Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Một số biện pháp nâng cao công tác quản lý nguyên vật liệu ở Công Ty Xuất Nhập Khẩu Và Đầu Tư Xây Dựng Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.93 KB, 58 trang )

Đặt Vấn Đề
Trong những năm gần đây, sức khoẻ sinh sản (SKSS) đã trở thành một
trong các lĩnh vực quan trọng được Đảng, Nhà nước và nhiều tổ chức quan
tâm. Điều này không chỉ bởi SKSS có liên quan trên phạm vi dân số khá lớn
mà còn do tác động của nó tới suốt cuộc đời mỗi cá nhân cũng như toàn xã
hội Chương trình SKSS của Liên hiệp quốc họp tại Cairo- Ai Cập năm 1994
trong đố Việt Nam có tham dự đã xác định SKSS bao gồm mười nội dung cơ
bản trong đó CSSK bà mẹ trước, trong, sau khi sinh và trẻ sơ sinh là nội dung
quan trọng bậc nhất [9].
Với những cố gắng, nỗ lực trong nhiều năm qua, ngành y tế Việt Nam
đã thu được những thành tựu đáng kể trong công tác chăm sóc SKSS. Tuy
nhiên Báo cáo chiến lược quốc gia về chăm sóc SKSS tại hội nghị quốc gia về
dân số và phát triển bền vững cho thấy tỷ lệ các bà mẹ được khám thai và khi
đẻ được cán bộ chuyên môn giúp còn thấp, việc chăm sóc sau sinh, việc
hướng dẫn cho bú và cách nuôi con chưa được chú ý làm tốt. Nguyên nhân là
do sự yếu kém của hệ thống cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ bà mẹ,
trẻ em (CSSKBMTE) và sự thiếu hiểu biết của người dân trong cộng đồng,
đặc biệt là ở một số vùng khó khăn. Do đó, tỷ lệ tử vong mẹ do những nguyên
nhân liên quan tới quá trình sinh đẻ, mà chủ yếu là các tai biến sản khoa, cũng
như tỷ lệ tử vong chu sinh còn cao, năm 2003 tỷ lệ tử vong mẹ là 85 trên
100.000 trẻ đẻ sống, tỷ lệ tử vong chu sinh là 21‰ [4]. Giáo dục sức khoẻ
(GDSK) nâng cao nhận thức của người dân cũng như củng cố hệ thống y tế
được coi là những giải pháp hữu hiệu để cải thiện tình trạng trên đây.
Phủ Lý, Hợp Thành, Ôn Lương là ba xã nghèo ở phía Bắc huyện Phú
Lương, tỉnh Thái Nguyên. Đây là địa bàn sơ tán của Trường Đại học Y Hà
Nội trong những năm chiến tranh, và hiện nay là địa bàn của sinh viên
1
Trường Đại học Y Hà Nội thực hành về y tế cộng đồng. Thực hiện truyền
thống uống nước nhớ nguồn, trong những năm vừa qua, Trường đã phối hợp
với tổ chức Thầy thuốc thế giới hỗ trợ một dự án Chăm sóc sức khoẻ ban đầu
trong đó hoạt động trọng tâm là hỗ trợ cải thiện vệ sinh môi trường và bước


đầu đã đạt được những kết quả khả quan. Tuy nhiên theo đánh giá cuối dự án
và báo cáo năm 2002 của trung tâm y tế huyện, tình hình sức khỏe sinh sản
cho phụ nữ các dân tộc thiểu số tại đây hiện là một trong các vấn đề nổi cộm:
chỉ có 75% phụ nữ có thai đi khám thai 3 lần, số ca đẻ tại nhà chiếm đến
33%, ở một số xóm xa xôi, tỷ lệ đẻ tại nhà có thể đạt tới mức 50%. Các hoạt
động y tế trong lĩnh vực này còn gặp nhiều khó khăn đặc biệt là việc chăm
sóc thai nghén, sinh đẻ và sau sinh do điều kiện địa lý của vùng miền núi, địa
hình không thuận tiện cho đi lại và tiếp cận các dịch vụ y tế. Việc chăm sóc
sức khỏe (CSSK) khi thai nghén, sinh đẻ và sau sinh phần lớn được thực hiện
tại nhà theo phong tục và kinh nghiệm địa phương [11]. Một trong những hoạt
động Nhà Trường dự định hỗ trợ tiếp cho địa phương trong thời gian tới là
đào tạo một số kiến thức và kỹ năng GDSK sinh sản cho các cán bộ y tế thôn
bản và qua họ kết hợp tiến hành các GDSK sinh sản cho các nhóm phụ nữ dân
tộc thiểu số tại đây. Để có một chương trình đào tạo và GDSK sinh sản phù
hợp, hiệu quả và theo hướng hợp tác cộng đồng phải dựa trên thực tiễn của
cộng đồng. Do đó, một nghiên cứu về kiến thức chăm sóc SKSS, đặc biệt
chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trong thời kỳ mang thai, trong cuộc đẻ, sau đẻ và
chăm sóc trẻ sơ sinh được tiến hành, mà trong đề tài này tập trung ở nhóm các
bà mẹ có con dưới 1 tuổi, qua đó giúp cung cấp các thông tin cần thiết cho
việc xây dựng một chương trình can thiệp phù hợp và hiệu quả trên nhóm đối
tượng này.
Mục tiêu nghiên cứu :
*Mô tả thực trạng một số kiến thức, thực hành về chăm sóc sức khoẻ
mẹ trước, trong, sau sinh và chăm sóc trẻ sơ sinh của bà mẹ có con dưới 1
2
tuổi tại 3 xã Phủ Lý, Hợp Thành, Ôn Lương, huyện Phú Lương, tỉnh Thái
Nguyên, năm 2003.
*Phân tích một số ưu điểm và tồn tại trong nhận thức và thực hành của
các đối tượng về những nội dung nêu trên và đề xuất các giải pháp phù hợp
nhằm cải thiện tình hình sức khoẻ bà mẹ và trẻ em tại 3 xã trên đây.

3
Chương 1
Tổng quan
1.1. nội dung của công tác cssk thai sản Và TRẻ SƠ SINH:
1.1.1. Một số nội dung CSSK thai sản:
Thai nghén với người phụ nữ là một hiện tượng sinh lý mang nhiều tính
chất đặc biệt rất dễ chuyển thành bệnh lý vì thế chăm sóc sức khoẻ bà mẹ
trong quá trình thai nghén là một công việc quan trọng. Qúa trình này, theo
quy định của Hướng dẫn chuẩn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ
sinh sản [3], gồm 3 thời kỳ :
1.1.1.1. Trước sinh : thời kỳ trước sinh được tính từ khi bắt đầu có thai đến
trước khi có dấu hiệu chuyển dạ, trung bình kéo dài 38-40 tuần.
Thời kỳ này, về chăm sóc y tế, bà mẹ cần được khám thai ít nhất 3 lần
vào 3 quí của thai kỳ, được tiêm vắc xin phòng uốn ván, uống bổ sung viên
sắt phòng thiếu máu.
Việc khám và quản lý thai nghén là rất cần thiết để phát hiện kịp thời
các nguy cơ như thể trạng mẹ không đảm bảo, các bệnh lý của người mẹ có
sẵn cũng như mới xuất hiện do thai nghén lần này như thiếu máu, nhiễm độc
thai nghén.
Về nội dung uống bổ sung viên sắt phòng thiếu máu:
- Bà mẹ mang thai cần uống 1 viên/ ngày trong suốt thời gian có thai
đến hết 6 tuần sau đẻ. Tối thiểu phải uống ít nhất trước đẻ 90 ngày.
- Việc cung cấp viên sắt cần được thực hiện ngay từ lần khám thai đầu.
Để phòng uốn ván cho bà mẹ và trẻ sơ sinh, có 2 nội dung phải làm :
- Tiêm vắc xin phòng uốn ván: mũi thứ nhất từ tháng thứ tư trở đi, mũi
thứ hai cách mũi đầu ít nhất 1 tháng và chậm nhất là trước khi đẻ 1 tháng.
- Làm rốn vô khuẩn.
4
Ngoài những lần khám thai theo quy định, các bà mẹ mang thai cần đi
khám ngay khi có những dấu hiệu bất thường như đau đầu dữ dội; nhìn mờ;

rối loạn thị lực; phù mặt, tay chân; co giật; thai cử động không bình thường;
ra máu âm đạo; sốt cao; đau bụng...[6]
Về chề độ lao động, sinh hoạt, dinh dưỡng, bà mẹ cần được:
+ Ăn tăng cả về lượng và chất.
+ Làm việc theo khả năng, xen kẽ nghỉ ngơi, tránh làm việc nặng,
nghỉ ngơi hoàn toàn trong tháng cuối.
1.1.1.2. Thời kỳ chuyển dạ: Chuyển dạ đẻ là quá trình từ khi có dấu hiệu
chuyển dạ như ra nhầy hồng, đau bụng, ra nước ối đến khi thai và rau thai
được đưa ra khỏi đường sinh dục của người mẹ.
Một cuộc chuyển dạ đẻ kéo dài trung bình 12 giờ.
Cuộc đẻ cần được thực hiện ở cơ sở y tế có nhân viên y tế có chuyên
môn ( bác sỹ, y sỹ sản nhi, nữ hộ sinh ), đảm bảo đỡ đẻ sạch, an toàn.
Có rất nhiều nguy cơ cho cả bà mẹ và trẻ được sinh trong khi chuyển dạ
đẻ. Bên cạnh là đó các nguy cơ do bệnh có sẵn trong khi mang thai đã nêu ở
trên. Chuyển dạ kéo dài (trên 12 giờ); nhiễm khuẩn ối (nước ối xanh,nâu,vàng
bẩn); ra máu âm đạo nhiều; sốt cao, ngôi thai bất thường, không sổ rau trên 30
phút, co giật là những dấu hiệu nguy hiểm trong thời kỳ chuyển dạ cần được
phát hiện và xử trí kịp thời để tránh tử vong mẹ và thai nhi [14].
Tử vong mẹ trong thời kỳ này phần lớn do các tai biến sản khoa: băng
huyết; nhiễm trùng, đặc biệt nguy hiểm là uốn ván, nhiễm trùng nước ối; vỡ
tử cung; sản giật...[9] .
1.1.1.3. Thời kỳ hậu sản được tính từ khi thai nhi được đẻ ra cho đến 6 tuần
sau đẻ, và quan trọng nhất là 2 tuần đầu. Thời kỳ này các nguy cơ cho mẹ,
liên quan đến cuộc đẻ vẫn tồn tại như nhiễm khuẩn hậu sản; băng huyết; nhiễm
độc thai nghén. Thêm vào đó xuất hiện những vấn đề mới liên quan tới dinh
5
dưỡng và chăm sóc trẻ sơ sinh [14].Thời kỳ này bà mẹ cần được nghỉ ngơi và ăn
uống bồi dưỡng để phục hồi sức khoẻ và có nhiều sữa cho con bú.
6
1.2.2. Một số vấn đề chăm sóc trẻ sơ sinh :

Thời kỳ sơ sinh được tính từ khi trẻ ra đời cho tới hết tuần thứ 4 sau đẻ.
Ngay sau khi sinh, trẻ cần được ủ ấm, cho bú sớm và bú sữa non. Sữa
non được tiết ra trong ba ngầy đầu sau đẻ, có hàm lượng các chất dinh dưỡng
phù hợp với nhu cầu của trẻ sơ sinh. Việc cho trẻ bú sớm sẽ kích thích tiết sữa
và xuống sữa [7].
Trong thời kỳ sơ sinh, những đặc điểm bệnh lý của trẻ khó nhận biết, dễ bị
bỏ qua, bệnh lại dễ chuyển thành nặng, nguy hiểm đến tính mạng. Các dấu hiệu
bệnh tật thường gặp là các dấu hiệu khó thở, thở nhanh, yếu, không cử động,
màu da bất thường, hạ thân nhiệt hoặc sốt, nhiễm khuẩn mắt (mắt có gỉ).
Đảm bảo thân nhiệt và dinh dưỡng là những nguyên tắc cơ bản trong xử
trí ban đầu những bệnh thưồng gặp ở trẻ sơ sinh.
Các nguyên nhân gây tử vong chủ yếu ở trẻ sơ sinh là nhiễm khuẩn,
đặc biệt nhiễm khuẩn rốn; ngạt khi đẻ; chấn thương khi đẻ; đẻ non tháng; nhẹ
cân; suy dinh dưỡng; viêm ruột hoại tử; ỉa chảy; xuất huyết não, màng não ...
[15]

1.2. công tác chăm sóc sức khoẻ bà mẹ- trẻ sơ sinh ở Việt Nam hiện nay:
1.2.1. Thực trạng chăm sóc thai sản và chăm sóc trẻ sơ sinh:
Việt Nam là nước có số dân lớn thứ hai trong khu vực Đông Nam á, kết
cấu dân số trẻ với tỷ lệ tăng dân cao, khoảng 1,7% mỗi năm, tỷ suất sinh thô
21,5%, số con trung bình của một phụ nữ là 2,33 con. Điều đó có nghĩa là số
phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ chiếm tỷ lệ cao mà phần lớn trong số đó sống ở nông
thôn, miền núi với những khó khăn trong đời sống cũng như trong việc tiếp
cận các dịch vụ y tế [2].
Nhà nước đã đặt nhiệm vụ chăm lo, bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em luôn
luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu. Với chủ trương đó, công tác
CSSKBMTE đã được triển khai rộng khắp trong cả nước. Tại tuyến cơ sở,
7
công tác này được thực hiện bởi cán bộ trạm y tế xã và đội ngũ y tế thôn bản
[8].

Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện CSSKBĐ ở Việt Nam năm 1999
cho biết 55% bà mẹ đươc khám thai, 26,5%được khám đủ 3 lần, 83,3% bà mẹ
được tiêm phòng uốn ván, 73% bà mẹ đẻ tại trạm y tế xã, phường, bệnh viện
[5]. Tuy nhiên tỷ lệ sử dụng các dịch vụ chăm sóc thai sản nhìn chung chưa
cao và không đồng đều trong cả nước, cụ thể là những nghiên cứu ở một số
vùng đồng bằng cho thấy tỷ lệ bà mẹ được khám thai khá cao. Tại Sóc Sơn,
theo nghiên cứu của tác giả Trịnh Thanh Thuỷ năm 1998: 82,4% bà mẹ đươc
khám thai, 89,2% bà mẹ được tiêm phòng uốn ván [18]. Một nghiên cứu tại
Kim Bảng, Hà Nam năm 1999 của Nguyễn Thế Vỹ và Hoàng Văn Thái cho
biết tỷ lệ khám thai của các bà mẹ là 82,1%, tỷ lệ tiêm phòng uốn ván là
65,8% [19]. Điều cần lưu ý là Sóc Sơn và Kim Bảng là địa bàn thực địa của
Trường Đại học Y Hà Nội nên được hỗ trợ nhiều chương trình chăm sóc y tế.
Cũng như vậy, năm 2000, tại Quảng Xương –Thanh Hoá, nơi triển khai dự án
Lam của tổ chức Nhi Đồng Mĩ, theo báo cáo 2 năm sau dự án của tác giả
Trần Hùng Minh có đến 95% thai phụ được khám thai, 73,7% được khám từ 3
lần trở lên, 95,8% được tiêm phòng uốn ván và 77,2% được tiêm đủ hai mũi.
Tuy nhiên báo cáo này cũng ghi nhận 21,6% ca đẻ tại nhà và tỷ lệ bà mẹ được
khám sau đẻ chỉ là 39,5% đồng thời nêu nên thực trạng kiến thức của phụ nữ
về các dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai, trong chuyển dạ và sau sinh còn rất
hạn chế. Có khoảng 25% đến 50% trường hợp được hỏi không kể được bất cứ
một dấu hiệu hay triệu chứng nguy hiểm nào [13].
Như vậy có thể thấy nơi nào y tế được quan tâm thì chất lượng chăm
sóc SKSS được nâng cao rõ rệt, các chương trình can thiệp về SKSS đã có
hiệu quả cao và cần được đẩy mạnh và triển khai trên diện rộng. Tuy nhiên,
vấn đề còn tồn tại là tình trạng đẻ tại nhà và chăm sóc sau sinh cũng như sự
thiếu hụt kiến thức của các bà mẹ về các dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai.
8

1.2.2. Những tồn tại, nguyên nhân:
- Tỉ lệ tử vong mẹ liên quan đến thai sản còn cao.

ở nước ta tỷ lệ tử vong bà mẹ và các bệnh liên quan đến sinh đẻ tuy đã
giảm nhưng vẫn còn ở mức cao, khoảng 110- 137/100000 trẻ đẻ sống. Tỷ lệ
chết mẹ cũng thay đổi theo từng vùng 107/100000 ở khu vực đồng bằng sông
Hồng, 200/100000 ở vùng miền núi phía Bắc, 418/100000 ở Gia Lai. Theo
ước tính hàng năm có từ 22000 –28000 bà mẹ tử vong tức là mỗi ngày có 7 bà
mẹ chết do các nguyên nhân có liên quan tới thai nghén và sinh đẻ. Suy dinh
dưỡng, thiếu máu và các tai biến sản khoa là những nguyên nhân nổi trội trong
tử vong mẹ. Theo Báo cáo hội thảo quốc gia về chính sách chăm sóc sản khoa
thiết yếu của Bộ Y tế và Quỹ dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) năm 1999,
35% tổng số các trường hợp chết mẹ hoàn toàn có thể phòng ngừa được và
53% có thể phòng ngừa được nếu có được sự chăm sóc thai sản đầy đủ [5].
- Các dịch vụ chăm sóc mẹ ở Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu sức
khỏe của người dân. Khoảng 66% phụ nữ có thai nhận được chăm sóc trước đẻ
nhưng chỉ 1/3 được khám thai đủ 3 lần. Số lượng phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ
được tiêm vắc xin dao động từ 26% ở nông thôn đến 73% ở thành thị. Tỉ lệ thai
phụ được khám thai đủ 3 lần và được nhân viên y tế có chuyên môn đỡ đẻ còn
thấp. Các tồn tại nói trên chủ yếu ở các vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn. Hệ
quả của nó là khoảng 80% tử vong mẹ xảy ra ở các vùng nông thôn, miền núi
[17].
-Hệ thống cung cấp các dịch vụ bảo vệ sức khoẻ bà mẹ tuy đã được xây
dựng tương đối hoàn chỉnh song vẫn còn nhiều nhược điểm và tồn tại. Cơ sở
vật chất trang thiết bị dụng cụ còn hạn chế. Phương tiện vận chuyển các cấp
cứu sản khoa còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thuốc, thiếu thông tin giáo dục
sức khỏe và các phương tiện truyền thông, yếu kém trong xử lý thông tin và
thiếu các chính sách phù hợp và các hướng dẫn chi tiết cho chăm sóc trước,
9
trong và sau đẻ. Kinh phí của nhà nước cung cấp cho lĩnh vực chăm sóc sức
khoẻ thai sản rất hạn hẹp, phần lớn dựa vào ngân sách của địa phương. Như
vậy, các địa phương có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn lại càng không thể
có được những hoạt động chăm sóc sức khoẻ cho toàn cộng đồng.

Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ còn thiếu nghiêm trọng, đặc biệt là y sỹ
sản nhi, nữ hộ sinh, cộng thêm trình độ tay nghề chưa được cập nhật nên chưa
đáp ứng tốt nhu cầu ngày một cao của các hoạt động này [17].
- Nhận thức về nội dung và ý nghĩa của chăm sóc sức khoẻ bà mẹ khi
có thai chưa đầy đủ và chưa được quan tâm một cách chủ động. Sự thiếu hiểu
biết về những kiến thức khoa học cùng với những tập tục lạc hậu trong lối
sống nhất là ở những vùng dân tộc và các vùng khó khăn về địa lý, kinh tế,
văn hoá xã hội đã góp phần tạo nên những tồn tại nói trên [2]. Đặc biệt, ở
nước ta nhiều nơi còn phổ biến tình trạng bà mẹ sinh con và chăm sóc trẻ tại
nhà, công tác khám sau đẻ không được làm tốt nên vai trò của người mẹ trong
việc phát hiện và xử trí những dấu hiệu bệnh tật ở trẻ sơ sinh càng quan trọng.
Chính vì vậy, tỷ lệ bệnh và tử vong trong thời kỳ sơ sinh phụ thuộc rất nhiều
vào kiến thức và thực hành của các bà mẹ.
1.3. Một số giải pháp và mục tiêu đến năm 2010 :
Hiện nay Bộ Y tế đã thiết lập các chính sách khuyến khích chăm sóc
sức khỏe thiết yếu nhằm giảm tỷ lệ tử vong mẹ. Giáo dục và truyền thông về
thai nguy cơ cao và các tai biến sản khoa có thể nói là giải pháp hàng đầu,
phù hợp với tinh thần và nguyên lý của chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Giáo dục
sức khoẻ làm tăng sự nhận thức của các bà mẹ về tầm quan trọng, cách phòng
tránh các nguy cơ của thai nghén và các tai biến sản khoa, trên cơ sở đó tác
động làm thay đổi thái độ và tăng cường thực hành của các bà mẹ. Đây là giải
pháp có hiệu quả cao trong phòng chống bệnh tật nói chung và phòng chống
tai biến sản khoa nói riêng.
10
Giải pháp thứ hai là tăng cường hỗ trợ cho phụ nữ khi sinh đẻ tại các
vùng sâu, vùng xa và các vùng miền núi, hải đảo. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra
những tồn tại trong công tác chăm sóc sức khoẻ thai sản tại những vùng nói
trên là một phần do điều kiện địa hình phức tạp, cơ sở vật chất còn thiếu thốn,
hệ thống đường giao thông chưa đảm bảo [12]. Vì vậy bên cạnh việc tăng
cường công tác giáo dục truyền thông nâng cao nhận thức cần phát triển các

chính sách chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em tại nhà như thiết kế, xây dựng
mô hình đỡ đẻ và đội chăm sóc bà mẹ trẻ em tại nhà ở những vùng còn khó
khăn nói trên.
Mục tiêu chiến lược vào năm 2010 là:
-Tỷ lệ phụ nữ có thai được khám trước sinh đạt 90%.
- Tỷ lệ phụ nữ có thai được khám đủ 3 lần đạt 60%
- Tỷ lệ sản phụ được nhân viên y tế trợ giúp khi sinh đạt 97%.
- Tỷ lệ sản phụ sinh con tại cơ sở y tế đạt 80%.
- Giảm tỷ lệ tử vong mẹ xuống dưới 70/100000 trẻ đẻ sống.
- Giảm tỷ lệ chết trẻ em dưới 1 tuổi xuống dưới 20
o
/
oo
- Giảm tỷ lệ trẻ mới đẻ có trọng lượng nhỏ hơn 2500g xuống dưới 6%
- Giảm tỷ lệ tử vong chu sinh xuống dưới 18‰ [2].
1.4. Khái quát về bối cảnh địa lý, kinh tế, văn hoá - xã hội và hệ thống y tế của 3 xã
nghiên cứu:
1.4.1. Điều kiện kinh tế xã hội:
Phủ Lý, Hợp Thành, Ôn Lương là 3 xã ở phía Bắc huyện Phú Lương,
một huyện miền núi phía Bắc cách Hà Nội 102 km. Đất đai ở đây chủ yếu là
đồi núi, đất rừng, chiếm 65%, đất canh tác nông nghiệp chỉ chiếm 12%. Các
ngành kinh tế chủ yếu là nông nghiệp trồng chè và lúa nước, lâm nghiệp, khai
thác gỗ. Thực trạng ở 3 xã có các vấn đề khó khăn tương tự như những vùng
nông thôn miền núi khác ở miền Bắc Việt Nam: tỷ lệ người nghèo cao (20%),
cơ sở hạ tầng hạn chế, tình trạng thiếu ăn còn phổ biến (25% số hộ còn thiếu
11
ăn 1 đến 3 tháng trong năm), tỷ lệ SDD và tỷ lệ tử vong trẻ cao (40,2% trẻ
dưới 5 tuổi bị SDD), thiếu nguồn vốn tín dụng để tăng thu nhập và thiếu cơ
hội để cải thiện mức sống.
Nhóm dân tộc chính sống ở 3 xã chủ yếu là người Tày ( chiếm 70,1% ),

tiếp theo là người Kinh ( chiếm 25,5% ), người Dao, Nùng và Sán Chí chỉ
chiếm tỷ lệ nhỏ. Người dân giao tiếp bằng tiếng phổ thông là chính, bên cạnh
đó họ vẫn dùng tiếng của dân tộc mình. Phụ nữ tuổi 15- 49 chiếm 29% tổng
dân số. Trẻ dưới 1 tuổi chiếm 7,1% dân số. Bình quân mỗi hộ gia đình có 4,6
người. Đa số các gia đình có ba thế hệ sống chung [11].
Người dân tiếp nhận thông tin chủ yếu từ đài , ti vi và một phần nhỏ từ
báo chí. Mạng lưới điện quốc gia vẫn chưa bao phủ hết cả vùng, người dân có
sử dụng thêm các máy thuỷ điện nhỏ để sử dụng trong gia đình nhưng nguồn
điện này không đủ cung cấp thường xuyên. Điện thoại đã được lắp ở UBND
và trạm y tế các xã, nhưng mới có một số ít nhà dân ở trên trục đường chính
có máy điện thoại riêng.
Trước đây, người Tày và Sán Chí được phân biệt do một số đặc điểm
văn hoá riêng. Với sự phát triển về kinh tế, sự di cư và giao lưu văn hoá nên
ngày nay các phong tục tập quán của địa phương đã không còn khác nhiều so
với phong tục tập quán của người Kinh [20].
1.4.2. Y tế địa phương với hoạt động chăm sóc SKSS và làm mẹ an toàn
Tại ba xã có ba trạm y tế, mỗi trạm đều có trưởng trạm là bác sĩ đa khoa.
Ngoài ra các trạm đều có y sĩ và y tá sản nhi.
Chăm sóc sức khoẻ ban đầu (CSSKBĐ) được thực hiện tới tuyến xã
thông qua trạm y tế. Tất cả các chương trình y tế quốc gia được phối hợp
ngay tại tuyến này. Do vậy có thể thấy là trạm y tế xã có chức năng thực hiện
các hoạt động y tế cơ bản như là dinh dưỡng, CSSKBMTE/ KHHGĐ, TCMR,
cung cấp thuốc chữa bệnh, phòng chống các bệnh dịch, giáo dục sức khỏe và
vệ sinh môi trường, củng cố mạng lưới y tế. Tại trạm y tế ba xã đã thực hiện
12
16 chương trình y tế quốc gia. Trong số các chương trình này, TCMR và
CSSKBĐ/ KHHGĐ là các hoạt động mạnh nhất và thường xuyên nhất.
Với sự hợp tác của Hội phụ nữ, hàng tháng tại các trạm y tế đã tổ chức
những buổi khám thai kết hợp với nói chuyện tuyên truyền GDSK cho các bà
mẹ có thai. Kết quả của giáo dục sức khỏe tập trung là có thay đổi đáng kể về

chăm sóc sức khỏe thai sản. Theo tổng hợp số liệu từ trạm y tế 3 xã, trong
năm 2002, 75% phụ nữ có thai đi khám thai 3 lần và 90% phụ nữ có thai đã
tiêm vắc xin phòng uốn ván. Số ca đẻ do nhân viên y tế trạm đỡ đã tăng trong
những năm vừa qua lên đến gần 90% năm 2002. Tỷ lệ đẻ tại nhà so với đẻ tại
trạm y tế xã giảm từ 64% năm 1996 xuống 33% năm 2002. Nhưng ở một số
xóm xa xôi, tỷ lệ đẻ tại nhà vẫn có thể đạt tới mức 50%. Văn hóa và khoảng
cách địa lý là những trở ngại để phụ nữ đến đẻ tại trạm y tế xã.
13
Chương 2
Đối tượng - phương pháp nghiên cứu
2.1. thiết kế nghiên cứu:
Sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả căt ngang kết hợp hồi cứu.
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu:
Nghiên cứu được tiến hành tại 3 xã Phủ Lý, Hợp Thành và Ôn Lương,
huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên, tháng 4/ 2003.
2.3. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu được tiến hành trên 105 bà mẹ có con nhỏ dưới 1 tuổi trên
địa bàn 3 xã, chiếm 100% tổng số các bà mẹ có con dưới 1 tuổi tại 3 xã ở
thời điểm nghiên cứu : 31 tại Phủ Lý
40 tại Hợp Thành
34 tại Ôn Lương
Nghiên cứu này được thực hiện dựa trên cơ sở một dự án của Đơn vị
nghiên cứu sức khoẻ cộng đồng (CHRU), Trường Đại học Y Hà Nội. Trong
thiết kế nghiên cứu của dự án không sử dụng các đối tượng như cán bộ y tế,
hội viên hội phụ nữ, là những người có am hiểu sâu và trực tiếp hay liên quan
nhiều tới đối tượng nghiên cứu. Vì vậy việc đánh giá kiến thức và thực hành
của các bà mẹ có phần bị hạn chế.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được áp dụng là phương pháp định lượng kết
hợp với định tính, các thông tin trong nghiên cứu định tính sẽ góp phần bổ

sung giải thích một số thông tin trong phần định lượng.
- Phương pháp nghiên cứu định lượng : phỏng vấn 105 bà mẹ bằng bộ
câu hỏi .
- Phương pháp nghiên cứu định tính: tiến hành 6 cuộc thảo luận nhóm
và phỏng vấn sâu tại 3 xã.
14
2.4.1. Phương pháp thu thập thông tin:
- Phỏng vấn định lượng theo phiếu hỏi
- Thảo luận nhóm bà mẹ
- Lấy số liệu có sẵn từ sổ sách xã
2.4.2. Công cụ thu thập thông tin:
- Bộ phiếu hỏi
- Hướng dẫn thảo luận nhóm.
- Biểu mẫu lấy số liệu từ sổ sách của xã.
2.4.3. Xử lý số liệu:
Số liệu định lượng được xử lý theo các phương pháp thống kê trên
phần mềm Epi info 6.04 và xử lý số liệu định tính bằng phương pháp phân
tích tổng hợp thông thường
2.3.4. Khía cạnh đạo đức của đề tài:
- Điều tra được sự đồng ý và thống nhất của lãnh đạo địa phương từ
huyện xuống xã.
- Giải thích rõ mục tiêu, ý nghĩa nghiên cứu cho các đối tượng trên cơ
sở đó đạt được sự tham gia tình nguyện của các đối tượng nghiên cứu.
- Kết quả của nghiên cứu phục vụ cho việc cải thiện các hoạt dộng
chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em tại địa phương.
2.4.5. Sai số và cách khống chế:
Trong quá trình thu thập thông tin, do tiến hành phỏng vấn các bà mẹ
có con dưới 1 tuổi về quá trình mang thai nên có thể mắc sai số thông tin.
Cách khống chế:
- Bố trí câu hỏi kiểm tra thông tin trong bộ phiếu điều tra.

- Huấn luyện kỹ điều tra viên.
- Tăng cường giám sát và giám sát lẫn nhau khi điều tra.
- Kiểm tra lại các thông tin nghi ngờ.
- Quá trình nhập số liệu vào máy được kiểm tra đối chiếu 2 lần.
- Bộ câu hỏi đã được thử nghiệm tại thực địa và được chỉnh sửa để phù
hợp với các đối tượng phỏng vấn.
15
Chương 3
Kết quả nghiên cứu
3.1. Kiến thức –thực hành chăm sóc thai sản : trước, trong và sau sinh.
3.1.1. Tình hình khám thai của các bà mẹ :
100% các bà mẹ được khám thai trước khi đẻ ít nhất 1 lần.
81,0%
17,1%
1,9%
Ýt h¬n 3 lÇn
NhiÒu h¬n 3 lÇn
Kh«ng nhí
Biểu đồ 3.1: Số lần khám thai của các bà mẹ trong thời kỳ thai nghén
Biểu đồ 3.1 cho thấy đa số bà mẹ được khám thai trên 3 lần.
Khi hỏi những bà mẹ không đi khám thai đủ 3 lần, các bà mẹ cho biết
những lý do như bận việc nhà, do thấy người khoẻ nên không đi khám, do
điều kiện kinh tế khó khăn nên chỉ khám 1 hoặc 2 lần, hoặc quên không nhớ
ngày khám thai.
Bảng 3 1: Nơi khám thai
Bệnh viện
huyện
Trạm y tế

Phòng

khám tư
Y tế thôn bản,
bà mụ vườn
Tổng
số
Tần số 1 100 0 4 105
% 1,0 95,2 0,0 3,8 100,0

16
Bảng 3.2 cho thấy hầu hết các bà mẹ đều đi khám thai tại cơ sở y tế nhà
nước. Chỉ có rất ít bà mẹ khám thai tại nhà của y tế thôn bản hoặc bà mụ
vườn.
Trong thảo luận nhóm, các bà mẹ cho biết đã quen với việc đi khám tại trạm y
tế xã mỗi khi bị ốm vì vậy khi có thai cũng khám tại đây.
11,4
93,0
71,4
3,8
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Phßng biÕn chøng Theo dâi thai ph¸t

triÓn
Theo lêi khuyªn
cña y tÕ
§Ó ®­îc tiªm
phßng
Tû lÖ %
Biểu đồ 3.2 : Lý do đi khám thai
Biểu đồ 3.2 cho thấy lý do hàng đầu được các bà mẹ quan tâm khi
khám thai là theo dõi sự phát triển của thai. Việc khám thai theo sự chỉ dẫn
của nhân viên y tế chiếm hàng thứ hai. Rất ít bà mẹ nhận thức được việc
khám thai là để phòng biến chứng.
Tại các cuộc thảo luận nhóm, các bà mẹ cho biết rằng họ đi khám thai
một cách tự nguyện và để cảm thấy yên tâm hơn trong quá trình mang thai.
3.1.2. Tiêm phòng uốn ván khi mang thai và uống bổ sung viên sắt :
82,9%
11,4%
4,7%
1,0%
Tiªm 2 mòi
Tiªm 1 mòi
Kh«ng tiªm
Kh«ng nhí
Biểu đồ 3.3: Tỷ lệ tiêm phòng uốn ván của các bà mẹ trong khi mang thai.
17
Biểu đồ 3.3 cho thấy khi mang thai, tỷ lệ bà mẹ được tiêm phòng uốn
ván chiếm khá cao. Tuy nhiên vẫn còn có trường hợp không được tiêm phòng
uốn ván hoặc không nhớ đã tiêm chưa.
Khi hỏi lý do các trường hợp không tiêm phòng uốn ván, các bà mẹ
cho biết do không đi khám thai đầy đủ nên không được tiêm phòng.
55,3%

0,9%
10,5%
33,3%
D­íi 90 ngµy
Trªn 90 ngµy
Kh«ng nhí
Kh«ng uèng
Biểu đồ 3.4 :Tỷ lệ uống viên sắt của bà mẹ trong khi mang thai.
Biểu đồ 3.4. cho thấy chỉ có một nửa số bà mẹ được uống đầy đủ viên
sắt trên 90 ngày.1/3 số bà mẹ có uống viên sắt nhưng không đủ 90 ngày. Vẫn
còn một số nhỏ (11 bà mẹ) không uống viên sắt trong suốt thời kỳ có thai.
Những trường hợp này là do bà mẹ không biết là cần phải uống hoặc họ
thấy khoẻ nên nghĩ không cần uống. Cũng có bà mẹ do điều kiện kinh tế khó
khăn nên bỏ qua không uống viên sắt.
Qua thảo luận nhóm, hầu hết các bà mẹ tiêm phòng uốn ván, uống viên
sắt theo chỉ dẫn của nhân viên y tế khi họ đi khám thai. Họ biết làm thế thì tốt
cho sức khoẻ nhưng không nêu được ý nghĩa của những loại thuốc này. Theo
lời một bà mẹ cho biết: “ Đi khám thai họ bảo mua thuốc gì, tiêm cái gì, uống
cái gì thì làm theo thôi chứ cũng không biết để làm gì đâu.” (HT 6 ).
3.1.3. Chế độ ăn nghỉ của bà mẹ trong thời gian mang thai :
Trong các cuộc thảo luận nhóm, các bà mẹ cho biết họ ăn cùng gia đình
và không có chế độ bồi dưỡng riêng. Theo các bà mẹ khi có thai phải ăn tăng
18
hơn bình thường để đảm bảo sức khỏe cho bản thân và đứa con sau này
nhưng do điều kiện kinh tế còn khó khăn nên có gì ăn nấy. Một bà mẹ phát
biểu: “Khi có thai đứa đầu thì còn có điều kiện ăn uống bồi dưỡng thêm chứ
có đến đứa thứ hai rồi thì chẳng bồi dưỡng được mấy.” (ÔL 3). Bà mẹ khác
cho biết: “Cũng biết là phải ăn đủ chất đấy nhưng ngoài làm ruộng chỉ trồng
thêm được ít chè bán đi lấy tiền lo những việc lớn, lấy đâu tiền mà ăn.”
(HT4).

Hầu hết các bà mẹ nói rằng họ không kiêng cữ gì đặc biệt. Một số ít bà
mẹ kiêng ăn những đồ cay nóng như thịt chó, tiêu ớt, kiêng ăn thịt lợn nái...
Về thời gian nghỉ trước sinh, hầu hết các bà mẹ chỉ nghỉ làm việc nặng
trước khi sinh khoảng một tháng đến 1-2 tuần. Các bà mẹ cũng biết rằng thời
gian nghỉ như vậy là ít nhưng do điều kiện gia đình, do đặc thù của lao động
nông nghiệp là theo mùa vụ nên khó có nhiều thời gian nghỉ hơn. Có bà mẹ
cho biết: “Trước kia không nghỉ đâu, làm đến tận ngày đẻ. Bây giờ y tế người
ta tuyên truyền là phải nghỉ trước khi đẻ với lại cũng có điều kiện hơn nên
mới có thời gian nghỉ .” (ÔL 4). Tuy nhiên theo một bà mẹ phát biểu thì:
“Người già còn bảo phải làm nhiều thì đẻ mới dễ.” (HT5).
3.1.4. Thực hành chuẩn bị cho cuộc đẻ của các bà mẹ :
Bảng 3.2 : Dự kiến thời gian đẻ của các bà mẹ
Tính ngày Tần số %
Theo tuần 51 49,5
Theo tháng 48 46,6
Không nhớ rõ 4 3,9
Tổng 105 100,0
19
Bảng 3.3 cho thấy có gần một nửa số người được hỏi không biết cách
tính thời gian dự kiến đẻ theo tuần và một tỷ lệ nhỏ không tính thời gian dự
kiến đẻ.
Bảng 3.3: Chuẩn bị tại gia đình đồ dùng và phương tiện
cần thiết cho việc sinh đẻ
Các thứ
được
chuẩn bị
Quần
áo
Thực
phẩm

Tiền
Phương
tiện đi
lại
Nơi đẻ
Người
đỡ đẻ
Không
chuẩn
bị gì
% 99,0 61,9 81,9 46,7 45,5 5,7 1,0
Bảng 3.4 cho thấy tiền, quần áo, thực phẩm là những thứ đã được nhiều
bà mẹ quan tâm chuẩn bị nhất, tiếp đó là chuẩn bị nơi đẻ và phương tiện đưa
mình đi đẻ. Chỉ có rất ít bà mẹ nghĩ đến việc ai sẽ đỡ đẻ cho mình và 1 trường
hợp không chuẩn bị được gì cho cuộc đẻ.
3.1.5. Chăm sóc sức khoẻ trong và sau sinh :
3.1.5.1. Nơi sinh con của các bà mẹ :
88,5% các bà mẹ sinh con tại trạm y tế xã tuy nhiên vẫn còn 12 trường
hợp ( chiếm 11,5% ) đẻ tại nhà.
Trong thảo luận nhóm, hầu hết các bà mẹ cho rằng trạm y tế là nơi sinh
phù hợp nhất vì đa số khám thai tại đây, gần nhà, chi phí phải chăng, an
toàn, chưa thấy trường hợp nào xảy ra tai biến.
Bảng 3. 4: Lý do đẻ tại nhà
Lý do Đẻ rơi Muốn đẻ ở nhà Khác Tổng số
Số lượng bà
mẹ
8 3 1 12
% 66,6 25,0 8,3 100
20
Theo bảng 3.5, trong số 12 trường hợp đẻ tại nhà, phần lớn các bà mẹ

cho biết là do đẻ rơi, không kịp đến các cơ sở y tế. Lý do muốn đẻ tại nhà
chiếm tỷ lệ ít hơn. Một trường hợp lý do khác ở đây là tiết kiệm tiền.
3.1.5.3.Uống vitamin A trong vòng 2 tháng đầu sau đẻ :
Cã uèng
41,0%
Kh«ng uèng
59,0%
Biểu đồ 3. 5 :Tỷ lệ bà mẹ uống vitamin A
Biểu đồ 3.5 cho thấy đa số bà mẹ không được uống Vitamin A trong
vòng 2 tháng đầu sau đẻ.
Khi thảo luận nhóm các bà mẹ cho biết họ hầu như không có thông tin gì
về sự cần thiết phải uống vitamin A sau đẻ.
3.1.5.4. Chế độ ăn, nghỉ của phụ nữ sau sinh :
Trong các cuộc thảo luận nhóm, hầu hết các bà mẹ cho biết hiện nay
sau sinh phụ nữ không còn nhiều tục lệ ăn kiêng khắt khe như xưa. Phần lớn
các bà mẹ ăn uống bình thường. Lý do không ăn kiêng của chị em phần
lớn là do điều kiện kinh tế eo hẹp. Một bà mẹ phát biểu: “ Nhà nghèo chỉ
làm ruộng, không có nghề phụ, không có tiền nên có gì ăn nấy như mọi
người trong gia đình thôi. Có gì lạ để ăn đâu mà kiêng.” (ÔL3).
Một số bà mẹ thì vẫn ăn kiêng rau cải (sợ đi giải nhiều) hoặc chất
tanh (cá mè, cua ốc), thịt trâu (sợ lạnh). Hầu hết chị em kiêng một cách
thụ động do các vấn đề tâm lý như: “Ăn thì cũng tốt nhưng nhỡ sau này bị
21
hu sn thỡ li bo l ti n tham. (HT7), hoc Nhiu ngi kiờng thỡ
mỡnh cng kiờng khi ỏy nỏy nu cú b lm sao (PL4)
Qua tho lun nhúm, cỏc b m cho bit thi gian ngh ngi sau sinh ph
thuc iu kin trong gia ỡnh. Thụng thng thi gian ngh sau sinh ca ch
em khong 1-3 thỏng.
Cỏ bit cú trng hp mi mt thỏng ó ra lm ng: Nh ch cú hai
v chng vi hai ụng b gi, ang vo v gt thỡ c nh phi i lm ht thụi.

( ễL 5 .
3.2. Kin thc ca cỏc b m v cỏc du hiu nguy him cn phi i khỏm :
70,5
42,8
33,3
0,0
1,0
0,0
28,5
1,0
0
10
20
30
40
50
60
70
80
đau bụng Ra máu
âm đạo
Sốt cao Rối loạn thị
lực
Phù
tay/chân,
mặt
Đau đầu
dữ dội
Thai không
cử động

bình
thường
Co giật
Biu 3.6: Nhn bit v cỏc du hiu nguy him cn phi
i khỏm trong khi cú thai
Biu 3.6 cho thy ba du hiu nguy him m ngi ph n k
c nhiu nht l au bng, ra mỏu õm o, st cao. Nhng du hiu khỏc
liờn quan n nhim c thai nghộn hu nh b m khụng bit n.
22
1,0
16,8
43,6
34,9
16,8
8,7
8,7
1,0
9,4
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
Co giật Sốt cao Ra máu
âm đạo

Chuyển dạ
trên 12h
Ngôi
không
thuận
Không sổ
rau trên 30
phút
Nước ối
xanh, nâu,
vàng, bẩn
Đau đầu
mờ mắt
Ngất xỉu
Biu 3.7: Nhn bit v cỏc du hiu nguy him khi chuyn d .
Biu 3.7 cho thy ra mỏu õm o nhiu & chuyn d trờn 12 gi l
hai du hiu nguy him trong chuyn d c bit vi t l cao nht. Cỏc du
hiu st cao, ngụi khụng thun, t l ngi bit ớt hn, cỏc du hiu cũn li t
l i tng bit rt ớt, nht l nhng du hiu ca nhim c thai nghộn.
0,0
45,0
72,5
9,5
47,7
0,0
0,0
0
10
20
30

40
50
60
70
80
Co giật Sốt cao Ra máu âm
đạo
Sản dịch mùi
hôi
đau bụng
nhiều
Phù tay, chân
,mặt
đau đầu nhìn
mờ

Biu 3.8: Nhn bit v cỏc du hiu nguy him sau khi :
Biu 3.8 cho thy ba du hiu c nhn bit vi t l cao l ra mỏu õm
o nhiu, au bng, st cao. Rt ớt ngi bit sn dch cú mựi hụi l nguy
him. Vn khụng cú b m no bit v nhng du hiu nguy him ca nhim
c thai nghộn.
23
Bảng 3.5 : Số lượng dấu hiệu nguy hiểm được nhận biết :
Số lượng dấu hiệu
Thời điểm xuất hiện 0 1 2 3 4
Trước sinh 43,4 27,3 13,1 11,2 5,0
Khi chuyển dạ 21,3 15,1 28,5 20,9 13,2
Sau sinh 13,8 15,8 39,7 20,8 9,9

Bảng 3.6 cho thấy đối với những dấu hiệu nguy hiểm trong thời kỳ

mang thai,rất nhiều bà mẹ không kể được bất cứ một dấu hiệu nguy hiểm nào.
Gần một nửa trong số họ chỉ kể được một đến hai dấu hiệu. Số bà mẹ nêu
được ba đến bốn dấu hiệu nguy hiểm còn ít hơn nữa.
Đa số bà mẹ kể được hai đến ba dấu hiệu nguy hiểm khi chuyển dạ, số
bà mẹ nhận biết được một hoặc bốn dấu hiệu là tương đương nhau, chiếm tỷ
lệ ít hơn, còn đến hơn 1/5 các bà mẹ không kể được một dấu hiệu nguy hiểm
nào trong khi chuyển dạ.
Trong các dấu hiệu nguy hiểm sau đẻ, số bà mẹ nhận biết được từ hai
đến ba dấu hiệu chiếm tỷ lệ cao nhất, số không nhận biết được dấu hiệu nào
hoặc chỉ biết một dấu hiệu chiếm tỷ lệ thấp hơn và số bà mẹ biết được hơn
bốn dấu hiệu chiếm tỷ lệ ít nhất.
3.3. một số Kiến thức và thực hành của bà mẹ về dinh dưỡng và chăm sóc trẻ sơ sinh:
3.3.1. Kiến thức và thực hành cho con bú:
Có 87,6% bà mẹ đã cho con bú sữa non còn lại 12,4% bà mẹ vắt sữa
non bỏ đi không cho con bú.
Trong thảo luận nhóm, các bà mẹ đã kể được những tác dụng của sữa
mẹ như hợp với sự tiêu hoá của trẻ, trẻ bú sữa mẹ ít bị tiêu chảy hơn trẻ ăn
sữa ngoài, đủ các chất dinh dưỡng. Tuy nhiên hầu hết các bà mẹ không biết
những tác dụng đặc biệt của sữa non và coi sữa non cũng như sữa thường.
24
Một bà mẹ đã có hai con cho biết ý kiến: “ Chỉ được biết sữa mẹ là tốt thôi,
cứ đẻ ra là cho bú ngay chứ cũng chẳng phân biệt sữa non hay sữa thường.”
58,1%
3,8%
38,1%
Ngay sau ®Î
Sau vµi giê
Sau 24 giê
Biểu đồ 3.9: Thời gian cho con bú sau đẻ
Biểu đồ 3.9 cho thấy đa số bà mẹ cho con bú ngay sau đẻ và số bà mẹ

cho con bú sau vài giờ chiếm tỷ lệ ít hơn. Vẫn còn một tỷ lệ nhỏ bà mẹ cho
con bú sau đẻ 24 giờ.
3.3.2 Kiến thức về những dấu hiệu bệnh lý ở trẻ sơ sinh:
38,1
4,7
19,5
9,5
8,5
0
5
10
15
20
25
30
35
40
Khã thë Thë nhanh
(>60l/ph)
YÕu, kh«ng cö
®éng
Mµu da bÊt th­êng Ng­êi l¹nh
Biểu đồ 3.10: Nhận biết các dấu hiệu bị ốm ở trẻ khi vừa đẻ ra
Biểu đồ 3.10 cho thấy trong 5 triệu chứng được coi là ốm ở trẻ vừa sinh
ra, dấu hiệu khó thở được nhắc tới với tỷ lệ cao nhất, các dấu hiệu yếu- không
cử động, màu da không bình thường, người lạnh được ít bà mẹ nhận biết hơn.
Dấu hiệu thở nhanh trên 60 lần trong 1 phút được nhận biết với tỷ lệ thấp
nhất.
25

×