Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Sự cần thiết ban hành Luật Tiếp cận thông tin pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.35 KB, 19 trang )




Sự cần thiết ban hành Luật Tiếp
cận thông tin




Tại Nghị quyết số 27/2008/NQ-QH12 về Chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh năm 2009 và bổ sung Chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh của

Tại Nghị quyết số 27/2008/NQ-QH12 về Chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh năm 2009 và bổ sung Chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh của Quốc hội khoá XII, Quốc hội đã giao Chính phủ
chủ trì xây dựng và trình Dự án Luật Tiếp cận thông tin (sau đây
gọi là Dự án Luật). Do tầm quan trọng và sự cần thiết ban hành
của văn bản, Chính phủ đã kiến nghị Quốc hội đưa Dự án Luật
này vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2009 thay vì
để ở chương trình dự bị và ban hành trong năm 2011 như dự kiến
ban đầu.
1. Bối cảnh ban hành Luật
1.1. Bối cảnh trong nước
Quyền được thông tin đã được Hiến pháp năm 1992 quy định là
một trong những quyền cơ bản của công dân: “Công dân có
quyền được thông tin theo quy định của pháp luật (Điều 69).
Quyền được thông tin của công dân cũng được thể hiện trong
nhiều chủ trương, chính sách của Đảng. Gần đây nhất, Nghị
quyết Hội nghị lần thứ Ba, Ban chấp hành Trung ương Đảng
(Khoá X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác


phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã đề ra nhiệm vụ nghiên cứu
ban hành Luật bảo đảm quyền được thông tin của công dân và coi
đây là một trong các biện pháp phòng, chống tham nhũng của
Đảng và Nhà nước.
Cụ thể hoá quy định của Hiến pháp, thực hiện chủ trương của
Đảng, đồng thời nội luật hoá một số quy định trong các điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nhiều văn bản đã được ban
hành có quy định liên quan đến quyền được thông tin và trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc cung cấp thông tin do
cơ quan nhà nước đang nắm giữ (các thông tin về môi trường,
quy hoạch, xây dựng, đất đai, các dự án, vệ sinh, an toàn thực
phẩm, chi tiêu ngân sách ). Đó là Luật Phòng, chống tham
nhũng; Luật Xây dựng; Luật Đầu tư; Luật Đất đai; Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật; Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của HĐND, UBND; Luật Ngân sách; Pháp lệnh Thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và các văn bản quy định chi
tiết thi hành các luật trên.
Thông qua các quy định pháp luật, chủ trương dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra đã từng bước đi vào cuộc sống. Việc quy
định trách nhiệm công khai, minh bạch và cung cấp thông tin của
cơ quan nhà nước trong các văn bản pháp luật ngày càng rõ ràng,
cụ thể hơn.*
Tuy nhiên, việc thể chế và chi tiết hoá quyền được thông tin được
ghi nhận trong văn kiện của Đảng, trong Hiến pháp thành các quy
định của luật và các văn bản pháp quy còn chậm và chưa hệ
thống; chưa bao quát đầy đủ các lĩnh vực của cuộc sống; chưa có
một cơ chế pháp lý cụ thể để bảo đảm thực hiện quyền này một
cách có hiệu quả, nên việc thực hiện quyền được thông tin của
công dân còn hạn chế. Hầu hết các văn bản hiện hành mới chỉ
dừng lại ở việc xác định trách nhiệm cung cấp thông tin của các

cơ quan nhà nước, quy định về quyền được thông tin mang tính
nguyên tắc, tính khái quát hơn là tính thực tiễn. Các quy định
hiện hành chủ yếu giao quyền tự quyết định việc cung cấp thông
tin cho cơ quan quản lý thông tin thuộc lĩnh vực mà cơ quan đó
phụ trách và kết quả là mỗi cơ quan, mỗi lĩnh vực lại có những
quy định khác nhau về cách thức, quy trình cung cấp thông tin.
Hệ thống pháp luật hiện hành còn thiếu quy định về các loại
thông tin phải công bố công khai rộng rãi; các loại thông tin phải
đăng trên trang thông tin điện tử; các loại thông tin cung cấp theo
yêu cầu; lý do từ chối cung cấp thông tin và nhất là quy trình yêu
cầu, cung cấp thông tin nên việc tiếp cận thông tin của người dân
còn gặp nhiều khó khăn. Trách nhiệm cung cấp thông tin của các
cơ quan nhà nước cũng chưa được pháp luật quy định cụ thể.
Điều này dẫn đến tình trạng một số cán bộ, công chức còn có thói
quen giữ bí mật thông tin do mình nắm giữ để hoặc là bảo đảm an
toàn cho chính bản thân, hoặc dùng thông tin để trục lợi, hoặc rơi
vào tình trạng không biết mình có trách nhiệm cung cấp thông tin
hay không.
Không chỉ được điều chỉnh ở phạm vi luật của Quốc hội, pháp
lệnh của ủy ban Thường vụ Quốc hội, quyền được thông tin của
người dân cũng là mối quan tâm của nhiều nhiệm kỳ Chính phủ.
“Chính phủ chủ trương tăng cường mối quan hệ của bộ máy nhà
nước với công chúng, trước hết là trong quan hệ với cơ quan báo
chí. Trừ những nội dung đã được quy định thuộc bí mật nhà nước
và bí mật kinh doanh, các cơ quan nhà nước phải tôn trọng quyền
được thông tin của dân, bảo đảm cho báo chí tiếp xúc được với
các hoạt động của mình. Việc thực hiện đầy đủ điều này, không
thể tuỳ thích mà phải coi là một nghĩa vụ thể hiện tính chất Nhà
nước của dân, do dân, vì dân. Những quy định cụ thể về quyền
được thông tin của dân cần được thể chế hoá” (1). Báo cáo của

Chính phủ trình bày tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XI (ngày
17/10/2006) cũng nêu rõ chủ trương: “ban hành quy định cụ thể
về trách nhiệm của cơ quan hành chính các cấp trong việc công
khai các hoạt động và việc cung cấp thông tin cho báo chí và
nhân dân theo đúng quy định của pháp luật”.
Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quy chế phát ngôn
và cung cấp thông tin cho báo chí ban hành kèm theo Quyết định
số 77/2007/QĐ-TTg ngày 28/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ,
song trong đó, nhiệm vụ của người phát ngôn mới chỉ là cung cấp
thông tin cho báo chí chứ không bao gồm việc tiếp nhận và giải
quyết các yêu cầu cung cấp thông tin của công chúng. Hơn nữa,
về cơ bản, hoạt động của người phát ngôn là không thường
xuyên, chỉ mang tính định kỳ và theo một số vụ việc. Chính vì
thế, cơ chế người phát ngôn chưa thực sự là một giải pháp hữu
hiệu để tăng cường, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công
dân ở nước ta hiện nay.*
Những bất cập nói trên của pháp luật đã dẫn đến thực tế người
dân gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận thông tin do các cơ
quan nhà nước nắm giữ. Thông tin được cung cấp thường không
đầy đủ, thiếu chính xác và kịp thời. Việc cung cấp thông tin còn
phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cán bộ, công chức. Trong hệ
thống các cơ quan nhà nước, việc chia sẻ thông tin cũng rất hạn
chế. Cán bộ, công chức thường có tâm lý muốn kiểm soát thông
tin, muốn tránh rủi ro và thiếu ý thức, thiếu thiện ý trong việc
thực hiện trách nhiệm cung cấp thông tin.
Vẫn có tình trạng những người có điều kiện, vị trí công tác dễ
dàng tiếp cận thông tin lợi dụng đặc quyền để trục lợi, gây nên sự
bất bình đẳng, thiếu công bằng trong xã hội, đặc biệt là trong lĩnh
vực đất đai, đền bù giải toả, dự án ưu đãi, các khoản tín dụng,
cứu trợ thiên tai Việc thiếu minh bạch, công khai trong hoạt

động quản lý nhà nước đã phần nào làm hạn chế sự tham gia của
tổ chức, cá nhân vào hoạt động quản lý nhà nước với tính chất là
người giám sát, phản biện và chưa có cơ chế để người dân tự bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Trong việc thi hành pháp luật, do thiếu công khai thông tin nên
đã làm hạn chế khả năng nhận thức, tư duy của những người thi
hành pháp luật dẫn đến tình trạng áp dụng pháp luật không thống
nhất, thiếu bình đẳng. Việc thiếu công khai thông tin cũng là
nguy cơ dẫn đến tình trạng tham nhũng, tuỳ tiện của cán bộ, công
chức.
1.2. Bối cảnh quốc tế
Quyền được thông tin (hay còn gọi là quyền tự do thông tin hoặc
quyền tiếp cận thông tin) là một trong những quyền cơ bản của
con người, thuộc nhóm quyền dân sự - chính trị. Nó được dùng
để chỉ quyền của công dân được biết thông tin của Nhà nước,
theo các cách thức trực tiếp lẫn gián tiếp, để thỏa mãn các nhu
cầu cuộc sống của mình cũng như để bảo vệ và thực hiện các
quyền năng khác đã được pháp luật ghi nhận.
Quyền được thông tin của con người được ghi nhận trong hai
công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia là Tuyên bố nhân
quyền thế giới năm 1948 (2) và Hiệp ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị năm 1966. Các quyền này tiếp tục được khẳng
định trong Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng;
Tuyên bố Rio về môi trường và phát triển; Công ước UNECE về
tiếp cận thông tin môi trường.
Đến nay, ngày càng có nhiều điều ước, hiệp ước quốc tế, kế
hoạch hành động, các tuyên bố quốc tế yêu cầu hoặc khuyến
khích các quốc gia ban hành Luật tự do thông tin. Ngày càng có
nhiều quốc gia công nhận tầm quan trọng của tiếp cận thông tin
với tư cách là một quyền của con người và cũng là một quyền

quan trọng trong việc nâng cao khả năng điều hành và tăng cường
tính minh bạch và phòng, chống tham nhũng trong các hoạt động
của Chính phủ (3).
Quyền tiếp cận thông tin /quyền được biết đã được tôn vinh trong
rất nhiều Hiến pháp của các quốc gia. Trên 90 quốc gia có các
quy định trong Hiến pháp trao cho các công dân quyền được tiếp
cận thông tin (4). Số lượng các Hiến pháp có các quy định này đã
tăng đáng kể trong vòng 10 năm qua. Hầu hết Hiến pháp thành
văn mới ban hành của các quốc gia đang chuyển đổi, đặc biệt là ở
Đông Âu, Trung Âu và châu Mỹ La tinh đều có quy định về
quyền tiếp cận thông tin. Ngoài ra, một số quốc gia đã ban hành
Hiến pháp từ lâu đời, trong đó có Phần Lan và Na Uy, gần đây đã
sửa đổi Hiến pháp của mình và bổ sung quy định về quyền tiếp
cận thông tin.
Ở một số quốc gia như ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Pakistan,
Israel và Pháp, Tòa án tối cao đã ra phán quyết rằng, quyền tiếp
cận thông tin là quyền hiến định và là một yếu tố điển hình của
quyền tự do ngôn luận và quyền tự do báo chí. Khoảng một nửa
các quốc gia mà Hiến pháp quy định về quyền tiếp cận thông tin
đã ban hành Luật về tiếp cận thông tin /tự do thông tin.
Một số Luật tự do thông tin /tiếp cận thông tin nêu rõ là bản thân
các quy định về quyền tiếp cận thông tin đã là các quy định hiến
định, ví dụ như ở Thụy Điển, Luật Tự do báo chí là một trong
bốn đạo luật nền tảng tạo thành Hiến pháp của Thụy Điển. Một
số quốc gia quy định Luật thông tin có địa vị pháp lý cao hơn các
luật khác. ở Canada, Tòa án đã tuyên bố rằng Luật về Tiếp cận
thông tin là quy định mang tính chất của Hiến pháp. ở
Newzeland, vào năm 1988, Tòa phúc thẩm đã phán quyết rằng
tầm quan trọng của Luật Thông tin chính thức là ở chỗ, các biện
pháp trong Luật này có thể được coi là các biện pháp mang tính

hiến định.
Trên thế giới, tính đến năm 2009, đã có 86 nước ban hành Luật
về tiếp cận thông tin. Rất nhiều quốc gia cũng đang trong quá
trình chuẩn bị ban hành luật này hoặc ban hành nghị định riêng
để điều chỉnh về vấn đề này.*
2. Mục đích của việc ban hành Luật
Việt Nam cần thiết phải ban hành Luật Tiếp cận thông tin để một
mặt, xác lập cơ chế pháp lý hữu hiệu, đầy đủ, rõ ràng, bảo đảm
người dân thực hiện quyền hiến định; thể chế hoá các quan điểm,
chủ trương trong các nghị quyết của Đảng về bảo đảm quyền
được thông tin; mặt khác còn nhằm thực hiện các cam kết quốc tế
của Việt Nam về minh bạch hóa hoạt động của các cơ quan nhà
nước và nhằm hài hòa hóa với pháp luật quốc tế, thể hiện nỗ lực
của Nhà nước Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế.
Cụ thể hơn, việc ban hành Luật nhằm đạt một số mục đích sau
đây:
- Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân để bảo vệ quyền, lợi ích của họ; tạo cơ hội cho mọi người
dân được tham gia giám sát hoạt động quản lý nhà nước, đóng
góp ý kiến vào việc hoạch định chính sách cũng như công tác
quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước;
- Bảo đảm tính công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình của
các cơ quan nhà nước; góp phần giảm tham nhũng;
- Tăng chất lượng và tính hiệu quả của hoạt động của các cơ quan
nhà nước;
- Tăng cường dân chủ, công bằng và sự hợp tác giữa người dân
và Nhà nước, cải thiện mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân;
- Tạo niềm tin của công chúng vào cơ quan công quyền.
3. Lợi ích của việc ban hành và thực thi Luật
3.1. Các tác động dự kiến trong trường hợp không ban hành

Luật
Các mục đích trên sẽ không đạt được, nếu:
Giữ nguyên tình trạng hiện nay và không ban hành Luật, nghĩa là
không có sự thay đổi nào đối với môi trường chính sách hiện tại,
không có sự cải thiện gì đối với việc tiếp cận thông tin của người
dân. Khi đó, những bất cập trong thực tế vẫn xảy ra. Công chúng
không được lợi ích gì từ việc tiếp cận được thông tin tốt hơn. Các
cơ quan nhà nước cũng sẽ không được hưởng lợi từ một quá trình
hoạch định chính sách tốt hơn, có sự tham gia tích cực từ phía
người dân và tăng uy tín hơn cho Chính phủ cả trong và ngoài
nước. Các đối tượng tác động của văn bản, đặc biệt là doanh
nghiệp, tiếp tục bị nhầm lẫn khi cần đưa ra các quyết định về sản
xuất, kinh doanh, gây thiệt hại không chỉ cho bản thân doanh
nghiệp mà cho cả nền kinh tế. Nền kinh tế của Việt Nam sẽ kém
cạnh tranh so với nền kinh tế của các quốc gia khác vì thiếu minh
bạch trong hoạt động quản lý điều hành của các cơ quan công
quyền.
Như vậy, pháp luật hiện tại, nếu không thay đổi, sẽ tiếp tục tạo kẽ
hở cho tham nhũng; tổn hại đến uy tín của các cơ quan nhà nước;
tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp và
làm cản trở sự phát triển, đồng thời giảm mức độ bảo vệ đối với
người dân.
Thực hiện các giải pháp khác nhưng không ban hành Luật, ví dụ
như tăng cường các biện pháp truyền thông, thúc đẩy việc thực
thi pháp luật hiện hành của các cơ quan nhà nước trong việc cung
cấp thông tin, tăng cường nhận thức của người dân và cán bộ,
công chức Giải pháp này cho phép cơ quan nhà nước có quyền
tự quyết lớn trong việc cung cấp hay không cung cấp thông tin.
Tuy nhiên, sẽ không có hoặc có rất ít sự thống nhất về tiêu chí
những thông tin hay dữ liệu nào cần được công bố. Cán bộ, công

chức không chắc chắn về các thông tin nào có thể cung cấp,
không cung cấp, thông tin nào cần giữ bí mật sẽ tiếp tục có xu
hướng giấu thông tin hơn là cung cấp thông tin. Giải pháp này
cũng sẽ không ngăn chặn được tham nhũng và khả năng mua /bán
thông tin. Nó sẽ tạo ra cơ chế cung cấp thông tin mang tính tùy
tiện và như vậy, sẽ không khác nhiều so với tình trạng hiện tại.
Giải pháp này không thực sự khuyến khích sự tham gia của người
dân, do đó, đây không phải là một phương án tối ưu. Hơn nữa, sẽ
rất khó khăn nếu để cơ quan nhà nước hoàn toàn tự nguyện trong
việc cung cấp thông tin.*
Hình thức tổ chức các chiến dịch giáo dục tuyên truyền đã rất phổ
biến tại Việt Nam. Thông qua hoạt động giáo dục tuyên truyền,
người dân nhận thức rõ hơn về quyền của mình, tuy nhiên, nếu
chỉ thực hiện giáo dục tuyên truyền thì sẽ khó thay đổi sự tin
tưởng của người dân đối với hệ thống pháp luật hiện tại. Các hoạt
động giáo dục, tuyên truyền đóng một vai trò quan trọng, nhưng
chưa có hiệu quả để thay đổi những hiểu biết của dân chúng về
quyền và nghĩa vụ của họ đối với việc tiếp cận thông tin cũng
như trách nhiệm của cán bộ, công chức trong việc cung cấp thông
tin.
Như vậy, trong tình trạng tiếp cận thông tin hiện tại ở Việt Nam
thì việc chỉ sử dụng các giải pháp khác mà không can thiệp bằng
một đạo luật sẽ không tối ưu và sẽ không có nhiều khác biệt so
với tình trạng hiện nay.
Sửa đổi các luật hiện thành mà không ban hành Luật Tiếp cận
thông tin, thì sẽ không bao phủ hết các lĩnh vực thông tin mà
người dân cần tiếp cận (ví dụ: Luật Phòng, chống tham nhũng chỉ
yêu cầu công khai, cung cấp các thông tin nhằm mục đích khắc
phục tình trạng tham nhũng; ). Mặt khác, trong các luật hiện
hành đều không có quy trình, hoặc không rõ, hoặc quy trình

không chặt chẽ, không hợp lý, nhất là trình tự, thủ tục bảo đảm
quyền tiếp cận thông tin theo yêu cầu của cá nhân (ví dụ Luật
Phòng, chống tham nhũng quy định thời hạn cung cấp thông tin
trong vòng 10 ngày và cũng không quy định trình tự, thủ tục).
Nếu sửa đổi các luật hiện hành đơn lẻ - các văn bản chuyên
ngành - cũng sẽ không xác định được các tiêu chí chung để bảo
đảm quyền tiếp cận thông tin tối thiểu của người dân cũng như
các giới hạn tối thiểu cho việc tiếp cận thông tin (bảo vệ bí mật
nhà nước, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư).
Ngoài ra, nếu chỉ sửa đổi các luật hiện hành cũng sẽ không đưa ra
được các nguyên tắc chung về tiếp cận thông tin; quy định cụ thể
về trách nhiệm cung cấp thông tin của các cơ quan, tổ chức nắm
giữ thông tin; thời hạn cung cấp, chi phí tiếp cận cũng như các cơ
chế khác bảo đảm quyền tiếp cận thông tin nói chung của công
dân.
3.2. Các tác động dự kiến trong trường hợp ban hành Luật
Việc ban hành Luật Tiếp cận thông tin sẽ đem lại những lợi ích
đáng kể về kinh tế - xã hội, sự ổn định chính trị, tăng cường hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tăng niềm tin của công chúng đối
với Nhà nước.
Lợi ích về tăng hiệu quả quản lý nhà nước: thông qua cơ chế bảo
đảm quyền tiếp cận thông tin sẽ hình thành cơ chế giám sát có
hiệu quả từ công chúng tới các hoạt động của cơ quan nhà nước.
Việc phản hồi từ phía người dân sẽ giúp các cơ quan nhà nước
cân nhắc, lựa chọn và đưa ra những quyết định đúng đắn, phù
hợp với lòng dân, tăng hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý
nhà nước; các cơ quan nhà nước sẽ hoạt động có hiệu quả và
trách nhiệm hơn. Việc minh bạch hoạt động của các cơ quan
công quyền còn giúp cho việc kiểm tra, thanh tra, giám sát hiệu
quả hơn; đồng thời góp phần giảm tham nhũng.

Lợi ích đối với doanh nghiệp, công dân: việc tiếp cận thông tin dễ
dàng sẽ khắc phục những thiệt hại, giảm chi phí cho người dân và
chi phí cơ hội cho doanh nghiệp; giảm rủi ro cho hoạt động sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhờ giảm rủi ro phát sinh từ
việc nhầm lẫn và không chắc chắn về các nghĩa vụ pháp lý liên
quan; các rủi ro đối với người dân cũng giảm. Với việc chia sẻ
thông tin, các tổ chức, cá nhân có thể sử dụng các kết quả nghiên
cứu, điều tra của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác, tiết kiệm
được các nguồn lực trong xã hội. Với việc tăng cường tiếp cận
thông tin, người dân sẽ nâng cao hiểu biết và nhận thức, nâng cao
tri thức, qua đó, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần.
Lợi ích về mặt kinh tế: việc tiếp cận thông tin đầy đủ sẽ giúp cho
các nhà đầu tư trong và ngoài nước xây dựng cho mình các kế
hoạch đầu tư dài hạn, tin tưởng vào kế hoạch kinh doanh; đây sẽ
là tiền đề cho đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam tăng lên
vì các hoạt động đầu tư nước ngoài chủ yếu dựa vào tính ổn định,
sự minh bạch và thông tin thị trường. Tăng cường tiếp cận thông
tin cũng đồng thời giảm cạnh tranh không lành mạnh giữa các
doanh nghiệp. Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin còn giúp cho
các doanh nghiệp giảm thiểu chi phí kinh doanh và các rủi ro khi
đầu tư, tăng tỷ số doanh thu của doanh nghiệp, từ đó thu hút đầu
tư và tạo công ăn việc làm nhiều hơn, nền kinh tế đất nước tăng
trưởng nhanh hơn.
Tăng niềm tin của người dân đối với Nhà nước: bảo đảm quyền
tiếp cận thông tin của công dân sẽ góp phần tăng lòng tin của
người dân đối với các cơ quan nhà nước. Việc người dân có đầy
đủ các nguồn thông tin giúp họ đóng vai trò chủ động hơn trong
xã hội. Người dân cũng tin tưởng hơn vào Nhà nước và sẵn sàng,
chủ động đóng góp xây dựng, hoàn thiện chính sách, quy định
pháp luật.

Tăng sự tuân thủ pháp luật của cán bộ, công chức, người dân,
doanh nghiệp: việc tiếp cận đầy đủ thông tin sẽ tạo tiền đề thuận
lợi cho việc thi hành văn bản pháp luật của mọi đối tượng trong
xã hội.
Lợi ích về khía cạnh dân chủ: bên cạnh việc thực hiện quyền cơ
bản của công dân được Hiến pháp quy định, Luật sẽ làm thay đổi
mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, bảo đảm nhân dân tham
gia tự giác và thực chất hơn vào hoạt động quản lý nhà nước; với
việc tăng tính minh bạch trong hoạt động của cơ quan nhà nước,
đặt các cơ quan dưới sự giám sát hiệu quả của nhân dân, giảm
tham nhũng. Có thể thấy rằng Luật sẽ là bước tiến cho sự tăng
cường dân chủ, nếu như có cơ chế hữu hiệu để bảo đảm thực thi
quyền tiếp cận thông tin của công dân. Từ đó sẽ tạo đồng thuận
lớn trong xã hội, bảo đảm được ổn định xã hội là cơ sở cho tăng
trưởng kinh tế.
Bên cạnh những lợi ích kể trên, việc thực thi Luật Tiếp cận thông
tin và bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin sẽ làm tăng chi
phí cho ngân sách nhà nước cũng như chi phí phát sinh cho
doanh nghiệp, công dân như: chi phí cho việc xây dựng cơ sở dữ
liệu, thiết lập, duy trì hạ tầng công nghệ thông tin (chi phí này
vẫn phát sinh ngay cả khi không ban hành Luật); chi phí cho việc
lưu trữ và cập nhật dữ liệu, thông tin; chi phí cho nhân lực thực
hiện cung cấp thông tin (chi phí này sẽ giảm đáng kể nếu các cơ
quan sử dụng cán bộ cung cấp thông tin kiêm nhiệm hoặc tận
dụng nguồn nhân lực từ các trung tâm tin học, bộ phận văn
phòng, bộ phận tiếp dân, người phát ngôn của cơ quan, ); chi phí
cho tuyên truyền nâng cao nhận thức của công chúng về quyền
tiếp cận thông tin, nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức
trong việc bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin của cá
nhân, tổ chức; chi phí giải quyết khiếu nại, khiếu kiện

Tuy nhiên, nhiều khoản chi phí nêu trên chỉ phát sinh đáng kể
trong những năm đầu khi bắt đầu thực hiện Luật và sẽ giảm nhiều
trong các năm tiếp theo, ví dụ như chi phí cho xây dựng cơ sở dữ
liệu, cập nhật và lưu trữ dữ liệu Một số chi phí khác nếu không
ban hành Luật vẫn phát sinh như: chi phí cho việc xây dựng cơ sở
dữ liệu, thiết lập, duy trì hạ tầng công nghệ thông tin (5).
4. Những nội dung cơ bản cần có trong Luật
Vì mục đích nêu trên, Luật Tiếp cận thông tin sẽ là một đạo luật
chung bao quát mọi vấn đề về bảo đảm quyền được thông tin của
người dân. Nó có nhiệm vụ bổ khuyết các văn bản pháp luật hiện
hành về trình tự, thủ tục tiếp cận thông tin, đặc biệt là đối với
thông tin không công bố rộng rãi nhưng cần phải được cung cấp
theo yêu cầu của công dân.
Bên cạnh nhiệm vụ thể chế hoá quy định của Hiến pháp và chủ
trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta, việc ban hành Luật
cần phải bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam,
bảo đảm tính tương thích và phù hợp với thông lệ pháp luật quốc
tế; phù hợp với các nguyên tắc về quyền tự do thông tin của Liên
hợp quốc.
Tuy nhiên, chỉ cần thiết ban hành Luật và chỉ có thể đạt được các
mục đích nêu trên của Luật nếu như Luật có được các nội dung
sau đây:
Luật Tiếp cận thông tin phải quy định về các nguyên tắc chung
bảo đảm tiếp cận thông tin; các loại thông tin phải được công
khai rộng rãi, hình thức công khai rộng rãi thông tin, các loại
thông tin phải được công khai trên trang thông tin điện tử, việc
công khai rộng rãi thông tin vì lợi ích cộng đồng. Các quy định
về các loại thông tin này phải theo nguyên tắc mở rộng thông tin
tối đa.
Luật cần quy định cụ thể các loại thông tin và các hình thức cung

cấp thông tin theo yêu cầu; trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu
cung cấp thông tin và cơ sở của việc từ chối yêu cầu cung cấp
thông tin. Tương tự như quy định của Luật tiếp cận thông tin của
các nước (6), quy định về phạm vi thông tin mà người dân được
yêu cầu tiếp cận sẽ không hạn chế ở những vấn đề, lĩnh vực theo
cách liệt kê của các luật chuyên ngành, mà có thể tiếp cận tất cả
các thông tin do các cơ quan công quyền nắm giữ, trừ một số
thông tin thuộc bí mật nhà nước và thông tin bị hạn chế tiếp cận
theo quy định của Luật này (ví dụ: trừ những thông tin thuộc bí
mật quốc gia, bí mật đời tư, bí mật kinh doanh, thông tin ảnh
hưởng đến quá trình điều tra các vụ án ). Quyền tiếp cận thông
tin là quyền có giới hạn; tuy nhiên, các quy định hạn chế tiếp cận
thông tin đó phải là cần thiết, khi và chỉ khi các thông tin đó nếu
bị tiết lộ sẽ có sự nguy hại đến lợi ích của cộng đồng, an ninh
quốc gia, chủ quyền, phát triển kinh tế - xã hội, hay ảnh hưởng
đến danh dự, uy tín của cá nhân theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, Luật phải có quy định về trách nhiệm cung cấp
thông tin của các cơ quan nắm giữ thông tin; thời hạn cung cấp,
lệ phí tiếp cận, vấn đề khiếu nại, khiếu kiện cũng như các cơ chế
khác bảo đảm quyền tiếp cận thông tin.
Hơn nữa, Luật phải thiết lập cơ chế pháp lý hữu hiệu để bảo đảm
thực thi quyền tiếp cận thông tin. Quyền của người dân sẽ tương
ứng với trách nhiệm của các cơ quan nhà nước; do đó, Luật cần
xác định rõ trách nhiệm của cơ quan nắm giữ thông tin như trách
nhiệm của các cơ quan trong việc thiết lập và vận hành trang
thông tin điện tử để công khai các thông tin cần thiết cho công
chúng biết, bảo đảm các nguồn lực và biện pháp cần thiết cho
việc thực thi Luật. Luật cũng nên có cơ chế riêng theo dõi, đánh
giá việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin.
Tóm lại, để giải quyết những vấn đề thực tiễn trong nước nêu

trên, đáp ứng nhu cầu nội tại của quốc gia và đáp ứng yêu cầu hội
nhập quốc tế, hội nhập khu vực, việc Việt Nam ban hành Luật
Tiếp cận thông tin trong bối cảnh hiện nay thực sự là cần thiết.
**** (1)Phát biểu tại phiên khai mạc Quốc hội ngày 18/10/2005
của nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải.
(2)Khoản 2, Điều 19 của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người
quy định: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận. Quyền này
bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin, ý kiến,
không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng,
bằng bản viết, in hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất
kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của
họ”.
(3)Xem Báo cáo Tự do thông tin thế giới năm 2006.
(4)Xem Báo cáo Tự do thông tin thế giới năm 2006.
(5)Xem chi tiết trong Báo cáo đánh giá tác động của Dự thảo
Luật đã được đăng trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ,
trang thông tin điện tử của Bộ Tư pháp.
(6)Xem “Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp
cận thông tin”, Nxb. Công an nhân dân, 2007.

(Bài đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 154-thang-8-2009
ngày 10/09/2009) Ths Nguyễn Thị Hạnh - Bộ Tư pháp



×