Nội dung cơ bản của Luật tiếp
cận thông tin một số nước
Tự do thông tin là một quyền cơ bản đối với mỗi con người. Quyền
này cho phép và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đây là một sự bảo vệ quan trọng
chống lại các hình thức lạm dụng, các việc làm sai trái và tham nhũng.
Quyền này cũng có thể đem lại lợi ích cho các Chính phủ thông qua
việc đem lại sự minh bạch và cởi mở trong các quá trình ra quyết định
và qua đó cải thiện lòng tin của công chúng đối với các hoạt động của
Chính phủ (1).
1. Lợi ích của việc ban hành luật tiếp cận thông tin
Đến năm 2009, đã có 86 nước trên thế giới ban hành Luật về Tiếp
cận thông tin. Quốc gia đầu tiên ban hành luật liên quan đến quyền tiếp
cận thông tin là Thụy Điển (năm 1766), sau đó một số nước khác cũng
có đạo luật riêng như Mỹ ban hành Luật Tự do thông tin (năm 1966),
Canada (1983), Hungary (1992), Anh (năm 2000), Nam Phi (năm
2000) Ở châu á, một số nước đã ban hành luật này như Thái Lan
(12/1997), Hàn Quốc (1/1998), Nhật Bản (4/2001), Ấn Độ (năm 2005),
Inđônêxia, Trung Quốc, Thái Lan, Philippines Một số quốc gia khác
cũng đang trong quá trình chuẩn bị ban hành luật này hoặc ban hành
nghị định riêng để điều chỉnh về vấn đề này.
Theo Báo cáo về tiếp cận thông tin trên thế giới thì việc ban hành
luật về tiếp cận thông tin mang lại một số lợi ích cơ bản sau đây:
1.1. Thu hút sự tham gia của công chúng và thực hiện dân chủ
Tự do thông tin là yếu tố quan trọng trong việc thu hút sự tham gia
của công chúng vào các công việc xã hội. Đồng thời, công chúng chỉ
thực sự có khả năng tham gia vào các quá trình dân chủ khi họ có đầy
đủ các thông tin về các chính sách và hoạt động của Chính phủ. Dân
chủ là dựa trên sự đồng thuận của các công dân và sau đó Chính phủ
thông báo cho các công dân về các hoạt động của mình và thừa nhận
quyền của các công dân được tham gia vào các công việc của Chính
phủ.
Nhận thức của công chúng về các lý do ban hành ra một quyết định
của Chính phủ có thể tăng cường khả năng ủng hộ và giảm những hiểu
lầm hay sự không hài lòng của công chúng sau này. Cá nhân các Nghị
sĩ cũng có nhiều khả năng hơn trong việc thực hiện quyền năng giám
sát của mình. Lòng tin vào Chính phủ cũng được cải thiện nếu như
công chúng tin rằng, các quyết định đưa ra có thể dự báo trước. Ủy ban
New Zealand, một trong những cơ quan có sự đóng góp to lớn cho sự
ra đời của Luật Thông tin, chính thức nhận định rằng: “Tự do thông tin
ở mức độ cao không có nghĩa là sẽ chấm dứt được mọi sự bất đồng
quan điểm trong xã hội cũng như giải quyết được hết các vấn đề chính
trị chủ yếu. Tuy nhiên, nếu quyền này được áp dụng một cách hệ thống
với sự quan tâm thích đáng nhằm cân bằng các nhóm lợi ích khác nhau
thì quyền này có thể làm thu hẹp việc bất đồng quan điểm, tăng cường
tính hiệu quả của các chính sách được ban hành cũng như nâng cao
lòng tin của nhân dân vào hệ thống chính trị”.
1.2. Bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
Luật Tự do thông tin có thể tăng cường khả năng thực thi các quyền
chính trị và kinh tế khác. Ở Ấn Độ, Luật Tự do thông tin được sử dụng
trong việc phân phối lương thực, thực phẩm bằng quy định rằng, những
người cung cấp thực phẩm không được phép lạm dụng việc cung cấp
lương thực được Chính phủ trợ cấp nhằm làm bần cùng hóa người dân.
Điều này đã tạo ra một sự thay đổi căn bản trong hệ thống phân phối
lương thực nhằm đảm bảo cho các công dân được nhận phần lương
thực của mình trong khi những nhà cung cấp cũng được nhận tiền công
một cách đầy đủ. Nhiều quốc gia khác cũng sử dụng quyền tự do thông
tin nhằm thúc đẩy các quan chức Chính phủ phải phản ứng và có hành
động một cách nhanh chóng hơn đối với các vấn đề đã tồn tại dai dẳng
trong xã hội như là đường sá, xây dựng và tạo việc làm. Ở Thái Lan,
một người mẹ có con bị từ chối không cho nhập học vào một trường
công đầy danh tiếng đã yêu cầu nhà trường phải cho xem kết quả thi
đầu vào. Khi nhà trường từ chối, người mẹ này đã nộp đơn lên ủy ban
Thông tin và cho Tòa án. Kết quả là, bà nhận được thông tin về việc
con cái của nhiều người có ảnh hưởng lớn đã được chấp nhận vào học
trong trường mặc dù có điểm thi rất thấp. Sau đó, Hội đồng Nhà nước
đã ban hành một quyết định rằng, các trường chỉ được phép tiếp nhận
sinh viên dựa trên một yếu tố duy nhất là kết quả học tập. Tại Hoa Kỳ,
Luật Tiếp cận thông tin được sử dụng đã phát hiện ra nhiều trường hợp
tra tấn hoặc giám sát bất hợp pháp do các cơ quan Chính phủ thực hiện.
Một số Luật như Luật Bảo vệ dữ liệu hoặc một số Luật Tự do thông
tin còn cho phép các cá nhân được tiếp cận tài liệu lưu trữ do cá nhân
và các tổ chức tư nhân nắm giữ cũng như cho phép thực hiện quyền
được tiếp cận và quyền được sửa đổi các tài liệu lưu trữ cá nhân và đảm
bảo rằng các tài liệu này luôn chính xác và các quyết định được đưa ra
không dựa trên các thông tin không có liên quan hoặc không được cập
nhật. Quyền này cũng đảm bảo rằng, mọi người có thể nhận thức một
cách rõ ràng những lợi ích hoặc dịch vụ mà họ có quyền được hưởng và
xem họ có được nhận đúng và đủ các lợi ích đó không. Ở Nam Phi, các
quy định về tiếp cận thông tin trong Luật Tăng cường tiếp cận thông tin
đã cho phép các cá nhân muốn biết tại sao đơn xin vay tiền của họ bị
ngân hàng từ chối, hay các cổ đông thiểu số muốn xem hồ sơ lưu trữ
của các công ty tư nhân, hay một nhà lịch sử đang nghiên cứu về việc
một công ty phúc lợi tư nhân hoạt động như thế nào trong thời kỳ phân
biệt chủng tộc, hoặc cả việc một nhóm hoạt động môi trường muốn tìm
hiểu về ảnh hưởng của các dự án đến môi trường.
1.3. Làm cho các cơ quan và Chính phủ hoạt động tốt hơn
Luật Tự do thông tin cũng có khả năng cải thiện cách thức làm việc
của các cơ quan Chính phủ. Nếu đã biết rằng, một quyết định đưa ra sẽ
được công bố công khai thì khi dự thảo quyết định đó, các cơ quan
Chính phủ phải dựa trên các cơ sở và lý do khách quan, xác đáng. Vào
năm 1997, ủy ban Pháp luật Newzealand nhận định rằng: “Chúng tôi có
quan điểm cho rằng một chính sách được công bố công khai theo quy
định của Luật sẽ làm tăng chất lượng và tính minh bạch của chính sách
đó trong quá trình dự thảo”. Ủy ban Cải cách pháp luật và Hội đồng
Giám sát hành chính úc đã nhận định rằng: “Luật Tự do thông tin đã có
ảnh hưởng to lớn đến cách thức mà các cơ quan nhà nước ra quyết định
cũng như cách thức mà họ lưu trữ các thông tin… Luật này nhắc nhở
những người ra quyết định luôn luôn nhớ về sự cần thiết của sự ban
hành quyết định dựa trên các yếu tố có liên quan và phải lưu trữ lại toàn
bộ quá trình soạn thảo và ra quyết định. Việc nhận thức rằng, các quyết
định và quá trình ra quyết định là minh bạch và chịu sự giám sát của
công luận theo quy định của Luật Tự do thông tin sẽ tạo ra kỷ cương
vững chắc trong khu vực Nhà nước”.
Tự do thông tin được coi là một công cụ hữu hiệu trong việc phòng
chống tham nhũng bởi vì việc trao thầu và phê duyệt các giao dịch tài
chính phải được ghi lại bằng văn bản với đầy đủ các lý do, cơ sở và căn
cứ thích đáng. Ở Ấn Độ, các nhóm hoạt động xã hội cơ sở đã sử dụng
quyền được biết để tiếp cận các thông tin về các dự án, về các công
trình công cộng ở địa phương để biết về các khoản tiền đã được chi trả
như thế nào và để người dân có quyền hỏi về việc dự án đã hoàn thành
hay chưa và các khoản tiền chi cho dự án đó là bao nhiêu. Trong rất
nhiều trường hợp, số tiền thực sự chi trả trên thực tế nhỏ hơn rất nhiều
số tiền ghi trong sổ sách, đặc biệt trong trường hợp chi trả cho thân
nhân những người đã chết hoặc chi cho các dự án chưa hoàn thành.
1.4. Hàn gắn vết thương trong quá khứ
Tại nhiều quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi sang một nền dân
chủ, Luật Tự do thông tin cho phép các Chính phủ chia sẻ thông tin, tài
liệu về quá khứ và cho phép xã hội cũng như các nạn nhân và gia đình
của họ, những người đã từng bị lạm dụng và thương tổn biết và hiểu rõ
hơn những gì đã xảy ra trong quá khứ. Hầu hết các Hiến pháp mới
được sửa đổi và ban hành đều có quy định về quyền tiếp cận thông tin
của các cơ quan Chính phủ như là một quyền dân sự hay quyền con
người cơ bản.
Sau khi Liên bang Xô viết tan rã, hầu hết các quốc gia Đông Âu và
Trung Âu đã ban hành Luật quy định về việc tiếp cận các hồ sơ lưu trữ
về lực lượng cảnh sát bí mật trước kia. Ở một số quốc gia, các hồ sơ
này được công khai cho các cá nhân để họ biết được các hồ sơ đó đã
ghi gì về bản thân họ. Ở một số quốc gia khác, chỉ có các ủy ban có
thẩm quyền mới được tiếp cận các hồ sơ này để đảm bảo rằng các cá
nhân đã phục vụ trong lực lượng bí mật trước kia không được phép
tham gia Chính phủ đương nhiệm hoặc ít nhất là hồ sơ của họ cũng
được công khai. Ở Mêxicô vào năm 2002, Tổng thống Fox đã ra lệnh
công bố tất cả các hồ sơ về việc lạm dụng nhân quyền trước đây để các
gia đình có thể biết được những gì đã xảy ra đối với người thân của họ
đã bị mất tích trong quá khứ. Ở Hoa Kỳ, Cơ quan lưu trữ an ninh quốc
gia đã đưa ra hàng nghìn yêu cầu và nhận được các thông tin từ Chính
phủ Mỹ về các hồ sơ có liên quan đến việc lạm dụng nhân quyền ở
Mexico, Peru hay Chilê và sau đó cung cấp các thông tin này cho ủy
ban Sự thật của các quốc gia này (2).
2. Đặc điểm chung của các luật tiếp cận thông tin
Các Luật Tự do thông tin trên khắp thế giới có khá nhiều điểm tương
tự nhau. Điều này là do một phần là luật của một số quốc gia được ban
hành trước đây đã được sử dụng làm khuôn mẫu cho các nước khác học
tập theo. Luật Tự do thông tin của Hoa Kỳ có lẽ là một đạo luật có ảnh
hưởng nhiều nhất.
Gần đây Luật Tự do thông tin có một số sáng tạo. Các đạo luật mới
được ban hành có các quy định chưa từng có tiền lệ trong các đạo luật
trước đây như là việc chỉ định các Uỷ viên Thông tin có quyền hạn và
chức năng thi hành Luật, việc xem xét đến lợi ích công cộng trong quá
trình quyết định giữ bí mật hay công bố thông tin cũng như phạm vi
điều chỉnh đối với các cơ quan nhà nước ở mức độ rộng hơn. Các đạo
luật được ban hành trước đây cũng đang được nghiên cứu sửa đổi để bổ
sung các quy định tiến bộ này.
2.1. Các cơ quan thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật (các cơ quan
có trách nhiệm cung cấp thông tin)
Hầu hết các Luật Tự do thông tin đều tập trung điều chỉnh các cơ
quan hành pháp và hành chính tạo thành một thực thể hành pháp hiện
đại. Luật điều chỉnh các Bộ và cơ quan chịu trách nhiệm về các vấn đề
về y tế, môi trường, thi hành pháp luật, quân đội, truyền thông, giao
thông ở trung ương và các cơ quan trực thuộc ở địa phương. Tại một số
quốc gia, Luật cũng có phạm vi điều chỉnh đối với Tòa án và cơ quan
lập pháp.
Một thực tiễn điển hình được quy định trong Luật là việc đưa ra một
định nghĩa các cơ quan nhà nước rất rộng là bao hàm tất cả các cơ quan
nào thực thi chức năng của Chính phủ. Luật Tiếp cận các tài liệu hành
chính của Bồ Đào Nha áp dụng đối với “các cơ quan của Nhà nước
hoặc các khu vực tự trị có thực thi chức năng hành chính, các cơ quan,
các thiết chế nhà nước hoặc hiệp hội công cộng, các cơ quan chính
quyền địa phương, cơ quan của các hiệp hội hoặc liên minh của chính
quyền địa phương cũng như bất kỳ cơ quan có thực thi chức năng công
theo quy định của pháp luật”.
Một số quốc gia như Ireland thì quy định một danh sách cụ thể các
cơ quan nhà nước thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật. Luật sẽ đưa ra
một danh sách rõ ràng các cơ quan phải áp dụng và chịu sự điều chỉnh
của Luật và các cơ quan không phải áp dụng Luật. Tuy nhiên, cách làm
này đặt ra vấn đề là mỗi khi một cơ quan được thành lập, thay đổi tên
hoặc sửa đổi mục đích và cơ cấu tổ chức của mình thì danh sách nói
trên phải được cập nhật thông qua Quốc hội hoặc một văn bản pháp
quy mà việc này thì thường mất rất nhiều thời gian. Điều cũng có thể
gây ra một số vấn đề rắc rối trong trường hợp Chính phủ từ chối bổ
sung các cơ quan mới. Ở Ireland, cơ quan cảnh sát vẫn không thuộc
phạm vi điều chỉnh của Luật. Ở Canada có rất nhiều tranh cãi về tiếp
cận thông tin do cơ quan tư nhân hoặc cơ quan mới thành lập nắm giữ.
Một số quốc gia đã loại trừ một số cơ quan nhất định có nắm giữ các
thông tin nhạy cảm khỏi phạm vi điều chỉnh của Luật. Ở Vương quốc
Anh và Ấn Độ, các cơ quan an ninh và tình báo không thuộc phạm vi
điều chỉnh của Luật. Vấn đề đặt ra đối với việc loại trừ một số cơ quan
là ở chỗ trong khi một số thông tin mà một cơ quan nắm giữ có thể rất
nhạy cảm thì không hề có một cơ chế giám sát cần thiết đối với tất cả
hoạt động của cơ quan này để phòng chống tham nhũng, lạm dụng
quyền lực, lạm dụng thông tin, ví dụ như thông tin về các nguy cơ môi
trường. Ngoài ra, rất nhiều thông tin mà cơ quan này nắm giữ chỉ là
những thông tin thông thường như là việc mua sắm các thiết bị văn
phòng hay việc sử dụng các thẻ tín dụng hoặc ô tô công vụ. Giải pháp
tốt hơn trong trường hợp này là vẫn đưa cơ quan đó vào phạm vi điều
chỉnh và áp dụng các trường hợp ngoại lệ đối với quyền tiếp cận thông
tin để đảm bảo rằng các thông tin nhạy cảm được bảo vệ trong trường
hợp cần thiết.
Ở nhiều quốc gia, quyền tiếp cận thông tin do các tổ chức tư nhân
nắm giữ thường bị hạn chế. Ở Nam Phi, Luật Tăng cường tiếp cận
thông tin cho phép các cá nhân và các cơ quan Chính phủ được yêu cầu
tiếp cận thông tin do các tổ chức tư nhân nắm giữ nếu như điều này là
cần thiết để thi hành các quyền khác. Ở Antigua và Barbuda, Luật Tự
do thông tin năm 2004 cũng quy định về quyền này. Ở Đan Mạch, Luật
Tiếp cận các hồ sơ hành chính nhà nước áp dụng cho cả các công ty khí
đốt tự nhiên và các nhà máy điện. Pháp luật về quyền riêng tư và bảo
vệ dữ liệu tại trên 50 quốc gia có quy định về quyền tiếp cận và chỉnh
sửa các thông tin cá nhân do các cơ quan nhà nước hoặc tổ chức tư
nhân nắm giữ (3). Pháp luật bảo vệ môi trường ở hầu hết các quốc gia
cũng yêu cầu các công ty phải công bố thông tin về các mối hiểm họa
tiềm năng đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng.
2.2. Các thông tin có thể tiếp cận
Các Luật Tự do thông tin quốc gia sử dụng rất nhiều các thuật ngữ
khác nhau để mô tả các thông tin mà cá nhân có quyền tiếp cận. Các
đạo luật được ban hành từ lâu đời nói chung đều quy định về quyền tiếp
cận hồ sơ tài liệu, trong khi các đạo luật mới được ban hành thì thường
quy định về quyền thông tin. Trên thực tế, không có nhiều sự khác biệt
vì hiện nay, hầu hết các đạo luật đã định nghĩa quyền thông tin theo
nghĩa rộng nhằm bao hàm tất cả các loại thông tin mà không phụ thuộc
vào hình thức chứa đựng các thông tin đó. Tuy nhiên, tại một số quốc
gia như Thụy Điển, thuật ngữ “tài liệu chính thức” không bao gồm các
tài liệu đang trong quá trình chuẩn bị hoặc các dự thảo không được sử
dụng trong quá trình ra quyết định cuối cùng, do vậy đã thu hẹp khá
nhiều phạm vi thông tin thuộc đối tượng điều chỉnh. Ở Ấn Độ, Luật về
Quyền thông tin cũng cho phép các cá nhân được yêu cầu lấy mẫu, ví
dụ như mẫu thực phẩm được phân phối hoặc mẫu vật liệu sử dụng để
làm đường sá.
Nói chung quyền thông tin chỉ áp dụng đối với các thông tin được
ghi và lưu trữ lại. Điều có thể tạo ra một khoảng trống đối với các
thông tin được chuyển tải bằng lời nói (như một cuộc họp) đã được sử
dụng trong quá trình ra quyết định, trong khi Luật yêu cầu công khai tất
cả các thông tin được biết đến. Ở Đan Mạch, các cơ quan tiếp nhận có
nghĩa vụ phải ghi lại các thông tin quan trọng bằng lời nói có liên quan
đến một quyết định do một cơ quan khác chuyển đến. Ở New Zealand,
quyền thông tin bao gồm tất cả các thông tin mà các cơ quan nhà nước
biết đến, kể cả thông tin chưa được ghi và lưu trữ lại thì sẽ phải ghi và
lưu trữ lại nếu như có liên quan đến yêu cầu. Thực tiễn này có lợi cho
quá trình rà soát và xem xét lại các quyết định đã ban hành sau này, hạn
chế khả năng các quan chức bỏ lọt các thông tin để tránh việc phải công
bố thông tin cũng như khuyến khích việc tạo lập và lưu trữ hồ sơ một
cách tốt hơn.
2.3. Những người có quyền yêu cầu cung cấp thông tin
Hầu hết các quốc gia hiện nay đều cho phép bất kỳ ai cũng có quyền
yêu cầu cung cấp thông tin mà không tính đến việc họ có các lợi ích
pháp lý liên quan hay không, có là công dân hay cư trú tại quốc gia đó
hay không. Một số quốc gia như Phần Lan còn cho phép việc đưa ra
các yêu cầu vô danh nhằm đảm bảo rằng, người yêu cầu cung cấp
thông tin không bị phân biệt đối xử. Việc đặt ra các hạn chế nghiêm
ngặt hơn có thể làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền tiếp cận thông
tin, ví dụ như một số quan chức Ấn Độ yêu cầu phải đưa ra các chứng
cứ chứng minh mình là công dân Ấn Độ khi họ yêu cầu tiếp cận thông
tin, mặc dù biết rằng không nhiều người Ấn Độ có hộ chiếu hoặc chứng
minh thư.
2.4. Các trường hợp ngoại lệ
Gần như tất cả các Luật Tự do thông tin đều có quy định về các loại
thông tin có thể giữ bí mật, không công bố. Một số trường hợp ngoại lệ
được quy định giống nhau ở hầu hết các đạo luật. Các ngoại lệ này bao
gồm các thông tin về bảo vệ an ninh quốc gia và quan hệ quốc tế,
quyền riêng tư cá nhân, bí mật thương mại, thi hành pháp luật và trật tự
công cộng, thông tin nhận được dưới dạng mật và các cuộc thảo luận
nội bộ. Tại nhiều hệ thống pháp luật, các tài liệu được trình trong Nội
các để ra quyết định và các tài liệu lưu trữ về các phiên họp Nội các
được giữ bí mật trong một thời gian nhất định. Ở Ireland thời hạn này
là 10 năm. Ở New Zealand, tài liệu Nội các lại thường được công bố
theo yêu cầu mà không bị trì hoãn.
Hầu hết các đạo luật đều yêu cầu phải chứng minh các thiệt hại có
thể xảy ra nếu như muốn giữ bí mật thông tin. Yêu cầu phải chứng
minh thiệt hại nói chung là khác nhau tùy theo loại thông tin được bảo
hộ. Quyền riêng tư, bảo vệ quá trình ra quyết định nội bộ và an ninh
quốc gia thường được hưởng mức độ bảo hộ cao nhất.
Ngày càng có nhiều Luật Tự do thông tin ở các quốc gia có quy định
về việc xem xét “lợi ích công cộng” trong đó đặt ra yêu cầu là các cơ
quan nhà nước và các cơ quan chịu trách nhiệm giám sát việc thi hành
Luật phải cân bằng giữa lợi ích của việc giữ bí mật thông tin trong mối
quan hệ với lợi ích công cộng nếu như công bố thông tin. Điều này cho
phép công bố thông tin ngay cả trong trường hợp có thiệt hại xảy ra nếu
như lợi ích công cộng của việc công bố thông tin lớn hơn thiệt hại có
thể gây ra do công bố thông tin. Điều này thường được sử dụng trong
việc công bố thông tin tiết lộ hành vi sai phạm, tham nhũng, hoặc ngăn
chặn các mối thiệt hại xảy ra đến với các cá nhân hoặc môi trường. Ở
một số quốc gia, điều này áp dụng đối với tất cả trường hợp ngoại lệ vì
bất kỳ lí do công cộng nào.
Hầu hết các đạo luật đều quy định rằng, khi thiệt hại đã được giảm
bớt thì thông tin cần được công bố. Các đạo luật khác cũng đặt ra các
thời hạn cố định về giữ bí mật thông tin. Ở Mexico, Luật Minh bạch
liên bang yêu cầu các trường hợp ngoại lệ chỉ được áp dụng trong thời
hạn 12 năm.
Nhiều Luật Tự do thông tin quy định một cách cụ thể về việc nghiêm
cấm giữ bí mật về một số thông tin nhất định. Luật của Azerbaijan đưa
ra một danh sách rất dài các thông tin về kết quả bầu cử, các khoản trợ
cấp, các khoản bồi thường thiệt hại và số liệu thống kê. Luật Minh bạch
và Tiếp cận thông tin liên bang của Mexico quy định rằng: “Thông tin
không thể được giữ bí mật nếu như có ảnh hưởng đến các cuộc điều tra
về các hành vi vi phạm nghiêm trọng các quyền cơ bản hoặc điều tra tội
phạm chống lại loài người”. Công ước về Tiếp cận thông tin, Tham gia
của công chúng vào quá trình ra quyết định và Tiếp cận công lý đối với
các vấn đề môi trường (hay còn gọi là Công ước Aarhus) của Uỷ ban
Kinh tế Châu Âu của Liên hiệp quốc (UNECE) hạn chế khả năng của
các cơ quan Nhà nước lấy lý do các bí mật thương mại làm cơ sở từ
chối việc cung cấp thông tin về môi trường.
2.5. Khiếu nại và giám sát
Có rất nhiều cơ chế khác nhau để thực hiện quyền khiếu nại và thi
hành Luật Tự do thông tin. Các cơ chế này bao gồm việc giám sát hành
chính, giám sát của tòa án và thi hành hoặc giám sát bởi một cơ quan
độc lập. Hiệu quả của các cơ chế này là rất khác nhau. Các chuyên gia
thường có quan điểm rằng, các Uỷ ban độc lập là cơ chế giám sát hữu
hiệu nhất.
Mức độ khiếu nại đầu tiên ở gần như tất cả các quốc gia là khiếu nại
hành chính. Tuy nhiên, thực tiễn ở nhiều quốc gia cho thấy, các hệ
thống hành chính nội bộ thường có xu hướng ủng hộ việc từ chối cung
cấp thông tin và dẫn đến tình trạng trì hoãn việc cung cấp thông tin.
Trong trường hợp việc khiếu nại hành chính nội bộ đã kết thúc, bước
tiếp theo là khiếu nại đến một cơ quan bên ngoài. Trên 20 quốc gia, cơ
quan giám sát Ombudsman (thường là một quan chức độc lập do Quốc
hội chỉ định) sẽ có thẩm quyền xem xét lại các quyết định đưa ra như là
một bộ phận trong quyền hạn giám sát hoạt động hành chính của Chính
phủ.
Nhiều quốc gia thành lập Uỷ ban thông tin độc lập. Ủy ban này có
thể trực thuộc Quốc hội, trực thuộc một cơ quan Chính phủ khác hoặc
trực thuộc Văn phòng của Thủ tướng (như ở Thái Lan) hoặc là một cơ
quan độc lập hoàn toàn. Nhiều quốc gia trong đó có Vương quốc Anh,
Đức, Thụy Sỹ và Slovania đã gộp ủy ban về Tự do thông tin và ủy ban
quốc gia về Bảo vệ dữ liệu làm một. Đức và Canada cũng thực hiện
việc sáp nhập này tại các cơ quan chính quyền địa phương. Tuy nhiên,
hình thức này gần đây đã bị một Uỷ ban Chính phủ ở Canada phản đối.
Ở Ireland, ủy viên Thông tin cũng thực hiện chức năng giám sát
Ombudsman.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Uỷ ban này rất khác nhau.
Ở một số quốc gia như Canada và Pháp, ủy ban này có thẩm quyền
tương tự như cơ quan giám sát Ombudsman. Ở Slovenia, Serbia,
Ireland và Vương quốc Anh, ủy ban này có thể ra các quyết định mang
tính ràng buộc nhưng các quyết định này có thể bị khiếu nại trong một
số trường hợp hạn chế hoặc bị các Bộ trưởng phủ quyết. Ủy viên
Thông tin cũng thường được trao một số chức năng nhiệm vụ khác bên
cạnh việc giải quyết khiếu nại. Các chức năng này có thể là giám sát
chung đối với hoạt động của hệ thống, tiến hành tập huấn, đề xuất các
sửa đổi và nâng cao nhận thức của công chúng. Ở Antigua và Barbuda,
ủy viên Thông tin cũng có thể tiếp nhận thông tin từ những người tiết lộ
thông tin không được công bố.
2.6. Công bố thông tin ngay cả khi không có yêu cầu
Một đặc điểm chung của hầu hết các Luật Tự do thông tin là đều quy
định các cơ quan Chính phủ có nghĩa vụ phải cung cấp một số loại
thông tin nhất định một cách tích cực. Các thông tin này thường bao
gồm chi tiết về cơ cấu tổ chức và các quan chức chủ yếu của Chính
phủ, lời văn của các đạo luật và quy định, các đề xuất và chính sách
hiện hành, các biểu mẫu và quyết định. Các Luật Tự do thông tin mới
ban hành có xu hướng quy định cụ thể một danh sách các loại thông tin
cần phải công bố.
2.7. Các khoản lệ phí
Nhiều Luật Tự do thông tin cho phép các cơ quan Chính phủ được
thu lệ phí đối với người yêu cầu cung cấp thông tin. Các loại lệ phí
thường gặp là lệ phí nộp đơn, tìm kiếm, sao chép và lệ phí khiếu nại.
Các khoản lệ phí thường hay gây ra tranh cãi. Các khoản lệ phí có khả
năng làm giảm các yêu cầu cung cấp thông tin từ phía các cơ quan
Chính phủ. Ở Ireland, sau khi các khoản lệ phí mới được ban hành đối
với việc yêu cầu cung cấp thông tin và khiếu nại, số các yêu cầu giảm
hơn 50%. Ở Nhật Bản, các cơ quan Chính phủ thường chia một yêu cầu
thành nhiều yêu cầu khác nhau để thu lệ phí cao hơn và vượt quá khả
năng chi trả của một người dân bình thường.
Các khoản lệ phí cũng có thể tạo ra các rào cản hành chính không
cần thiết và làm giảm số các yêu cầu hơn là một cơ chế để bồi hoàn các
chi phí đã bỏ ra. Ở Ấn Độ, nhiều cơ quan đã yêu cầu phải nộp các hối
phiếu ngân hàng có giá trị gấp đôi khoản tiền lệ phí nộp đơn hoặc từ
chối việc tiếp cận thông tin bằng việc đặt ra các thủ tục hành chính
rườm rà trong việc thu lệ phí.
Các khoản lệ phí cũng có thể bị lạm dụng. Ở Canada, các cơ quan
trung ương và tỉnh thường yêu cầu các khoản lệ phí khá lớn khi tiếp
nhận yêu cầu và đây là một thách thức đối với người yêu cầu khi muốn
nhận được thông tin. Người này chỉ có thể nhận được thông tin nếu như
có đủ tiền để trả lệ phí hoặc các dịch vụ trợ giúp pháp lý khác để khiếu
nại về mức chi phí quá cao này thì mới có thể đảm bảo được quyền tiếp
cận thông tin của mình. Ủy viên Thông tin đã chỉ trích Chính phủ một
cách mạnh mẽ vào năm 2006, sau khi Chính phủ yêu cầu phải nộp 1,6
triệu đô la cho một yêu cầu mà ủy viên thấy rằng có thể thực hiện một
cách nhanh chóng thông qua việc sử dụng các phần mềm hiện có. Ở
Australia, các chi phí pháp lý để thực hiện khiếu nại hoặc khởi kiện ra
tòa quá cao, nên chỉ có vài người có khả năng chi trả để thực hiện
quyền của mình.
Trên thực tế, hầu hết các quốc gia đều có quy định cho phép thu lệ
phí và trong phần lớn các trường hợp yêu cầu, các khoản lệ phí thường
không được đặt ra bởi vì chi phí cho việc cung cấp thông tin nhỏ hơn
chi phí hành chính cho việc thu và tiếp nhận các khoản lệ phí.
Tốt nhất là nên hạn chế các khoản thu lệ phí trong việc cung cấp
thông tin và không nên thu lệ phí đối với việc khiếu nại. Một nguyên
tắc chung được thừa nhận ở tất cả các quốc gia là lệ phí không nên
được sử dụng như là một rảo cản hoặc một dụng cụ nhằm tìm kiếm lợi
nhuận.
2.8. Kết luận
Nhìn chung, Luật Tự do thông tin đều giải quyết các vấn đề cơ bản
sau đây:
- Luật áp dụng với các cơ quan công quyền nào?
- Các cơ quan công quyền có trách nhiệm thực thi như thế nào để
cung cấp thông tin và đáp ứng yêu cầu thông tin của công dân?
- Đối tượng: Ai có quyền yêu cầu tiếp cận thông tin?
- Có thể tiếp cận thông tin bằng cách nào? Quy trình tiếp cận thông
tin (bao gồm cách thức đề nghị cung cấp, thời hạn cung cấp, lý do từ
chối cung cấp)
- Thông tin gì có thể tiếp cận? Thông tin gì không?
- Các biện pháp bảo đảm quyền tiếp cận thông tin.
(1) Báo cáo về tiếp cận thông tin trên thế giới, tr.7.
(2) Báo cáo về tiếp cận thông tin trên thế giới, Tr. 8.
(3) Xem EPIC và Privacy International, Quyền riêng tư và Nhân
quyền, 2004.
TS. Nguyễn Thị Kim Thoa - Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ Tư
pháp