Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh trên địa bàn thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 140 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




PHẠM THỊ THU HƯỜNG






CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC ĐĂNG KÝ KINH DOANH
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI











LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC












HÀ NỘI – NĂM 2006

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




PHẠM THỊ THU HƯỜNG






CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC ĐĂNG KÝ KINH DOANH
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI


CHUYÊN NGÀNH:

Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
MÃ SỐ:
603801



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thanh Bình







HÀ NỘI – NĂM 2006

3
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA 1
LỜI CAM ĐOAN 2
MỤC LỤC 3
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 5
DANH MỤC CÁC BẢNG 6
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ 6

MỞ ĐẦU 7
Chƣơng 1 11
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH VÀ CẢI CÁCH THỦ
TỤC HÀNH CHÍNH 11
1.1. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH VÀ CẢI CÁCH
THỦ TỤC HÀNH CHÍNH 11
1.1.1. Cơ sở lý luận 11
1.1.2. Thủ tục hành chính về ĐKKD của một số nƣớc trên Thế giới 30
1.2. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
Ở VIỆT NAM 38
1.2.1. Chƣơng trình tổng thể cải cách Hành chính của Chính phủ 38
1.2.2. Chƣơng trình cải cách hành chính của Thành phố Hà Nội 42
Chƣơng 2 46
THỰC TRẠNG CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG VIỆC
ĐĂNG KÝ KINH DOANH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 46
2.1. VÀI NÉT VỀ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH VÀ CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH
CHÍNH TRONG LĨNH VỰC ĐĂNG KÝ KINH DOANH Ở NƢỚC TA HIỆN NAY 46
2.1.1. Sự phát triển của các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính
trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh 46
2.1.2. Thực tiễn thực hiện thủ tục hành chính trong lĩnh vực đăng ký
kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 76
2.1.3. Thực tiễn thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực
đăng ký kinh doanh thời gian qua 80
2.1.4. Kết quả cải cách thủ tục hành chính về ĐKKD trong thời gian
qua 86
2.2. THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CCHC VỀ THỦ TỤC ĐĂNG KÝ KINH DOANH
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 89
2.2.1. Thực trạng việc cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đăng
ký kinh doanh trên địa bàn thành phố Hà Nội 89
2.2.2. Một số tồn tại trong quá trình cải cách thủ tục hành chính về đăng

ký kinh doanh ở Hà Nội thời gian qua 97

4
2.3. NHỮNG THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ CỦA THỦ TỤC ĐĂNG KÝ KINH
DOANH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN LUẬT DOANH NGHIỆP 1999 99
2.3.1. Những thành công 99
2.3.2. Những hạn chế 100
Chƣơng 3 111
NHỮNG GIẢI PHÁP CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH 111
TRONG LĨNH VỰC ĐKKD THỜI GIAN TỚI 111
3.1. MỤC TIÊU CỦA CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH 111
3.2. YÊU CẦU CỦA CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH 111
3.2.1. Bảo đảm nguyên tắc thực hiện thủ tục hành chính 111
3.2.2. Bảo đảm tính thống nhất của hệ thống thủ tục hành chính 112
3.2.3. Bảo đảm tính hợp lý của thủ tục hành chính 113
3.2.4. Bảo đảm tính khoa học của quy trình thực hiện các thủ tục hành
chính đã ban hành 113
3.2.5. Bảo đảm tính rõ ràng và công khai của các thủ tục hành chính 115
3.2.6. Bảo đảm dễ hiểu, dễ tiếp cận của thủ tục hành chính 116
3.2.7. Bảo đảm có tính khả thi của thủ tục hành chính 117
3.2.8. Bảo đảm tính ổn định cần thiết của quy trình thủ tục hành chính117
3.2.9. Bảo đảm về năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức 118
3.3. GIẢI PHÁP CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC ĐKKD
THỜI GIAN TỚI 119
3.3.1. Thay đổi, bổ sung các quy định, chính sách hiện hành 121
3.3.2 Nâng cao nhận thức, năng lực quản lý và trách nhiệm của bộ máy
chính quyền các cấp 130
3.3.3 Đào tạo, nâng cao trình độ, nhận thức về luật pháp, kỹ năng của
ngƣời quản lý doanh nghiệp 132
3.3.4. Các giải pháp khác 133

KẾT LUẬN 135
TÀI LIỆU THAM KHẢO 136
PHỤ LỤC 141


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CCHC
Cải cách hành chính
Đảng CSVN
Đảng Cộng sản Việt nam
DNTN
Doanh nghiệp tƣ nhân
DNNN
Doanh nghiệp nhà nƣớc
ĐKKD
Đăng ký kinh doanh
FDI
Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
GCN ĐKKD
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
GDP
Tổng sản phẩm quốc dân
HĐBT
Hội đồng Bộ trƣởng
KH&ĐT
Kế hoạch và Đầu tƣ
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
Thuế GTGT

Thuế giá trị gia tăng
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
UBND
Uỷ ban nhân dân
VNCI
Dự án Sáng kiến năng lực cạnh tranh
WTO
Tổ chức thƣơng mại Thế giới










6
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Tổng vốn đầu tƣ xã hội
Bảng 2.2: Cơ cấu vốn đầu tƣ xã hội
Bảng 2.3: Tổng sản phẩm nội địa
Bảng 2.4: Cơ cấu tổng sản phẩm nội địa
Bảng 2.5: Mức thuế trong ngân sách nhà nƣớc


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ


Hình 2.1: Tóm lƣợc sự phát triển các quy định của pháp luật về thủ tục hành
chính trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh
Hình 2.2: Thời gian ĐKKD
Hình 2.3: Đánh giá về thủ tục
Hình 2.4: So sánh số doanh nghịêp đăng ký 1991-1999 so với thời kỳ 2000-2005
Hình 2.5: So sánh số vốn đăng ký 1991-1999 so với thời kỳ 2000-2005
Hình 2.6: So sánh tốc độ doanh nghiệp đăng ký và vốn
Hình 2.7: So sánh tỷ lệ doanh nghiệp đăng ký trên địa bàn Hà Nội
Hình 2.8: So sánh tỷ lệ vốn đăng ký của doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội



7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới 20 năm qua, Nhà nƣớc ta đã không ngừng có
những chính sách đổi mới, cải cách nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật phát
triển kinh tế. Trong đó cải cách các quy định về thủ tục hành chính trong lĩnh
vực đăng ký kinh doanh là một trong những cải cách quan trọng góp phần cải
thiện môi trƣờng đầu tƣ của doanh nghiệp.
Đăng ký kinh doanh là cơ sở pháp lý đầu tiên ghi nhận sự ra đời của
doanh nghiệp trên thực tế. Do vậy nó có ý nghĩa rất quan trọng, kể từ thời
điểm đƣợc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp đƣợc
pháp luật bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp đồng thời phải thực hiện
những nghĩa vụ đối với Nhà nƣớc. Thông qua việc cấp giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh cho doanh nghiệp, cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền nắm
đƣợc số lƣợng, loại hình doanh nghiệp và các ngành nghề doanh nghiệp kinh
doanh từ đó thực hiện chức năng quản lý Nhà nƣớc đối với nền kinh tế, đối
với doanh nghiệp…

Trong đăng ký kinh doanh, thay vì phải xuất trình nhiều loại giấy tờ, qua
nhiều cơ quan nhƣ trƣớc đây, nay doanh nghiệp chỉ phải nộp một bộ hồ sơ tại
cơ quan đăng ký kinh doanh, và đƣợc cấp Giấy chứng nhận Đăng ký kinh
doanh trong vòng 10 ngày, kể từ ngày hồ sơ hợp lệ. Hiện tại thủ tục Đăng ký
kinh doanh đƣợc cộng đồng doanh nghiệp đánh giá là một trong những thủ
tục hành chính thuận lợi nhất đối với doanh nghiệp trong quá trình tham gia
thị trƣờng.
Bên cạnh những quy định ƣu việt về thủ tục hành chính trong lĩnh vực
đăng ký kinh doanh nhƣ: hồ sơ đơn giản và nộp tại một cơ quan, ngoài các
thủ tục quy định, cơ quan đăng ký kinh doanh không đƣợc yêu cầu ngƣời
dân, doanh nghiệp nộp bất kỳ một văn bản nào khác, thời gian đƣợc rút ngắn.
Tuy nhiên, hiện tại các quy định về thủ tục hành chính trong lĩnh vực đăng ký

8
kinh doanh cũng còn một số hạn chế nhất định chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu
thực tiễn nhƣ:
- Chƣa phù hợp với thông lệ quốc tế và chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế về: nội dung, thủ tục, thời gian, tổ chức bộ máy cơ quan đăng
ký kinh doanh, cơ quan quản lý doanh nghiệp.
- Quy trình giải quyết các loại hồ sơ đăng ký kinh doanh còn phức tạp (chƣa
giảm sự đi lại của ngƣời dân, doanh nghiệp trong quá trình giao dịch giải
quyết các thủ tục đăng ký kinh doanh).
- Quy trình cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh chƣa gắn với công tác quản
lý doanh nghiệp (nhƣ chƣa có sự phối hợp giữa cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ
quan thuế, công an và các cơ quan quản lý chuyên ngành); Chƣa có sự phân cấp
mạnh mẽ trong công tác quản lý doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh
nghiệp cho các cấp chính quyền địa phƣơng (quận, huyện và xã, phƣờng).
- Thiếu phƣơng thức giao tiếp trực tuyến qua hệ thống internet (hoặc thiết bị,
công cụ hiện đại) để ngƣời dân, các doanh nghiệp đƣợc hƣớng dẫn, giải đáp
một cách cụ thể, chi tiết các thủ tục hành chính liên quan đến hồ sơ đăng ký

kinh doanh cũng nhƣ chƣa thiết lập đƣợc một cơ chế thông tin về doanh
nghiệp thống nhất, công khai, minh bạch.
Trƣớc yêu cầu của công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển đất
nƣớc, pháp luật về kinh tế nói chung và về doanh nghiệp nói riêng cần đƣợc
hoàn thiện hơn nữa nhằm phù hợp với thông lệ quốc tế, đảm bảo thực hiện
một cách có hiệu quả các cam kết quốc tế mà Nhà nƣớc Việt Nam đã, đang,
và sẽ tham gia ký kết, thực hiện. Vì vậy, Nhà nƣớc cần tiếp tục hoàn thiện hệ
thống pháp luật về doanh nghiệp, trong đó có pháp luật về thủ tục gia nhập
thị trƣờng của doanh nghiệp. Do đó việc nghiên cứu đề tài: “Cải cách thủ tục
hành chính trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh trên địa bàn Thành phố Hà
Nội” làm luận văn thạc sỹ có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.

9
2. Tình hình nghiên cứu
Trong chƣơng trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010
của Chính phủ, đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về công tác cải
cách hành chính nói chung và trong lĩnh vực cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh cho các doanh nghiệp nói riêng; Song hiện nay, trƣớc những thay
đổi mạnh mẽ trong chính sách pháp luật về quản lý kinh tế, nhằm cải thiện
hơn nữa môi trƣờng đầu tƣ ở Việt Nam, trong đó thủ tục hành chính nói
chung và thủ tục đăng ký kinh ký kinh doanh nói riêng có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong việc tham gia các tổ chức thƣơng mại quốc tế trên Thế giới
và khu vực hƣớng tới thực hiện Luật Doanh nghiệp, Luật đầu tƣ… Thủ đô
Hà Nội với vị trí là trung tâm văn hoá, kinh tế, chính trị của cả nƣớc, có
những đặc thù riêng cũng cần có những nghiên cứu sâu hơn để việc triển khai
cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh đạt hiệu quả
cao nhất, tạo những điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tƣ và doanh nghiệp.
Do vậy Luận văn là những cập nhật, phát hiện những điểm mới, những quy
định mới để thấy rõ bản chất của công tác này trong thời điểm hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

Trên cơ sở nghiên cứu, tổng hợp một số quan điểm tƣ tƣởng, lý luận và
thực tiễn để có cơ sở đánh giá, so sánh giữa thủ tục đăng ký kinh doanh ở
Việt Nam với một số nƣớc trong khu vực và trên Thế giới. Qua đó nhằm phát
hiện những vƣớng mắc, tồn tại, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện và
thực hiện tốt việc cải cách thủ tục hành chính trong công tác đăng ký kinh
doanh cho các Doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp trên địa bàn Thành
phố Hà Nội nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung vào nghiên cứu về hoạt động cải cách thủ tục hành
chính trong công tác đăng ký kinh doanh trên địa bàn Thành phố Hà Nội.

10
5. Cơ sở khoa học của đề tài
- Cơ sở lý luận: Luận văn đƣợc nghiên cứu dựa trên phƣơng pháp luận của chủ
nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Macxit; tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh; quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về xây dựng Nhà nƣớc pháp
quyền XHCN và chính sách hội nhập kinh tế quốc tế.
- Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn công tác cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
cho các doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng biện pháp nghiên cứu: Lịch sử, thống kê, tổng hợp,
phân tích, so sánh, đối chiếu
7. Điểm mới của đề tài
- Nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật và thực trạng về thủ tục đăng
ký kinh doanh một cách có hệ thống trên cơ sở lý luận và thực tiễn để thấy rõ
các trình tự, thủ tục pháp luật quy định: những ƣu điểm và hạn chế của trình
tự, thủ tục đó;
- Nêu ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình, thủ tục cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố;
- Kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp lý về đăng ký kinh doanh theo quy

định của Luật Doanh nghiệp 2005.
8. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng 8 tiết.


11
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH VÀ CẢI CÁCH
THỦ TỤC HÀNH CHÍNH

1.1. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH VÀ CẢI CÁCH
THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
1.1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1.1. Một số khái niệm chung
a. Thủ tục hành chính
Trong quá trình quản lý nói chung, để giải quyết bất cứ công việc nào
đều cần có những thủ tục phù hợp. Xét trên những ý nghĩa chung nhất, thủ
tục đƣợc hiểu là phƣơng thức hay cách thức giải quyết công việc theo một
trình tự nhất định, một thể lệ thống nhất. Ví dụ nhƣ: thủ tục bàn giao công
việc, thủ tục thanh toán nợ, thủ tục xuất nhập khẩu…. Ngƣời ta cũng quan
niệm rằng thủ tục là một loại hoạt động có tính riêng rẽ, thƣờng gồm một loạt
nhiệm vụ liên quan chặt chẽ với nhau và nhằm đạt đƣợc một kết quả duy nhất
mong muốn hay một dịch vụ nào đó có thể xác định đƣợc kết quả cụ thể.
Trong hoạt động của các cơ quan Nhà nƣớc, thủ tục trƣớc hết đƣợc hiểu
là những quy tắc, chế độ, phép tắc hay quy định chung phải tuân theo khi làm
việc công. Theo quan niệm này ở nhiều nƣớc đã đề ra luật thủ tục cho hoạt
động của các cơ quan nhà nƣớc tƣơng đối cụ thể nhƣ một số nƣớc Đông Âu
(Ba Lan….) Những thủ tục nhƣ vậy không đơn thuần chỉ là giấy tờ hành
chính mà đó là những quy tắc hoạt động của cơ quan nhà nƣớc đƣợc quy định
một cách chặt chẽ.

Thực tế khi giải quyết một công việc nhất định, các cơ quan nhà nƣớc
cần phải thực hiện theo những nguyên tắc pháp lý đƣợc pháp luật quy định
một cách cụ thể. Đó là những quy định về trình tự, cách thức sử dụng thẩm
quyền đối với từng cơ quan khi giải quyết công việc mà luật pháp cho phép.

12
Khoa học pháp lý gọi đó là những quy phạm thủ tục. Những quy phạm về thủ
tục luôn luôn gắn liền với về nội dung của Luật hành chính và đƣợc xây dựng
phù hợp với đối tƣợng điều chỉnh của các quy định của pháp luật. Trong lĩnh
vực quản lý hành chính, các quy định về cách thức giải quyết các công việc
hành chính theo luật định chính là quy phạm về thủ tục hành chính, khi áp
dụng vào đời sống để giải quyết các công việc của công dân và các tổ chức
đó là các thủ tục hành chính. Nhƣ vậy, thủ tục hành chính là trình tự thực
hiện thẩm quyền trong hoạt động hành chính nhà nƣớc, là cách thức mà nhà
nƣớc áp dụng để làm cho các quy định của luật pháp có đƣợc sự bảo đảm
thống nhất trong quá trình thực thi và áp dụng vào đời sống [40].
Đây là một bộ phận cấu thành thể chế của nền hành chính. Nó cho biết
các quy phạm nội dung của luật pháp đƣợc thực hiện bằng cách nào, ví dụ
nhƣ bằng cách nào để có thể đăng ký đƣợc hộ khẩu, để quản lý hộ tịch? Cần
những giấy tờ gì để có giấy phép hành nghề hợp pháp? Bộ phận này của luật
pháp hành chính còn có tên gọi là quy phạm hình thức. Thiếu bộ phận này,
luật pháp sẽ không có đủ điều kiện để đi vào đời sống. Vì vậy, trong nhiều
văn bản quy phạm pháp luật, sau các quy định về nội dung là những quy định
có tính thủ tục để thực hiện nội dung đó.
Toàn bộ các quy tắc pháp lý quy định về trình tự, trật tự thực hiện thẩm
quyền của cơ quan nhà nƣớc trong việc giải quyết nhiệm vụ của nhà nƣớc và
công việc liên quan đến công dân tạo thành một hệ thống quy phạm về thủ
tục. Chúng là những nguyên tắc bắt buộc các cơ quan nhà nƣớc cũng nhƣ các
công chức nhà nƣớc phải tuân theo. Những nguyên tắc này thể hiện trên thực
tế mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nƣớc trong quá trình giải quyết công

việc cũng nhƣ quan hệ giữa nhà nƣớc với cộng đồng xã hội trong quá trình
quản lý nhà nƣớc. Nhƣ vậy, trong nội bộ của bộ máy nhà nƣớc, thủ tục hành

13
chính là cách thức để các cơ quan nhà nƣớc tổ chức công việc của mình theo
chức năng, nhiệm vụ đƣợc giao, là thủ tục để vận hành bộ máy nhà nƣớc.
Mặt khác, thông qua các nguyên tắc pháp lý và các thủ tục điều hành,
ngƣời ta có thể thấy đƣợc nghĩa vụ của các cơ quan nhà nƣớc trong quá trình
giải quyết công việc thuộc chức năng và thẩm quyền của mình. Nó nhằm đảm
bảo cho công việc đạt đƣợc mục đích đã định, phù hợp với thẩm quyền chức
năng do luật quy định cho các cơ quan trong hoạt động quản lý nhà nƣớc. Bởi
vậy khi nói về thủ tục hành chính, ngƣời ta cũng nhấn mạnh rằng đó chính là
các quan hệ hành chính trong việc thực hiện thẩm quyền của các cơ quan nhà
nƣớc (hoặc của các tổ chức, cá nhân đƣợc uỷ quyền) để thực thi công vụ,
trong việc giải quyết các kiến nghị, các yêu cầu của công dân theo luật định.
Theo quan niệm này, thủ tục hành chính phản ánh mối quan hệ trong quá
trình làm việc giữa các cơ quan nhà nƣớc với nhau, và với các tổ chức khác
trong hệ thống chính trị, giữa nhà nƣớc và cộng đồng khi nhà nƣớc giải quyết
một công việc nào đó liên quan đến lợi ích của công dân và của chính nhà
nƣớc, đến nghĩa vụ của 2 bên. Nó vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của 2 bên và
đòi hỏi có sự tuân thủ nghiêm túc khi giải quyết công việc của công dân cũng
nhƣ của tổ chức.
Từ những điều đã trình bày ở trên, có thể đƣa ra một định nghĩa tổng
quan về thủ tục hành chính nhƣ sau:
Thủ tục hành chính là tổng thể các quy phạm bắt buộc phải tuân
theo khi tiến hành thành lập, thay đổi, giải thể, xác định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn phạm vi hoạt động của các tổ chức khi ban
hành các văn bản hành chính, khi thực hiện các hành vi hành chính;
khi các công dân các tổ chức quần chúng xã hội tiến hành những
công việc đòi hỏi có sự chứng kiến, chứng nhận, giúp đỡ, can thiệp

của các cơ quan và cán bộ, nhân viên nhà nước [41].

14
Hoặc có quan niệm khác cho rằng:
Thủ tục hành chính là một loại quy phạm pháp luật quy định trình tự
về thời gian, về không gian khi thực hiện một thẩm quyền nhất định
của bộ máy nhà nước, là cách thức giải quyết công việc của các cơ
quan hành chính nhà nước trong mối quan hệ với các cơ quan, tổ
chức và cá nhân công dân [40].
Thủ tục hành chính thuận tiện, đơn giản là một trong những điều kiện
giúp nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nƣớc. Ngƣợc lại
thủ tục hành chính rƣờm rà, nặng nề không những gây ra tổn phí về sức
ngƣời, sức của, ngân sách nhà nƣớc, tài sản xã hội, kìm hãm sự năng động
trong hoạt động của mọi mặt đời sống mà còn là điều kiện thuận lợi cho nạn
tham ô, tham nhũng phát sinh, phát triển.
Hoàn thiện, cải tiến thủ tục hành chính nhằm làm cho các thủ tục hành
chính trở nên đơn giản, dễ làm, thuận tiện cho dân là một trong những
phƣơng hƣớng cải cách nền hành chính quốc gia. Những thủ tục hành chính
hữu hiệu là rất cần thiết vì đó đảm bảo cho tiến trình điều hành và giải quyết
các công việc không bị phá rối hoặc cản trở. Chúng có ý nghĩa to lớn trong
việc thực hiện các lợi ích xã hội khác nhau, bảo đảm sự kết hợp hài hoà và
quyền ƣu tiên của các lợi ích của Nhà nƣớc và công dân trong khuôn khổ
pháp luật quy định.
Cần nhấn mạnh rằng, thủ tục hành chính trƣớc hết là do các cơ quan nhà
nƣớc đề ra công bố để thực thi Hiến pháp và pháp luật nhằm thực hiện chức
năng quản lý của nền hành chính nhà nƣớc và hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Đồng thời các cơ quan hành chính nhà nƣớc phải có trách nhiệm thực thi các
thủ tục đó. Đó là phƣơng tiện đƣợc sử dụng để đƣa Luật vật chất vào đời
sống xã hội. Theo cách nói của Các Mác, thủ tục là hình thức sống của đạo
luật, và nhƣ vậy, cần phải có pháp luật thủ tục để thực hiện pháp luật vật chất.


15
Thủ tục hành chính do đó là công cụ để điều hành và nó cần có tính pháp lý
cao thể hiện trách nhiệm của chủ thể quản lý nhà nƣớc.
Đặc điểm chung của thủ tục hành chính
Từ thực tế việc xây dựng và thực hiện các thủ tục hành chính có thể nêu
lên một số đặc điểm chung của chúng nhằm phân biệt với các quy phạm thủ
tục trong hoạt động của bộ máy nhà nƣớc nhƣ sau:
Thứ nhất, đây là tổng thể các hành động diễn ra theo trình tự thời gian,
thủ tục hành chính đƣợc thực hiện bởi nhiều cơ quan và công chức nhà nƣớc.
Ngoài cơ quan hành chính và công chức hành chính nhà nƣớc là những chủ
thể chủ yếu tiến hành thủ tục hành chính, theo quy định của pháp luật hiện
hành, các cơ quan lập pháp, tƣ pháp cũng có loại hoạt động thuộc hệ thống
nền hành chính nhà nƣớc cho nên các cơ quan đó cũng thực hiện một số thủ
tục hành chính nhất định. Tuy nhiên mỗi loại thủ tục đều có tính đặc thù riêng
mà việc xây dựng và thực hiện chúng lệ thuộc một phần khá lớn vào nhận
thức của các đối tƣợng có liên quan.
Thứ hai, thủ tục hành chính là thủ tục giải quyết công việc của nhà nƣớc
và công việc liên quan đến quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý của công dân.
Do vậy, đối tƣợng công việc cần thực hiện các thủ tục hành chính để giải
quyết thƣờng không giống nhau mà rất phức tạp. Có những thủ tục yêu cầu
phải đơn giản, nhƣng cũng có những thủ tục cần tỉ mỉ. Việc xác định tính chất
của một loại thủ tục để thực hiện một công việc nào đó phải dựa vào chính
thực tế yêu cầu của công việc đặt ra.
Thứ ba, quản lý hành chính nhà nƣớc chủ yếu là hoạt động định hƣớng,
cho phép, nhiều trƣờng hợp phải ra mệnh lệnh có tính chất đơn phƣơng và đòi
hỏi thi hành kịp thời nhằm giải quyết nhanh chóng, có hiệu quả mọi công việc
diễn ra hàng ngày trong đời sống xã hội. Chính điều đó dẫn đến việc quy định
thủ tục hành chính phải kết hợp những khuôn mẫu ổn định tƣơng đối và chặt chẽ


16
với các biện pháp thích ứng cho từng loại công việc và từng đối tƣợng để đảm
bảo công việc đƣợc giải quyết kịp thời theo từng trƣờng hợp cụ thể.
Thứ tư, nền hành chính nhà nƣớc hiện nay đang chuyển từ hành chính
cai quản (hành chính đơn thuần) sang hành chính phục vụ, làm dịch vụ cho
xã hội (hành chính công); từ quản lý tập trung sang quản lý theo cơ chế thị
trƣờng có sự điều tiết của nhà nƣớc, làm cho hoạt động quản lý hành chính
trở nên hết sức đa dạng về nội dung và phong phú, uyển chuyển về hình thức,
biện pháp. Đồng thời, đối tƣợng quản lý của nó là xã hội dân sự cũng muôn
hình, muôn vẻ. Nó không chỉ giới hạn trong phạm vi nội bộ công dân của
nƣớc ta mà còn liên quan đến các yếu tố nƣớc ngoài. Do đặc điểm này mà
quan hệ thủ tục hành chính hiện nay rất đa dạng, nhiều hình thức, nhiều vẻ,
nhiều cấp độ.
Thứ năm, các thủ tục hành chính do nhà nƣớc thực hiện chủ yếu tại văn
phòng công sở nhà nƣớc và phƣơng tiện truyền đạt quyết định cũng nhƣ các
thông tin quản lý phần lớn là văn bản (công văn, giấy tờ). Vì thế, nó rất gắn
chặt với công tác văn thƣ, với việc tổ chức ban hành, sử dụng và quản lý văn
bản trong các cơ quan nhà nƣớc. Thủ tục hành chính đƣợc xác định qua nhiều
giấy tờ khác nhau và đƣợc kiểm tra qua hoạt động của các văn phòng, các tổ
chức, các cá nhân có quyền thực thi công vụ.
Thứ sáu, trong bối cảnh của quá trình hội nhập và mở cửa nhƣ hiện nay,
thủ tục hành chính của các quốc gia trên thế giới cũng nhƣ của chúng ta đều
có ảnh hƣởng và tác động lẫn nhau, đặc biệt là trong việc cải thiện môi
trƣờng đầu tƣ trong nƣớc, thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài, xuất nhập khẩu, hoạt
động mậu dịch quốc tế…. Do vậy khi xem xét và vận dụng các thủ tục hành
chính trong thực tế đối với những hoạt động có yếu tố nƣớc ngoài chúng ta
không thể không quan tâm đến các thông lệ quốc tế. Mặc dù, thủ tục hành

17
chính của mỗi quốc gia không thể thoát ly khỏi tập quán truyền thống của

quốc gia đó.
Cuối cùng, cần nói rằng, so với các quy phạm nội dung của Luật hành
chính, thủ tục hành chính có tính năng động hơn và đòi hỏi phải thay đổi
nhanh hơn khi thực thế cuộc sống đã có những yêu cầu mới. Nếu nhận thức
đúng, phù hợp với thực tế khách quan thì thủ tục hành chính sẽ mang tính
tiến bộ, thiết thực phục vụ cho cuộc sống. Nhƣng nếu nhận thức không phù
hợp với yêu cầu khách quan thì sẽ xuất hiện những thủ tục hành chính lạc
hậu. Khi áp dụng vào quá trình điều hành của bộ máy nhà nƣớc, chúng sẽ gây
khó khăn cho bƣớc đi lên của đời sống xã hội. Hoặc cũng có những trƣờng
hợp nó đƣợc ban hành phù hợp với điều kiện khách quan, đòi hỏi của cuộc
sống nhƣng nó bị hạn chế bởi chính những ngƣời thực thi (với những nhận
thức không đúng, không tiên bộ…)
Ý nghĩa của thủ tục hành chính
Trƣớc hết, nhƣ thực tế cho thấy, nếu thiếu các thủ tục hành chính cần
thiết thì trong nhiều trƣờng hợp rất có thể một quyết định hành chính sẽ bị vô
hiệu hoá, hoặc bị hạn chế tác dụng. Ví dụ, nếu không đăng ký đúng thủ tục
thì công dân một nƣớc này sẽ không thể đƣợc phép đi đến một nƣớc khác.
Một doanh nghiệp có thể không đƣợc hoạt động nếu không làm đủ các thủ
tục đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký đầu tƣ theo quy định. Ý nghĩa đầu tiên
của thủ tục hành chính là ở chỗ nó đảm bảo cho các quy phạm vật chất quy
định trong các quyết định hành chính đƣợc thi hành thuận lợi. Thủ tục càng
có tính cơ bản thì ý nghĩa này càng lớn bởi vì các thủ tục cơ bản thƣờng tác
động đến giai đoạn cuối cùng của quyết định hành chính, đến hiệu quả của
việc thực hiện chúng.

18
Một ý nghĩa khác của thủ tục hành chính là nó đảm bảo cho việc thi
hành các quyết định thống nhất và có thể kiểm tra đƣợc tính hợp pháp, hợp lý
cũng nhƣ các hệ quả do việc thực hiện các quyết định hành chính tạo ra.
Ý nghĩa của thủ tục hành chính còn đƣợc thể hiện ở chỗ, khi đƣợc xây

dựng và vận dụng một cách hợp lý, các thủ tục hành chính sẽ tạo ra khả năng
sáng tạo trong việc thực hiện các quyết định quản lý đã đƣợc thông qua, đem
lại hiệu quả thiết thực cho quản lý nhà nƣớc. Thủ tục hành chính liên quan
đến quyền lợi của công dân, do vậy, khi đƣợc xây dựng hợp lý và vận dụng
tốt vào đời sống nó sẽ có ý nghĩa rất thiết thực, làm giảm sự phiền hà, củng
cố đƣợc quan hệ giữa nhà nƣớc và công dân. Công việc sẽ có thể đƣợc giải
quyết nhanh chóng, chính xác theo đúng yêu cầu của cơ quan nhà nƣớc, góp
phần chống đƣợc tệ nạn tham nhũng, sách nhiễu. Trong tình hình đó, vai trò
của thủ tục hành chính với tƣ cách là một bộ phận của thể chế hành chính
ngày càng có một vai trò hết sức to lớn, đặc biệt là từ khi chúng ta bắt đầu
thực hiện chủ trƣơng cải cách nền hành chính nhà nƣớc và bƣớc đầu cải cách
các thủ tục hành chính, ý nghĩa của thủ tục hành chính đã đƣợc đánh giá đúng
mức hơn.
Xét trong tổng thể chung của việc xây dựng nền hành chính nhà nƣớc, vì
thủ tục hành chính cũng là một bộ phận của pháp luật về hành chính nên nắm
vững và thực hiện tốt các quy định về thủ tục hành chính sẽ có ý nghĩa rất lớn
đối với quá trình củng cố bộ máy nhà nƣớc. Đặc biệt trong giai đoạn hiện
nay, khi đất nƣớc ta đang tiếp tục công cuộc cải cách nền hành chính nhà
nƣớc và xây dựng nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa thì thủ
tục hành chính lại càng có vai trò quan trọng. Thực tế Đảng, Nhà nƣớc đã và
đang đề ra nhiều biện pháp nhằm cải tiến thủ tục hành chính để chúng ta
không những không cản đƣờng mà còn góp phần tích cực làm cho kinh tế có
điều kiện hội nhập và phát triển nhanh hơn. Thông qua đó là cho tiến trình cải

19
cách hành chính ngày càng có những bƣớc đi phù hợp với tiến trình đổi mới
kinh tế và xã hội của đất nƣớc.
Khi nói đến ý nghĩa tổng quan của thủ tục hành chính cũng cần nhấn
mạnh đến vị trí của nó trong thể chế của một nền hành chính mà nó góp phần
tạo nên. Chúng ta đều biết rằng các thể chế điều hành đƣợc hình thành trong

quá trình quản lý Nhà nƣớc và chúng góp phần làm giảm bớt tình trạng bất
trắc trong hoạt động điều hành. Chúng giúp cho mọi ngƣời biết đƣợc cách
thức hành động phù hợp với Luật pháp và đƣợc luật pháp bảo vệ. Thể chế và
thủ tục hành chính đều liên quan đến tổ chức hành chính và chúng đƣợc đặt
ra để cung cấp phƣơng thức hoạt động cho con ngƣời. Những tổ chức sau khi
đƣợc thành lập muốn hoạt động có hiệu quả phải có những thể chế thích ứng
và hữu hiệu. Chính theo nghĩa này mà thủ tục hành chính có ý nghĩa nhƣ một
công cụ điều hành cần thiết cho bất cứ tổ chức hành chính nào và ở bất kỳ
phạm vi quản lý nào.
Nhƣ thế ý nghĩa của thủ tục hành chính không thể tách rời khỏi hoạt
động của các tổ chức hành chính. Thể chế và thủ tục lạc hậu sẽ cản trở các
hoạt động của bộ máy quản lý nhà nƣớc. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng thể
chế điều hành cũng nhƣ thủ tục hành chính tự mình không thể phát huy tác
dụng nếu không có một bộ máy tổ chức đƣợc xây dựng khoa học và một chế
độ công vụ kiểu mẫu. Đây là một quan hệ có tính biện chứng, tác động lẫn
nhau một cách thƣờng xuyên. Thực tế thời gian qua đã chứng minh điều này
rất rõ ràng. Ở nhiều ngành, nhiều cấp, bộ máy quản lý tổ chức không khoa
học, chức năng nhiệm vụ không rõ ràng nhiều khi các thủ tục hành chính
đúng đắn đã không đƣợc thực hiện. Hệ quả của nó là nhiều chính sách đúng
đắn của Đảng và Nhà nƣớc đã chậm đƣợc thi hành, thậm chí nhiều chính sách
đã không đƣợc đi vào cuộc sống. Vì vậy đồng thời với nhiệm vụ cải cách thủ
tục hành chính, trong quá trình cải cách bộ máy nhà nƣớc, một nhiệm vụ

20
quan trọng vẫn phải thƣờng xuyên quan tâm là xác định một cách rành mạch
và có cơ sở chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nƣớc trong
quá trình điều hành công việc.
Tóm lại, từ những phân tích ở trên, có thể khẳng định rằng thủ tục hành
chính là chiếc cầu nối quan trọng giữa cơ quan nhà nƣớc với công dân, và với
các tổ chức khác. Chiếc cầu nối này có thể tạo ra khả năng làm bền chặt các

mối quan hệ của quá trình quản lý, làm cho nhà nƣớc ta thực sự là nhà nƣớc
của dân, do dân và vì dân. Chính vì vậy, thủ tục hành chính cần phải đƣợc
xây dựng một cách khoa học.
Thủ tục hành chính trên một phƣơng diện nhất định là sự biểu hiện trình
độ văn hoá của tổ chức. Đây là văn hoá giao tiếp trong bộ máy nhà nƣớc, văn
hoá điều hành. Nó cho thấy mức độ văn minh của một nền hành chính phát
triển. Chính vì lẽ đó, cải tiến thủ tục hành chính sẽ không chỉ đơn thuần liên
quan đến pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa của chúng ta mà còn liên quan
đến sự phát triển chung của đất nƣớc về các mặt chính trị, văn hoá, giáo dục
và đến sự mở rộng giao lƣu giữa nƣớc ta với các nƣớc trong khu vực và trên
thế giới.
b. Cải cách thủ tục hành chính
Cải cách là một thuật ngữ đƣợc hiểu là việc sửa đổi những cái cũ, không
còn hợp lý, thay bằng những cái mới hợp lý hơn. Vì vậy cải cách thủ tục hành
chính là sửa đổi những những thủ tục hành chính cũ, không còn phù hợp,
thay bằng những thủ tục mới hoặc xoá bỏ thủ tục cho hợp lý và đáp ứng yêu
cầu khách quan hơn. Theo ý nghĩa trên, để cải cách đƣợc thủ tục hành chính,
ít nhất chúng ta phải làm 2 việc:
Thứ nhất, nghiên cứu và phân tích xem những thủ tục hành chính đang
tồn tại ở từng lĩnh vực, những thủ tục nào không còn hợp lý, thậm chỉ đã trở
thành hủ tục, cần phải sửa đổi hoặc loại bỏ.

21
Thứ hai, nghiên cứu để tìm ra những thủ tục mới thay thế, hợp lý hơn nhằm
đáp ứng yêu cầu khách quan của giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.
Thủ tục hành chính là một trong những biện pháp hành chính trong quản
lý, là vấn đề xã hội. Do đó, hai việc nêu trên nếu không thể thực hiện và đánh
giá đƣợc nhƣ kết quả ở trong phòng thí nghiệm. Đó phải là kết quả của một
quá trình nghiên cứu với tinh thần khách quan, khoa học. Muốn có đƣợc kết
quả ấy, trƣớc hết và quan trọng nhất phải có đội ngũ cán bộ công tâm, vì sự

nghiệp chung của đất nƣớc và có kiến thức chuyên sâu.
Mặc dù đã qua 20 năm đổi mới, nhƣng dấu ấn của nền kinh tế tập trung,
quan liêu, bao cấp vẫn còn nặng nề trong hàng loạt thủ tục hành chính, ở các
ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế nƣớc ta. Từ đó, nghiên cứu, phân tích để
chỉ ra những thủ tục đã lạc hậu, trở thành rào cản cho sự phát triển của đất
nƣớc, là các nôi cho tham nhũng, lãng phí là rất cấp bách và với một khối
lƣợng công việc vô cùng lớn, khó có thể giải quyết ngay trong “một sớm, một
chiều”. Nghiêm trọng hơn để hoàn thành đƣợc nhiệm vụ cấp bách và nặng nề
nêu trên, chúng ta đã và đang thiếu vắng những cán bộ công tâm, vì sự
nghiệp chung của đất nƣớc. Không ngành nào, lĩnh vực nào tự giác sửa đổi,
hay xoá bỏ các thủ tục hành chính lạc hậu. Ngƣợc lại, ngƣời ta tìm mọi cách
vẽ thêm ra thủ tục để củng cố quyền lực của Ngành mình, Bộ mình. Ví dụ,
sau khi Luật Doanh nghiệp 1999 có hiệu lực, cuộc chiến đấu với “Giấy phép
con” trong kinh doanh liên tục nóng bỏ từ năm 2000 đến nay là một ví dụ
thực tiễn sinh động. Tình trạng đƣa vào dự thảo Luật, dự thảo Nghị định
những thủ tục vô lý, phiền hà hạn chế quyền kinh doanh của công dân cũng
đang diễn ra phổ biến.
Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh
Một trong những thủ tục hành chính do các cơ quan quản lý hành chính
nhà nƣớc thực hiện hiện nay đang đƣợc quan tâm xem xét, đánh giá, có tác

22
động mạnh đến việc cải thiện môi trƣờng kinh doanh ở Việt Nam đó là thủ
tục đăng ký kinh doanh. Đây là thủ tục đầu tiên trong quá trình gia nhập thị
trƣờng của bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào. Để xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, giải phóng lực lƣợng sản
xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trƣớc hết Nhà nƣớc cần khuyến khích
mọi chủ thể trong xã hội phát huy mọi tiềm năng của mình, mở rộng hoạt
động kinh doanh, không ngừng tìm tòi và sáng tạo để sản xuất ra những sản

phẩm hàng hoá, dịch vụ mới đáp ứng đƣợc nhu cầu ngày càng cao của thị
trƣờng. Trong Hiến pháp và luật của hầu hết các quốc gia, quyền tự do kinh
doanh với tƣ cách là một trong những quyền cơ bản của công dân đều đƣợc
đề cao và tôn trọng. Điều 57 Hiến pháp nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam cũng đã quy định “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định
của pháp luật”. Tự do kinh doanh cũng nhƣ quyền tự do lựa chọn nghề
nghiệp và mƣu cầu hạnh phúc là những quyền công dân rất cơ bản đƣợc đảm
bảo trong nền kinh tế thị trƣờng phát triển.
Tự do kinh doanh đƣợc hiểu là bất kỳ một công dân, tổ chức nào khi đã
có đủ điều kiện do pháp luật quy định, nếu có nhu cầu đều có quyền tiến hành
hoạt động kinh doanh. Không một cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào có quyền
ngăn cản hoặc hạn chế quyền tự do kinh doanh của họ. Quyền tự do kinh
doanh trƣớc hết là quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh, quy mô, địa điểm
kinh doanh, quyền tuyển chọn và thuê mƣớn lao động, quyền tổ chức và quản
lý hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, để đảm bảo tính hợp pháp cho hoạt động
kinh doanh của mình, tránh sự can thiệp trái pháp luật của các tổ chức, cá
nhân khác cũng nhƣ đảm bảo cho lợi ích của Nhà nƣớc, lợi ích công cộng,
quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời khác không bị xâm phạm, trƣớc khi
chính thức tham gia các quan hệ dân sự, kinh tế, thƣơng mại và các quan hệ

23
pháp luật khác trên thƣơng trƣờng, những chủ thể kinh doanh này cần phải
đăng ký hoạt động kinh doanh của mình với cơ quan nhà nƣớc có thẩm
quyền. Do đó có thể khẳng định rằng, đăng ký kinh doanh cũng là một trong
những công cụ giúp cho việc thực hiện quyền tự do kinh doanh của công dân.
Đăng ký kinh doanh là việc Nhà nƣớc ghi nhận về mặt pháp lý sự ra đời của
một chủ thể kinh doanh. Kể từ thời điểm đƣợc cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh, chủ thể kinh doanh có đầy đủ năng lực pháp luật (hay tƣ cách
chủ thể) để tiến hành hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật. Nhà
nƣớc cung cấp những bảo đảm đầy đủ về mặt chính trị - pháp lý để chủ thể

kinh doanh có điều kiện thực hiện hoạt động kinh doanh của mình.
Đăng ký kinh doanh đƣợc coi là một thủ tục hành chính – tƣ pháp bắt
buộc, theo đó chủ thể kinh doanh đăng ký với cơ quan nhà nƣớc có thẩm
quyền và công khai hoá trƣớc giới thƣơng nhân về sự ra đời cũng nhƣ hoạt
động kinh doanh của mình. Cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền về đăng ký
kinh doanh có nghĩa vụ xem xét các điều kiện và cấp giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh cho chủ thể kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật.
Trong suốt quá trình tiến hành hoạt động kinh doanh, giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh đƣợc coi là một bằng chứng pháp lý ghi nhận tƣ cách chủ thể,
tính hợp pháp của hoạt động kinh doanh và khẳng định sự bảo hộ của Nhà
nƣớc đối với chủ thể kinh doanh.
Đặc điểm của đăng ký kinh doanh.
Hành vi đăng ký kinh doanh làm phát sinh mối quan hệ pháp lý giữa một
bên là chủ thể kinh doanh và bên kia là cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền
xung quanh việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh là một chứng thƣ pháp lý (hay một văn bản mang tính
pháp lý) do cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền cấp cho chủ thể kinh doanh

24
theo trình tự, thủ tục luật định để ghi nhận sự tồn tại về mặt pháp lý của chủ
thể đó và hoạt động kinh doanh của họ.
Tính chất hành chính – tƣ pháp của đăng ký kinh doanh đƣợc thể hiện ở
những khía cạnh sau:
 Để đƣợc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hay thay đổi nội dung
đăng ký kinh doanh, chủ thể kinh doanh phải tuân thủ những trình tự, thủ tục
về đăng ký kinh doanh theo luật định, cụ thể là việc hoàn thiện, nộp hồ sơ
đăng ký kinh doanh hoặc thông báo thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh
cho cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Về phần mình, trong phạm vi thẩm
quyền, cơ quan nhà nƣớc đó có nghĩa vụ tiếp nhận hồ sơ, đối chiếu với các
điều kiện do pháp luật quy định để cấp hoặc từ chối cấp giấy chứng nhận

đăng ký kinh doanh và đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh cho
chủ thể kinh doanh. Quy trình này cũng phải đƣợc thực hiện theo đúng các
bƣớc và thời hạn nhƣ luật định.
 Với việc đƣợc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, chủ thể kinh doanh
công khai hoá sự ra đời của mình với giới thƣơng nhân, đồng thời tƣ cách chủ
thể của họ cũng đƣợc Nhà nƣớc công nhận về mặt pháp lý. Kể từ thời điểm
này, chủ thể kinh doanh có đầy đủ năng lực pháp luật để nhân danh mình
tham gia vào các quan hệ kinh tế, dân sự và các quan hệ pháp luật khác.
Trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh.
Trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh là những công đoạn (những bƣớc)
và thời hạn thực hiện mà cá nhân, tổ chức và cơ quan đăng ký kinh doanh
phải tuân thủ trong quá trình đăng ký kinh doanh và đăng ký thay đổi nội
dung đăng ký kinh doanh do pháp luật quy định. Thông thƣờng, việc đăng ký
kinh doanh đƣợc tiến hành theo các bƣớc:
 Nộp và tiếp nhận hồ sơ đăng ký kinh doanh;

25
 Xem xét tính hợp lệ của hồ sơ đăng ký kinh doanh và cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh;
 Công bố nội dung đăng ký kinh doanh.
Và thủ tục đăng ký kinh doanh hiện tại bao gồm:
 Đơn đăng ký kinh doanh;
 Điều lệ công ty (đối với Công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh);
 Danh sách thành viên (đối với công ty TNHH), danh sách cổ đông đối với
công ty cổ phần.
 Chứng chỉ hành nghề, xác nhận vốn pháp định (đối với doanh nghiệp kinh
doanh các các ngành nghề pháp luật yêu cầu phải có chứng chỉ hành nghề,
vốn pháp định).
 Bản sao hợp lệ của một trong các giấy tờ chứng thực cá nhân hợp pháp theo
quy định.

Nếu có nhu cầu thay đổi nội dung so với những nội dung đã đƣợc ghi
nhận trong GCN ĐKKD, doanh nghiệp phải gửi thông báo bằng văn bản tới
cơ quan đăng ký kinh doanh; cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm
thực hiện việc đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh cho doanh
nghiệp theo đúng thủ tục và thời hạn do pháp luật quy định.
Nhƣ vậy, Đăng ký kinh doanh - thủ tục pháp lý bắt buộc đối với việc
thành lập doanh nghiệp. Thông qua đăng ký kinh doanh, doanh nghệp đƣợc
ghi tên vào sổ đăng ký kinh doanh và đƣợc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh. Kể từ thời điểm đó, doanh nghiệp có tƣ cách pháp lý để hoạt động
kinh doanh, hành vi của doanh nghiệp mới đƣợc coi là hợp pháp, đƣợc pháp
luật thừa nhận và bảo vệ.
Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh
Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh là một
trong những nội dung quan trọng trong chƣơng trình tổng thể cải cách hành

×