn đề cơ
bản là do cơ sở vật chất kĩ thuật của các trường phổ thông còn nghèo nàn,
trang thiết bị dành cho dạy học trực quan còn thiếu thốn, hầu như các trường
còn chưa có phòng thực hành. Vì vậy người giáo viên đôi khi muốn giảng dạy
bằng phương pháp dạy học trực quan cũng không có đủ điều kiện vật chất để
dạy.
Một điều đáng quan tâm hơn nữa là do phương pháp dạy học trực quan
đòi hỏi người giáo viên phải có lượng kiến thức vững vàng, phải biết sử dụng
một cách linh hoạt các phương tiện trực quan, . . . Trong khi đó trình độ của
giáo viên hiện nay chưa thể đáp ứng được nhu cầu trên. Giáo viên kĩ thuật
công nghiệp ở các trường phổ thông có chuyên môn cao còn ít, tình trạng
thiếu giáo viên kĩ thuật được đào tạo bài bản khá phổ biến. Chính vì vậy mà
việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan trong dạy học kĩ thuật công
nghiệp lớp 11 phổ thông là chưa nhiều, chưa phổ biến.
Kết luận chương I
- 18 -
Qua nghiên cứu, phân tích cơ sơ lí luận và thực tiễn của đề tài có thể rút
ra một số kết luận sau:
Trực quan là một bộ phận của quá trình nhận thức, phương pháp dạy
học trực quan đã được nghiên cứu từ lâu và có cơ sở khoa học đã được xác
định. Phương pháp dạy học này khá phù hợp với yêu cầu và đặc điểm nội

dung môn kỹ thuật công nghiệp, do đó sử dụng nó có thể nâng cao chất lượng
dạy học bộ môn.
Thực trạng dạy học kĩ thuật công nghiệp phổ thông hiện nay còn nhiều
vấn đề tồn tại, đặc biệt là vấn đề thiếu các phương tiện dạy học, phương pháp
dạy học còn chậm đổi mới, chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn hiện
nay.
Việc đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng dạy và học
là vấn đề đang được quan tâm hiện nay. Phương pháp dạy học trực quan là
một trong những phương pháp đem lại chất lương dạy học cao. Vận dụng cơ
sở lí luận trên, ở chương 2 của khoá luận sẽ trình bày việc nghiên cứu sử dụng
phương pháp dạy học trực quan trong dạy học môn kĩ thuật công nghiệp lớp
11 phổ thông.
- 19 -
- 20 -
Chương 2
Vận dụng phương pháp dạy học trực quan trong dạy học kĩ thuật công
nghiệp lớp 11 phổ thông
2.1 Khái quát môn học kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông
2.1.1 Vị trí:
Bất kì một nền giáo dục nào cũng nhằm tạo ra con người lao động.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, người lao động là người làm chủ xã hội, tự
giác lao động, lao động vì mục đích chung của xã hội. Vấn đề đặt ra là làm
thế nào để tạo ra được những người lao động thực sự có ích cho xã hội. Hiện
nay, đất nước ta đang trên đà phát triển, khoa học kĩ thuật ngày càng phát
triển và xâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực, phục vụ nhu cầu sản xuất. Con
người muốn ứng dụng được nó cần phải có trình độ kĩ thuật. Để đạt được điều
này con người cần phải trang bị những kiến thức cơ bản, cần thiết. Do vậy
nhiệm vụ của trường phổ thông là phải trang bị cho học sinh những hiểu biết
cơ bản về kĩ thuật phổ thông. Môn học kĩ thuật cơ khí lớp 11 phổ thông là
môn học góp phần to lớn vào nhiệm vụ giáo dục và đào tạo kĩ thuật tổng hợp,

một nguyên tắc lớn của nền giáo dục và đào tạo xã hội chủ nghĩa.
Nước ta đang trên đà phát triển nhưng nền kinh tế của ta còn nghèo nàn,
lạc hậu, cơ sở vật chất kĩ thuật còn yếu kém, lực lượng lao động sản xuất
đông nhưng không đáp ứng được nhu cầu về sản xuất. Bởi vì đội ngũ lao
động tay nghề còn chưa cao, sự hiểu biết xã hội còn yếu kém không đáp ứng
được nhu cầu của cuộc sống. Trong khi đó, khoa học kĩ thuật trên thế giới
ngày càng phát triển, máy móc thiết bị ngày càng hiện đại và biến đổi từng
ngày từng giờ. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để lực lượng sản xuất không bị lạc
hậu so với thời đại. Chỉ có sự trang bị kiến thức về quá trình sản xuất, về việc
sử dụng công cụ lao động, máy móc là yếu tố hàng đầu để nâng cao năng suất
- 21 -
lao động, giúp con người hình thành và rèn luyện kĩ năng lao động nhất định
trong mỗi lĩnh vực sản xuất khác nhau của xã hội.
Môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 trang bị cho học sinh những kiến thức
cơ bản về cấu tạo và nguyên lý làm việc của động cơ đốt trong, ô tô,
xe máy, . . . Đây là những kiến thức rất thiết thực và gắn liền với thực tế cuộc
sống. Vì vậy, môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 góp phần quan trọng đáp ứng
các yêu cầu trên, hiện nay môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông được
giảng dạy ở hầu hết ở các trường phổ thông trên cả nước.
2.1.2 Nội dung, đặc điểm của môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông.
2.1.2.1 Nội dung
Nằm trong môn kĩ thuật công nghiệp phổ thông, môn kĩ thuật công
nghiệp lớp 11 có nội dung kiến thức tương đối dài và rộng so với quỹ thời
gian 33 tiết đối với chương trình hiện hành hiện nay. Nó gồm những nội dung
sau:
Phần 1: Động cơ đốt trong (22 tiết)
Chương 1: Cấu tạo, nguyên tắc hoạt động của động cơ đốt
trong (4 tiết)
Chương 2: Các cơ cấu: cơ cấu trục khuỷu thanh truyền, cơ cấu
phân phối khí (6 tiết)

Chương 3: Các hệ thống: hệ thống bôi trơn, làm mát, cung cấp
nhiên liệu, đánh lửa, khởi động và các bộ điều chỉnh tự động (12 tiết)
Phần 2: Ô tô - máy kéo (11 tiết)
Chương 4: Hệ thống truyền lực (6 tiết)
Chương 5: Phần di động, cơ cấu lái và phanh (5 tiết)
- 22 -
Riêng đối với chương trình thí điểm mới của Bộ giáo dục và đào tạo, nội
dung về động cơ đốt trong được dạy ở học kỳ 2 lớp 11 với 34 tiết. Bao gồm
những nội dung sau:
Chương 1: Đại cương về động cơ đốt trong (5 tiết)
Chương 2: Cấu tạo của động cơ đốt trong (14 tiết)
Chương 3: ứng dụng của động cơ đốt trong (13 tiết)
Ôn tập, kiểm tra (2 tiết)
Phân môn kĩ thuật cơ khí lớp 11 phổ thông có 4 nhóm kiến thức:
+ Hệ thống khái niệm kĩ thuật: khái niệm về động cơ đốt trong, động cơ
hai kỳ, động cơ bốn kỳ, chu trình làm việc,...
+ Các phương tiện kỹ thuật: Các chi tiết, bộ phận, cơ cấu, hệ thống
máy. + Các phương pháp gia công và công nghệ khi gia công chế tạo các chi
tiết, bộ phận, cơ cấu hệ thống máy móc: khoan, mạ, doa, hàn,...
+ Các nguyên lý kĩ thuật:
- Nguyên lý cấu tạo.
- Nguyên lý hoạt động.
2.1.2.2 Đặc điểm của môn kĩ thuật cơ khí
Môn kĩ thuật cơ khí cũng mang đầy đủ những đặc điểm của môn kĩ thuật
công nghiệp nói chung:
a. Tính cụ thể và tính trừu tượng của môn học.
+ Tính cụ thể: tính cụ thể của môn học thể hiện ở nội dung môn học
đề cập đến những máy móc, thiết bị, . . . Đây là những vật phẩm kĩ thuật rất
cụ thể đồng thời môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 còn đề cập đến những thao
tác kĩ thuật cơ bản và cụ thể như: thực hành lắp ráp sản phẩm, chuẩn đoán

hỏng hóc, . . . Những kiến thức trực quan này học sinh có thể quan sát thông
qua phương tiện trực quan hoặc thao tác mẫu của giáo viên.
- 23 -
+ Tính trừu tượng: tính trừu tượng được phản ánh trong hệ thống các
khái niệm kĩ thuật, các nguyên lý hoạt động của động cơ 4 kì, động cơ 2 kì,
các cơ cấu hệ thống, . . . mà học sinh không trực tiếp tri giác được.
VD: Sự tạo thành hỗn hợp xăng với không khí trong bộ chế hoà khí, chu
trình làm việc thực tế của động cơ đốt trong...
Những nội dung này học sinh muốn hiểu được phải tự mình tư duy trừu
tượng thông qua lời giảng của giáo viên, sự phân tích của người hướng dẫn.
Để có tư liệu cho tư duy tưởng tượng thì phải có những nhận thức cảm tính
hay trực quan, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và ngược lại. Vì
thế trong quá trình giảng dạy các nguyên lý kĩ thuật đòi hỏi phải trực quan
hóa các nội dung bằng phương tiện trực quan như: hình vẽ, đồ thị, sơ đồ, mô
hình và thao tác mẫu của giáo viên.
b. Tính thực tiễn của môn học
Đối tượng nghiên cứu và nội dung của môn học kĩ thuật cơ khí phản ánh
các phương tiện trong hoạt động thực tiễn cuộc sống như: ôtô, xe máy, các
loại động cơ được sử dụng trong các máy công - nông nghiệp, . . . Các loại
phương tiện máy móc này luôn gắn bó với quá trình sản xuất và sử dụng trong
thực tế cuộc sống hằng này. Dựa trên cơ sở khoa học nhưng phân môn kĩ
thuật cơ khí xuất phát từ thực tiễn cuộc sống và giải quyết các nhiệm vụ, nhu
cầu cụ thể trong sản xuất và đời sống. Đặc điểm này làm nổi bật nội dung bài
giảng, làm nội dung bài giảng bao giờ cũng gần gũi với học sinh hơn nhưng
không làm giảm ý nghĩa khoa học của môn học. Khi giảng dạy người giáo
viên cần phải vận dụng kiến thức thực tế cuộc sống đồng thời gợi mở những
hiểu biết trong thực tế của học sinh, những kiến thức cơ bản về cấu tạo và
nguyên lí làm việc của động cơ đốt trong, của các hệ thống chính trên ôtô, xe
máy, . . . Đây là những kiến thức rất thiết thực và gắn liền với cuộc sống vì
- 24 -

vậy môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông góp phần đáp ứng những nhu
cầu trên của xã hội.
Hiện nay, môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông, được giảng dạy ở
hầu hết các trường phổ thông trong cả nước. Trong quá trình giảng dạy, giáo
viên cần phải khái quát những kiến thức đó thành nguyên lý chung ngắn gọn,
súc tích, dễ nhớ. Từ nguyên lý chung của các thiết bị máy móc để tìm ra ứng
dụng của nó trong quá trình sản xuất và trong cuộc sống hàng ngày, làm cho
quá trình dạy học gắn liền với thực tiễn. Từ đó giúp học sinh có khả năng
nhận biết các sự vật hiện tượng đơn giản ở xung quanh và giải thích được
chúng.
VD: Trong quá trình chạy rà động cơ
Đối với động cơ bình thường không được dùng dầu bôi trơn quá nhớt để
chạy rà. Bởi vì nếu dầu quá nhớt sẽ không lọt được tới những vị trí có khe hở
nhỏ.
c. Tính tổng hợp - tích hợp.
Tính tổng hợp thể hiện ở chỗ nội dung kiến thức của môn học kĩ thuật cơ
khí được xây dựng trên nguyên tắc kĩ thuật tổng hợp. Do đó kiến thức mang
tính phổ thông, chìa khoá, làm cơ sở cho những nội dung chuyên ngành sau
này. Nhờ có đặc điểm này mà môn học mang trong nó tiềm năng giáo dục kĩ
thuật tổng hợp to lớn, tạo điều kiện cho giáo viên có khả năng phân tích, khai
thác trong từng nội dung cụ thể.
Môn kĩ thuật có khi mang tính chất tích hợp vì nó là môn khoa học ứng
dụng, hàm chứa những phần tử kiến thức thuộc nhiều môn khoa học khác
nhau: toán học, vật lý, hoá học,... nhưng lại liên quan, thống nhất với nhau để
phản ánh những đối tượng kĩ thuật cụ thể
- 25 -

×