Quản lý đăng ký kinh doanh trên
địa bàn thành phố Huế và giải
pháp ứng dụng công nghệ GIS
Một góc cố đô Huế - Ảnh: ST
Luật Doanh nghiệp năm 2005 ra đời đã đánh dấu một bước tiến
mới cho sự ra đời của các doanh nghiệp và trong hoạt động đăng
ký kinh doanh (ĐKKD). Tính đến ngày 01/01/2008, đã có hơn
40.000 doanh nghiệp thành lập mới trên cả nước, riêng ở thành
phố Hồ Chí Minh đã có gần 20.000 doanh nghiệp mới thành lập
với vốn đầu tư lên tới hơn 100.000 tỷ đồng. Các doanh nghiệp đã
góp phần to lớn vào sự tăng trưởng kinh tế chung của cả nước,
đạt 8,48% và bội thu kỷ lục trong thu hút đầu tư nước ngoài năm
2007 lên đến 20, 3 tỷ đôla.
1. Đăng ký kinh doanh và quản lý hoạt động đăng ký kinh
doanh
Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh phát triển, ổn định nền
kinh tế, Nhà nước đã có các quy định về đăng ký thành lập doanh
nghiệp đối với các thành phần kinh tế.
ĐKKD là một thủ tục hành chính hợp pháp hóa sự ra đời của một
doanh nghiệp, thông qua đó, Nhà nước thừa nhận và bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp cho doanh nghiệp trong quan hệ kinh
doanh và ghi nhận về mặt pháp lý sự tồn tại độc lập của một chủ
thể kinh doanh.
Việc ĐKKD có ý nghĩa quan trọng, giúp Nhà nước thiết lập trật
tự trong hoạt động kinh doanh và tạo môi trường kinh doanh đầu
tư lành mạnh. Đây là một trong những nhân tố thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế. Thông qua việc ĐKKD, công tác quản lý
ĐKKD đối với các doanh nghiệp được thực hiện: Các thông tin
cần thiết về doanh nghiệp được cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền ghi vào sổ ĐKKD lưu giữ, xác định các doanh
nghiệp nào đủ điều kiện để hoạt động và loại bỏ những chủ thể
không đủ tư cách pháp lý để tham gia kinh doanh. Các khách
hàng hay đối tác kinh doanh muốn có quan hệ với doanh nghiệp
có thể thông qua ĐKKD để bước đầu nắm bắt được thông tin cần
thiết về doanh nghiệp.
2. Thực trạng về ĐKKD, quản lý ĐKKD trên địa bàn thành
phố Huế
Ngày 29/12/2005, Quốc hội đã ban hành Luật Doanh nghiệp năm
2005 thay thế Luật Doanh nghiệp năm 1999. Luật Doanh nghiệp
2005 đã đơn giản hoá thủ tục hành chính đối với hoạt động
ĐKKD, và cũng vì thế, các doanh nghiệp đã được thành lập
nhanh chóng. Tỉnh Thừa Thiên - Huế, theo báo cáo của Sở Kế
hoạch và Đầu tư, số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân
đã tăng lên mạnh mẽ. Năm 2006, toàn tỉnh có 2.195 doanh
nghiệp ĐKKD, trong đó có 1.382 DNTN, 626 công ty TNHH,
187 công ty cổ phần, với tổng số vốn đăng ký là 4.268, 5 tỷ đồng
Việt Nam. Đến tháng 12/2007, số doanh nghiệp đã tăng lên với
2.418 doanh nghiệp với vốn đăng ký là 7.114, 408 tỷ đồng Việt
Nam ở thành phố Huế, số lượng doanh nghiệp cũng tăng lên,
đến thời điểm tháng 12/2007 đã có 799 doanh nghiệp. Tình hình
hoạt động cấp giấy chứng nhận ĐKKD cũng đã đáp ứng được
yêu cầu của các doanh nghiệp. Từ năm 2005 đến tháng 12/2008,
Sở Kế hoạch Đầu tư tỉnh Thừa Thiên - Huế đã cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh (GCNĐKKD) cho 1.354 doanh nghiệp
trên địa bàn thành phố Huế với tổng số vốn đăng ký lên đến
4.697.502 triệu đồng, cấp giấy giấy chứng nhận đăng ký hoạt
động cho 277 chi nhánh và 41 văn phòng đại diện. Trong quá
trình hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp đóng trên địa bàn
Huế đã đóng góp hơn 40% tổng sản phẩm nội địa của thành phố,
giải quyết việc làm cho hơn 12.332 lao động.*
Số doanh nghiệp ĐKKD cũng như số vốn đăng ký tăng lên qua
các năm đã chứng minh tính hiệu quả của việc thực hiện Luật
Doanh nghiệp 2005, đồng thời cũng chứng minh hoạt động
ĐKKD đã đáp ứng được yêu cầu. Các thủ tục ĐKKD mới đã
được xem như là một bước “cởi trói” cho các doanh nghiệp, là
nhân tố khuyến khích thúc đẩy sự tham gia của các loại hình
doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Huế. Tuy nhiên, để làm tốt
hơn nữa hoạt động ĐKKD, cần chú ý thêm một số nội dung sau:
Về thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp: Sở Kế hoạch và Đầu
tư, Cục Thuế và Công an tỉnh Thừa Thiên - Huế đã phối hợp triển
khai thực hiện cơ chế “một cửa liên thông” trong việc giải quyết
thủ tục thành lập doanh nghiệp: cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh; làm thủ tục khắc dấu, cấp giấy chứng nhận đăng ký
mẫu dấu; cấp mã số thuế ở tỉnh. Với việc áp dụng cơ chế này,
thời gian thực hiện tất cả các thủ tục liên quan đến đăng ký kinh
doanh, khắc dấu và cấp giấy chứng nhận đăng ký mẫu dấu, đăng
ký mã số thuế chỉ mất 6 ngày với 2 lần đi lại (lần nộp hồ sơ và
lần nhận kết quả), chỉ kê khai một lần và đến một nơi duy nhất là
“Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả” tại Sở Kế hoạch và Đầu tư
tỉnh. So với trước đây, để thực hiện các yêu cầu trên thì tổ chức,
công dân phải mất 17 ngày, 10 lần đi lại, kê khai 3 lần và phải
đến 3 đơn vị khác nhau. Đây là mô hình có thời gian giải quyết
ngắn nhất, được cá nhân và doanh nghiệp đồng tình. Tuy nhiên,
sẽ thuận lợi hơn nếu người thành lập doanh nghiệp chỉ phải điền
vào một tờ khai duy nhất cho cả ba thủ tục đăng ký kinh doanh,
đăng ký con dấu và mã số thuế, chứ không phải cung cấp thông
tin lặp lại cho nhiều tờ khai khác nhau. Đồng thời, khi Phòng
Đăng ký kinh doanh cấp GCNĐKKD cho doanh nghiệp, thì nên
được cơ quan công an uỷ quyền làm luôn hồ sơ cấp dấu. Công
việc này, hiện vẫn do phía công an cử cán bộ đến làm trực tiếp
vào thứ 2, thứ 4 và thứ 6 hàng tuần.
Về vấn đề đặt tên doanh nghiệp và quản lý đặt tên doanh nghiệp:
Việc đặt tên doanh nghiệp trùng hoặc dễ gây nhầm lẫn với tên
của doanh nghiệp đã đăng ký có chiều hướng gia tăng ở tất cả các
tỉnh. Thông thường, các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
không chỉ tìm kiếm địa bàn, bạn hàng, ký kết hợp đồng và tiêu
thụ sản phẩm trên phạm vi một địa phương, mà luôn muốn mở
rộng phạm vi hoạt động cả trong và ngoài nước, nhưng nếu
không quản lý được việc đặt tên cho các doanh nghiệp, thì sẽ gây
ra tình trạng nhầm lẫn và trùng lắp, gây ảnh hưởng đến các chủ
thể kinh doanh, đến nhà đầu tư và người tiêu dùng. Nguyên nhân
của tình trạng này là do chúng ta đang thiếu hệ thống tra cứu tên
doanh nghiệp. Các doanh nghiệp, các nhà đầu tư khi lập hồ sơ
ĐKKD không biết tìm ở đâu để kiểm tra tên doanh nghiệp của
mình có bị trùng hay nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp khác đã
đăng ý hay chưa.
Hiện nay, việc quản lý về vấn đề đặt tên cho doanh nghiệp thuộc
thẩm quyền và trách nhiệm của Sở Kế hoạch và Đầu tư. Nhưng
Sở này chỉ quản lý được các doanh nghiệp trong phạm vi địa bàn
của tỉnh. Cả nước chưa có mạng lưới để cung cấp thông tin một
cách có hệ thống và tránh trùng lắp đối với tên doanh nghiệp,
trong khi các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh không chỉ bó
hẹp trong phạm vi của một tỉnh, thành mà có thể tìm kiếm thị
trường, có các quan hệ với các đối tác rộng khắp, cũng như mở
rộng hoạt động của mình dưới hình thức thành lập chi nhánh và
văn phòng đại diện tại các tỉnh khác. Do chưa quản lý được tên
doanh nghiệp một cách hiệu quả nên có nhiều doanh nghiệp trùng
tên nhau và đã xảy ra nhiều tranh chấp về tên doanh nghiệp.**
Quản lý việc công khai hoá sự ra đời của doanh nghiệp: Theo quy
định của pháp luật, sau khi được cấp giấy CNĐKKD, doanh
nghiệp phải công khai hoá sự ra đời của mình thông qua việc
đăng báo công khai trên mạng thông tin doanh nghiệp của cơ
quan ĐKKD hoặc trên một tờ báo (báo viết hoặc báo điện tử)
trong ba số liên tiếp. Nhưng thực tế, có nhiều doanh nghiệp
không thực hiện quy định này. Trong khi đó, Luật Doanh nghiệp
lại không có quy định về việc quản lý hoạt động đăng báo công
khai cũng như chưa quy định cơ quan nào có trách nhiệm kiểm
tra, giám sát việc đăng báo công khai của các doanh nghiệp. Do
vậy, chưa có cơ sở pháp lý đầy đủ để thực hiện quản lý đối với
hoạt động này.*
Thông tin về các ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh liên quan đến
dự định đầu tư kinh doanh: Hiện nay, thật khó để các chủ doanh
nghiệp, các nhà đầu tư có được các thông tin tổng quát về ngành
nghề, lĩnh vực mà mình dự định đầu tư để có quyết định đầu tư
chính xác. Các thông tin họ luôn cần như trên địa bàn này đã có
bao nhiêu doanh nghiệp đang hoạt động, có bao nhiêu chi nhánh,
quy mô hoạt động của các doanh nghiệp đó thế nào, lĩnh vực
đang đầu tư kinh doanh là gì nhưng ít khi được đáp ứng. Thậm
chí, việc trao đổi thông tin giữa các cơ quan quản lý nhiều khi
cũng không thực hiện được do thiếu sự chuẩn hoá về thông tin
mà quan trọng nhất là chưa có được một mã số xác định thống
nhất cho mỗi doanh nghiệp. Trong khi đó, các nhu cầu về thông
tin này rất dễ được đáp ứng nếu công tác quản lý kinh doanh
khoa học hơn với sự trợ giúp của công nghệ thông tin.*
Một thực tế đáng lưu ý là đối với các doanh nghiệp, việc thiếu
các cơ sở dữ liệu có tính pháp lý về các doanh nghiệp khác đã và
đang kinh doanh là nguyên nhân tạo ra chi phí giao dịch giữa các
doanh nghiệp rất lớn. Doanh nghiệp không thể khai thác thông tin
có tính pháp lý, đáng tin cậy với chi phí thấp về đối tác của mình,
nhất là khi đối tác lại đăng ký kinh doanh ở một địa phương khác.
Ví dụ, một doanh nghiệp ở thành phố Huế muốn tìm kiếm thông
tin về một đối tác ở tỉnh khác, doanh nghiệp này phải liên hệ với
phòng đăng ký kinh doanh nơi đối tác đặt trụ sở chính. Việc này
là không dễ dàng và khá tốn kém. Nếu chúng ta có một cơ sở dữ
liệu quốc gia về ĐKKD được kết nối thì mọi việc sẽ trở nên dễ
dàng và ít tốn kém hơn.
Thực trạng quản lý hệ thống được cấp GCNĐKKD của các
doanh nghiệp nói chung và trên địa bàn thành phố Huế nói riêng
đến nay vẫn còn rời rạc và chưa có tính hệ thống về cả các loại
hình doanh nghiệp kinh doanh lẫn nội dung lĩnh vực kinh doanh.
Hiện nay, để quản lý các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên
địa bàn, cơ quan có chức năng chỉ thông qua hệ thống hồ sơ đăng
ký hay thông tin trên mạng máy tính nội bộ, với các dữ liệu thông
tin được cung cấp dàn trải, không được mã hóa. Đây chính là lý
do gây khó khăn cho công tác xác định vị trí địa lý, sự phân bố
không gian và truy cập tìm kiếm thông tin chung của từng doanh
nghiệp của cơ quan quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp.
Hơn thế nữa, trong tiến trình hội nhập quốc tế, chúng ta cần phải
xây dựng một hệ thống kiểm soát phát triển kinh tế và hệ thống
quản lý doanh nghiệp về mọi phương diện để giúp cho các nhà
quản lý có định hướng sát thực trong xây dựng và quản lý hệ
thống doanh nghiệp.
Trong thời gian qua, công tác quản lý hoạt động ĐKKD ở trong
phạm vi toàn quốc nói chung và địa bàn thành phố Huế nói riêng
chỉ được thực hiện với phương thức thủ công, độc lập giữa các cơ
quan liên quan. Đến nay, với việc thực hiện cải cách thủ tục hành
chính, nhất là cải cách hành chính trong thủ tục ĐKKD để đảm
bảo hoạt động quản lý ĐKKD có hiệu quả, thì yêu cầu tất yếu là
phải ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý các dữ kiện
ĐKKD của các doanh nghiệp và các dữ liệu này phải được kết
nối để bất cứ cơ quan nào có chức năng cũng sẽ nắm được các
thông tin về các doanh nghiệp đã ĐKKD, trong việc cấp con dấu
và cấp mã số thuế, đồng thời đơn giản hóa các thủ tục này thông
qua cơ chế một cửa liên thông, tạo điệu kiện thuận tiện hơn trong
việc quản lý hoạt động ĐKKD của các doanh nghiệp.
3. Ứng dụng công nghệ GIS và các giải pháp khác góp phần
hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý
ĐKKD
Như đã nói, ĐKKD và quản lý hoạt động ĐKKD là một trong
những nội dung trọng yếu trong việc cải cách hành chính trong
giai đoạn hiện nay ở các tỉnh, thành phố, nhằm đảm bảo quyền tự
do kinh doanh và phát huy hiệu quả trong hoạt động kinh doanh
của các chủ thể đầu tư; đồng thời khai thác hợp lý tiềm năng kinh
tế - xã hội của đất nước.*
Để đáp ứng được yêu cầu và mục đích đó, chúng ta cần có những
giải pháp đồng bộ, những định hướng đúng để vừa khuyến khích
đầu tư trong nước vừa thu hút đầu tư nước ngoài và nâng cao vị
thế cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thương trường quốc tế.
Để làm tốt hơn nữa công tác ĐKKD và quản lý hoạt động
ĐKKD, cần chú trọng đến các mặt sau:
Quy định về đặt tên doanh nghiệp: Việc đặt tên của doanh nghiệp
trong hoạt động kinh doanh không còn bó hẹp trong phạm vi một
địa phương, một quốc gia nữa nên đòi hỏi phải có sự đăng ký trên
một hệ thống mạng liên thông trong cả nước. Điều này cũng góp
phần khẳng định thương hiệu và khuếch trương uy tín của doanh
nghiệp trong kinh doanh. Hệ thống thông tin này được cập nhật
thường xuyên, tiện truy cập cho các chủ thể đầu tư và là cơ sở
cho cơ quan nhà nước thực hiện chức năng quản lý. Chúng ta nên
ứng dụng công nghệ GIS (xây dựng cơ sở dữ liệu bản đồ) vào
hoạt động quản lý tên doanh nghiệp. Có được hệ thống này, các
doanh nghiệp sẽ rất thuận tiện trong việc mở rộng quy mô hoạt
động kinh doanh trên các địa bàn khác cũng như giúp các nhà đầu
tư có cái nhìn tổng quan về các hoạt động đầu tư kinh doanh,
đồng thời bảo vệ được thương hiệu, bảo hộ quyền sở hữu tên
doanh nghiệp của các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động
kinh doanh. Thông qua hệ thống quản lý GIS và hệ thống quản lý
ĐKKD nối mạng giữa các tỉnh thành trong phạm vi cả nước thì
việc đặt trùng tên sẽ được khắc phục.
Quy định về mã ngành nghề kinh doanh và mã số thuế: Để quản
lý hiệu quả hoạt động kinh doanh và quản lý sau kinh doanh
thuận tiện, đồng thời để cung cấp cơ sở dữ liệu cho các cơ quan
và công khai thông tin, các cơ quan, các bộ ngành nên phối hợp
thống nhất một mã số ĐKKD với mã ngành nghề và mã số thuế,
tạo nên sự thống nhất đồng bộ. Đồng thời, phải có mã số cho mỗi
doanh nghiệp (BC:Business Code) trong hoạt động kinh doanh.
Cần thiết phải nghiên cứu và thực hiện việc áp dụng một mã số
doanh nghiệp duy nhất cho mỗi doanh nghiệp. Mã số này sẽ được
chấp nhận và sử dụng tại tất cả các cơ quan quản lý nhà nước về
doanh nghiệp. Tiếp theo đó, các cơ quan ĐKKD, cơ quan thuế và
công an sẽ cùng thống nhất, đồng bộ hoá thủ tục ĐKKD, làm thủ
tục cho doanh nghiệp* theo cơ chế “một cửa liên thông” trong tất
cả các khâu. Song song với việc cải cách hành chính, cơ quan
quản lý sẽ cho xây dựng một cơ sở dữ liệu toàn quốc về ĐKKD
để chia sẻ thông tin giữa các cơ quan kinh doanh và cung cấp
thông tin cho doanh nghiệp. Việc chuẩn hóa các quy trình ĐKKD
sẽ tạo ra tiền đề cho giai đoạn tin học hoá và tự động hoá trong
ĐKKD.
Quy định về công khai hóa sự ra đời của doanh nghiệp: Hiện nay
Luật Doanh nghiệp cũng như các văn bản hướng dẫn chưa có quy
định cụ thể cho việc quản lý hoạt động đăng báo công khai của
các doanh nghiệp và kiểm tra giám sát hoạt động này của các
doanh nghiệp, trong khi điều này đảm bảo sự tồn tại hợp pháp
của các doanh nghiệp cũng như bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư.
Với sự ứng dụng công nghệ GIS, việc quản lý sẽ dễ dàng hơn,
giúp các nhà đầu tư nắm được các doanh nghiệp nào mới đi vào
hoạt động và cũng thông báo các thông tin cần thiết cho cơ quan
quản lý về sự ra đời của các doanh nghiệp trên thực tế.
Quy định về quản lý sau đăng ký kinh doanh: cần có hệ thống
thông tin cập nhật kịp thời về thay đổi vốn điều lệ, người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp, trụ sở kinh doanh, chi nhánh,
văn phòng đại diện. Pháp luật đã có quy định cụ thể về các nội
dung này, nhưng thực tế thì chưa có biện pháp hữu hiệu để thực
hiện. Các thông tin có được hiện chỉ đang dựa vào việc kiểm tra,
thanh tra trực tiếp của các cơ quan có thẩm quyền và báo cáo tình
hình kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, cơ quan quản lý nhà
nước chưa kịp thời đánh giá, nắm bắt tình hình để hỗ trợ cho các
doanh nghiệp cũng như triển khai các chính sách và dự án đầu tư.
Mặt khác, công tác quản lý doanh nghiệp sau ĐKKD thời gian
qua hầu như chưa được quan tâm, còn thả nổi, để các doanh
nghiệp tự bươn trải chứ chưa có sự phối kết hợp cũng như áp
dụng các biện pháp kích cầu cho nhà đầu tư trong qúa trình kinh
doanh.
Công tác quản lý và tổ chức triển khai thực hiện: Cần điều chỉnh,
hoàn thiện quy chế một cửa về ĐKKD và triển khai đồng bộ ở
các cơ quan quản lý, tạo điều kiện thuận lợi cho cá chủ đầu tư
trong việc đăng ký kinh doanh và nắm bắt các cơ hội kinh doanh.
Xây dựng quy chế liên thông trong cấp giấy chứng nhận đầu tư
bao gồm từ khâu xin chủ trương, xác định địa điểm đầu tư, cấp
chứng chỉ quy hoạch, cấp chứng nhận đầu tư, cho thuê đất…
Khuyến khích thành lập mới doanh nghiệp, tăng hiệu quả hoạt
động của các doanh nghiệp mới thành lập bằng các biện pháp ưu
đãi, hỗ trợ, khuyến khích đầu tư công khai và đa dạng hóa các dự
án đầu tư cũng như điều kiện để tiếp cập các thông tin đầu tư của
các chủ đầu tư trên phạm vi địa bàn; tiếp tục triển khai định kỳ và
thường xuyên hỗ trợ cho các doanh nghiệp về môi trường đầu tư,
chính sách nhà nước và bồi dưỡng kiến thức pháp lý về ĐKKD,
về tài chính kế toán, pháp luật thuế. Xúc tiến xây dựng Trung tâm
thông tin doanh nghiệp và quảng bá du lịch thương mại phù hợp
với tiềm năng kinh tế trên địa bàn. Tăng cường sự phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước với nhau và sự liên hệ thường xuyên giữa
cơ quan nhà nước với các doanh nghiệp về hỗ trợ chính sách, hỗ
trợ vốn, phổ biến chính sách, cung cấp thông tin…
Nâng cao năng lực cán bộ quản lý: Nâng cao năng lực của cơ
quan thực thi ĐKKD để tiếp cận và triển khai các chính sách,
pháp luật và ứng dụng tiến bộ khoa học trong công tác quản lý
kinh doanh. Thường xuyên có chương trình tập huấn để công
chức tiếp cận các phần mềm quản lý doanh nghiệp hiệu quả.*
Tiếp tục tạo điều kiện cho các hiệp hội ngành nghề hoạt động,
thường xuyên tổ chức gặp gỡ doanh nghiệp để các doanh nghiệp
có thể nắm bắt, trao đổi thông tin trong hoạt động kinh doanh,
xác định được vị thế kinh doanh của mình, đồng thời thông qua
hiệp hội, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo vệ quyền lợi
của doanh nghiệp mình khi có hành vi vi phạm hoặc hành vi cạnh
tranh bất hợp pháp.
Về phía nhà đầu tư và doanh nghiệp: Bản thân các nhà đầu tư
phải tích cực trong việc phối hợp, cộng tác với các cơ quan quản
lý trong việc cung cấp thông tin của doanh nghiệp cũng như
những biến động và thay đổi trong quá trình hoạt động kinh
doanh. Bên cạnh đó, để các nhà đầu tư và các doanh nghiệp được
tiếp cận các thông tin và các chính sách ưu đãi đầu tư từ các cơ
quan quản lý nhà nước. Những thông tin có lợi cho hoạt động
kinh doanh phải được cập nhật cho các doanh nghiệp thông qua
trang tin của hiệp hội doanh nghiệp hoặc bằng các hình thức
tuyên truyền, hội thảo, gặp gỡ trực tiếp và đối thoại với các doanh
nghiệp. Khi có chính sách, kế hoạch, dự án mới và có những
thông tin pháp luật mới, phải cập nhật, mã hóa trên bản đồ thông
tin dữ liệu về doanh nghiệp.
(Bài đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 156-thang-10-
2009 ngày 20/10/2009) ThS Lê Thị Thảo - Khoa Luật, Đại học
khoa học Huế