Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

TIỂU LUẬN:GIÁ CẢ VÀ MARKETING TRONG NÔNG NGHIỆP pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.39 KB, 34 trang )


GVGD Bùi Văn Trịnh 1 Nhóm 1.4
Cần Thơ 09/2010


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KINH TẾ-QUẢN TRỊ KINH DOANH
&




BÀI TẬP NHÓM MARKETING NÔNG NGHIỆP
GIÁ CẢ VÀ MARKETING TRONG NÔNG
NGHIỆP




Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiên
Bùi Văn Trịnh Nhóm1. 4














GVGD Bùi Văn Trịnh 2 Nhóm 1.4

LỜI MỞ ĐẦU
Trong hơn một thập kỷ qua, dưới tác động của đường lối đổi mới, nông nghiệp nông
thôn Việt Nam dã có những chuyển biến đáng kể, nhiều tiềm năng trong nông thôn đã được
khai thác có hiệu quả, vấn đề lương thực đã được giải quyết, cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển
dịch theo xu hướng tiến bộ, sự đa dạng về sản phẩm và mô hình phát triển kinh tế xuất hiện ở
nhiều nơi. Từ một nước nghèo đói, lạc hậu Việt Nam đã vươn lên là nước xuất khẩu gạo đứng
thứ 2 trên thế giới, từng bước khẳng định được vị trí của mình trên trường quốc tế. Tuy nhiên
để tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ của nông nghiệp cần phải giải quyết được hàng loạt vấn
đề bất cập trong quá trình phát triển nông nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp nông nghiệp cho
rằng chỉ cần tập trung mọi cố gắng sản xuất nhiều sản phẩm, tăng năng suất cây trồng vật
nuôi, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật là chắc chắn thắng lợi. Họ không hề quan tâm đến
nhu cầu thị trường đang cần gì. Điều đó cho thấy giữa người sản xuất, các doanh nghiệp nông
nghiệp và người tiêu dùng vẫn còn một khoảng cách rất lớn. Khi người nông đân được mùa
thì giá cả thị trường giảm xuống và ngược lại, họ luôn phải đối mặt với nỗi lo được mùa mất
giá. Vì thế mà ngành nông nghiệp nước ta cứ mãi loay hoay tìm cách giải bài toán “trồng –
chặt, chặt – trồng”. Trong khi đó, trong cơ chế thị trường muốn hoạt động có hiệu quả đòi hỏi
người sản xuất phải tìm hiểu nhu cầu thị trường thật kỹ trước khi có quyết định sản xuất sản
phẩm gì. Điều này đòi hỏi các nhà sản xuất phải có hoạt động marketing để tìm cách kết nối
hoạt động sản xuất của mình với thị trường, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh hướng theo
thị trường, lấy thị trường nhu cầu và ước muốn của khách hàng làm căn cứ quan trọng cho
mọi quyết định sản xuất. Chính vì thấy được sự quan trọng của giá cả và khâu marketing
trong nông nghiệp mà nhóm chúng em quyết định chọn đề tài “Giá cả và marketing trong
nông nghiệp” để giúp người đọc có cái nhìn cụ thể hơn về quy luật cung - cầu và việc hình
thành giá cả, sự quan trọng của marketing trong kinh doanh, về mối quan hệ của marketing và
giá cả để từ đó có quyết định sản xuất và chính sách giá phù hợp. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này

qua một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu mạnh của Việt Nam đem lại nguồn thu
ngoại tệ lớn cho đất nước, đó chính là cà phê.





GVGD Bùi Văn Trịnh 3 Nhóm 1.4

CHƯƠNG 4
GIÁ CẢ VÀ MARKETING TRONG NÔNG NGHIỆP

I. GIÁ CẢ TRONG THỊ TRƯỜNG CẠNH TRANH
1.1 Đặc điểm của giá cả trong kinh doanh nông nghiệp
Sản phẩm nông nghiệp luôn giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Nó là sản phẩm
thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của con người, là nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp chế
biến, tham gia xuất khẩu. Trong từng hoàn cảnh cụ thể, giá cả nông sản ngoài những đặc điểm
chung của giá cả thị trường còn có những đặc điểm riêng chi phối đến sự lựa chọn và các
quyết định về giá của doanh nghiệp nông nghiệp.
Có nhiều cách tiếp cận để thể hiện vấn đề này, ở đây trong giới hạn kinh doanh nông
nghiệp, đề cập đến những giá cả nông sản qua hai loại hàng hóa nông sản chủ yếu là nông sản
tiêu dùng trực tiếp và nông sản tiêu dùng qua trung gian (chế biến, dịch vụ,…)
1.1.1 Đặc điểm của giá cả nông sản tiêu dùng trực tiếp
Nông sản tiêu dùng trực tiếp là nông sản tươi sống, được các doanh nghiệp tiêu thụ
trực tiếp cho các tổ chức và cá nhân cho những mục tiêu nhất định.
Gía cả của nông sản trực tiếp có biến động lớn và chứa đựng nhiều rủi ro. Điều đó có
thể do những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Do sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ, làm cho cung sản phẩm đó tập trung tại
những giai đoạn nhất định, điều này chi phối đến quan hệ cung cầu của nông sản.
- Nhu cầu tiêu dùng sản phẩm nông nghiệp chịu sự chi phối của yếu tố thời tiết. Ví

dụ: những sản phẩm thanh nhiệt được tiêu dùng nhiều vào mùa nóng, khi nhiệt độ cao. Ngược
lại khi lạnh, nhiệt độ thấp nhu cầu của sản phẩm đó giảm xuống.
- Quan hệ cung cầu của sản phẩm trực tiếp rất đa dạng và phong phú. Nó bị chi phối
bởi yếu tố tâm lý, phong tục tập quán trong tiêu dùng chẳng hạn lúc nào người mua cũng thích
hàng hóa tươi ngon đa số các bà nội trợ thích sử dụng nguyên liệu tươi ở chợ để chế biến thức
ăn.
- Các loại sản phẩm này thường trao đổi diễn ra trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo,
nhiều người mua, nhiều người bán, giá cả là giá thị trường, độ co giãn cầu theo giá giá thấp.
- Ngoài ra còn nhiều nguyên nhân khác như tác động của tiến bộ kỹ thuật, sự xuất
hiện của những sản phẩm thay thế,…


GVGD Bùi Văn Trịnh 4 Nhóm 1.4

Đối với sản phẩm này có nhiều mức giá:
+ Giá mùa vụ (giá cả khác nhau đầu, chính, cuối vụ)
+ Giá khu vực (giá cả khác nhau giữa các khu vực)
+ Giá cả theo loại sản phẩm (giá cả khác nhau do phẩm cấp, do chất lượng sản
phẩm)
+ Thậm chí khác nhau tại từng thời điểm trong ngày…
Trên thị trường giá nông sản trực tiếp có xu hướng giảm.
1.1.2 Đặc điểm của giá cả nông sản tiêu dùng qua trung gian
Nông sản tiêu dùng qua trung gian là những sản phẩm nông nghiệp đã được các tổ
chức trung gian làm thay đổi thuộc tính của sản phẩm hoặc bổ sung những dịch vụ cho sản
phẩm để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của khách hàng.
Giá nông sản tiêu dùng qua trung gian có những đặc điểm chủ yếu sau:
+ Có tính ổn định tương đối
+ Có xu thế tăng do tăng thêm các yếu tố dịch vụ trong khâu trung gian.
Ví dụ: Cà phê là nông sản tiêu dùng qua trung gian nên giá của cà phê cũng tương đối
ổn định. Chúng ta tham khảo Bảng giá cà phê dưới đây:


Giá cà phê trong nước
ĐVT:VND/ kg; giá FOB: USD/ tấn
TT nhân xô

Giá trung bình Thay đổi
1/9/2010 15/09/2010 21/09/2010 1/9/2010

15/09/2010
21/09/2010
ĐakLak
28,200
– 28,400

28,100 – 28,300

29,000

29,200
+ 100
+ 400
-
300
Lâm Đồng
28,200
– 28,400

28,100 – 28,300

29,000


29,200
+ 100
+ 400
-
300
Gia Lai
28,100
– 28,300

28,000 – 28,200

28,900

29,100
+ 100
+ 400
-
300
Đaknông
28,100
– 28,300

28,100 – 28,200

28,900

29,100
+ 100
+ 400

-
300
FOB ( HCM)

1,500
1,510
1,575
Tr
ừ lùi 100

Tr
ừ lùi 80

Trừ lùi 80

Tỷ giá
USD/VND
19,607 19,607

19,607


Nhìn chung giá cà phê biến động rất ít trong thời gian ngắn


GVGD Bùi Văn Trịnh 5 Nhóm 1.4

1.2 Giá cả trong khoảng thời gian rất ngắn
Trong quá trình tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp luôn chịu chi phối từ phía thị
trường, từ các đối thủ cạnh tranh Trong hoàn cảnh đó, giá cả là công cụ đắc lực, tạo điều

kiện cho các doanh nghiệp vượt qua áp lực thị trường, cũng như các đối thủ cạnh tranh. Tuy
nhiên, cũng phải nhận thấy rằng cạnh tranh về giá là cạnh tranh sống còn, sắc bén giữa các
doanh nghiệp trên thị trường cạnh tranh. Đặc biệt, với sản phẩm nông nghiệp giá cả biến động
rất lớn và chứa đụng nhiều rủi ro khiến người sản xuất và người tiêu thụ sản phẩm khó có thể
đoán trước và quyết định giá bán chính xác.
Trong một khoảng thời gian rất ngắn thì cung sản phẩm hoàn toàn không co giãn. Đối với
loại sản phẩm này có nhiều mức giá:
- Giá mùa vụ (giá cả khác nhau đầu, chính, cuối vụ)
- Giá khu vực (giá cả khác nhau giữa các khu vực)
- Giá theo loại sản phẩm (giá cả khác nhau do phẩm cấp, do chất lượng sản phẩm)
-Thậm chí giá có sự khác nhau tại từng thời điểm trong ngày
Trên thị trường giá nông sản tiêu dùng trực tiếp có xu hướng giảm, mùa thu hoạch sản
lượng nông sản thường được cung ra thị trường đồng loạt làm cho giá sản phẩm bị giảm. Đặc
biệt, nông sản là loại sản phẩm khó tồn trữ, nếu như không dược tiêu thụ sớm sẽ bị thất thoát,
chất lượng giảm và chi phí tồn trữ tăng lên. Tuy nhiên đối với một số nông sản được tiêu dùng
qua trung gian thì giá cả có tính ổn định tương đối và có thể tăng nhờ các yếu tố dịch vụ trong
khâu trung gian. Khi sản phẩm được tiêu thụ hết trong một khoảng thời gian rất ngắn và nhu
cầu về sản phẩm đó còn cao thì những hàng được tồn trữ sẽ đạt được mức giá cao. Từ đó,
cung và cầu trở nên co giãn nhiều hơn nhờ vào khả năng tồn trữ.
Với muc tiêu tăng tối đa mức tiêu thụ, một số doanh nghiệp tin rằng khối lượng tiêu thụ
càng lớn thì chi phí sản xuất một đơn vị sản phẩm càng thấp và lợi nhuận lâu dài càng cao.
Với quan điểm này các doanh nghiệp thường ấn định mức giá thấp với hi vọng mở rộng thị
trường và tăng khối lượng tiêu thụ. Theo mục tiêu này các doanh nghiệp chấp nhận lợi nhuận
trên một đơn vị sản phẩm thấp nhưng tổng lợi nhuận và lâu dài lợi nhuận sẽ cao hơn do bán
được nhiều hàng. Tuy nhiên việc định giá thấp chỉ diễn ra trong những điều kiện: thị trường
rất nhạy cảm với giá, giá thấp kích thích thị trường, tăng trưởng, giá thấp phải đi liền với tiết
kiệm chi phí sản xuất và lưu thong đồng thời với việc tích lũy kinh nghiệm trong sản xuất
kinh doanh.



GVGD Bùi Văn Trịnh 6 Nhóm 1.4
1.3 Ngắn hạn
Ngắn hạn là khoảng thời gian mà một hoặc nhiều nhân tố sản xuất là cố định về số lượng
và không thể thay đổi. Trong một nền kinh tế động các nhân tố ảnh hưởng đến cung và cầu
cũng thay đổi. Do đó giá cả cân bằng thay đổi theo thời gian. Khi thu nhập thay đổi làm dịch
chuyển đường cầu,trong đó giá cả đầu vào làm dịch chuyển đường cung.
Cà phê là một mặt hàng có giá biến động rất lớn trên thị ttrường thế giới. Việc biến động
của giá do tác động của nhiều nguyên nhân nhưng trong đó chủ yếu do tác động của quan hệ
cung - cầu. Khi cung vì một lí do nào đó đáp ứng không đủ cầu thì giá lập tức lên cao . Ngược
lại khi cung dư thừa thì giá bị kéo xuống thảm hại. Năm 2001 giá cà phê xuống đến mức thấp
nhất trong vòng 40 năm. Năm 1999 giá cà phê Robusta vẫn khá cao,1300USD/tấn ;nhưng đến
tháng 1-2000 đã giảm xuống còn 948USD/tấn ; đến tháng 12-2000 chỉ còn 638USD/tấn và
trong năm 2001 chỉ còn 500USD/tấn. Tương tự giá cà phê Arabica ở mức 2000USD/tấn năm
2000 giảm xuống còn xấp xỉ 1000USD/tấn vào năm 2001.Do sản xuất tăng dẫn đến tình trạng
cung vượt cầu . Trong lúc đó tăng trưởng kinh tế của các nước nhập khẩu cà phê chính như
Mỹ, Đức, Italia và Nhật Bản vẫn ở mức thấp làm cho nhu cầu tiêu dùng cà phê thế giới tăng
chậm, chỉ vào khoảng 0,96%/năm. Trong khi đó lượng sản xuất của năm 2001 tăng 5,2% và
lượng giao dịch tăng 1,1% so với năm 2000.
Trong những năm gần đây, tiêu thụ cà phê trên thị trường thế giới liên tục tăng. Trong
giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2008, nhu cầu cà phê từ các thị trường truyền thống như Bắc
Mỹ và châu Âu đã tăng 0,9% lên 68,6 triệu bao, trong khi đó tiêu thụ tại các nước sản xuất
tăng 3,8% lên 35,9 triệu bao. Nhu cầu đặc biệt tăng nhanh tại các nền kinh tế đang nổi, tới
5,5%.Hiện tiêu thụ tại những nước sản xuất cà phê chiếm 26% tổng tiêu thụ cà phê toàn cầu,
tiêu thụ tại các nền kinh tế đang nổi chiếm 18%. Sản lượng cà phê của Việt Nam hiện chiếm
gần 15% tổng sản lượng toàn cầu, là nhà sản xuất và xuất khẩu cà phê Robusta lớn nhất thế
giới.Trong năm 2009, nguồn cung Arabica yếu cộng với sự suy yếu của đồng USD đã khiến
loại cà phê này tăng giá tới 25% Nguồn cung yếu hơn trong khi triển vọng nhu
cầu cà phê thế giới sẽ tăng bất chấp cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu chưa chấm dứt
hoàn toàn sẽ hỗ trợ cho giá, đặc biệt là loại Arabica. Nguồn cung thiếu sẽ đẩy giá cà phê lên
cao.

Trong khi đó nỗi lo dư cung lại khiến cà phê Robusta mất 9% giá trị người dân lo ngại về
giá cà phê xuống thấp, nên không còn tâm lý giữ hàng. Lượng hàng bán ra càng nhiều thì làm
cho giá sẽ giảm. Nguyên nhân quan trọng dẫn đến đà tụt giảm giá cà phê là trong một thời
điểm ngắn thị trường bán ra quá nhiều dẫn đến tình trạng cung vượt cầu.

GVGD Bùi Văn Trịnh 7 Nhóm 1.4
Để khắc phục phần nào tình trạng trên các nước sản xuất cà phê đã có nhiều cố gắng
nhằm giảm thiểu biến động bất lợi của giá cà phê thế giới .
2. MARKETING TRONG KINH DOANH NÔNG NGHIỆP
2.1 Khái niệm:
Khoản chênh lệch marketing có thể được định nghĩa theo các cách sau:
(a*) Khoản chênh lệch marketing là khoản chênh lệch giữa giá người tiêu dùng cho sản
phẩm và giá người sản xuất nhận được khi bán sản phẩm.
(b*) Khoản chênh lệch marketing là giá của một tổ hợp các dịch vụ marketing được xác
định bởi cung và cầu của dịch vụ đó.
Trong chương trình này ta chỉ quan tâm đến định nghĩa (a*): Khoản chênh lệch marketing
là khoản chênh lệch giữa đường cầu ban đầu và đường cầu phát sinh đối với một số sản phẩm
nào đó.
2.2 Những đặc điểm chủ yếu của Marketing nông nghiệp
Nông nghiệp là ngành sản xuất có nhiều đặc điểm khác biệt so với nhiều ngánh sản xuất
khác. Những nét đặc thù của sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp tạo nên những đặc
điểm riêng của Marketing nông nghiệp.
2.2.1 Sản phẩm của ngành nông nghiệp phần lớn là sản phẩm đáp ứng nhu cầu
cơ bản của con người trong đó chủ yếu là lương thực thực phẩm
Đặc điểm này dẫn đến một thực tế là cầu về lương thực thực phẩm là vô cùng đa
dạng, phong phú có xu hướng biến động từ số lượng sang chất lượng, từ sản phẩm tiêu dùng
trực tiếp sang sản phẩm chế biến, từ sản phẩm vật chất sang đi kèm các yếu tố dịch vụ… Tùy
theo trình độ phát triển của đời sống mà nhu cầu tiêu dùng lương thực thực phẩm rất khác
nhau, mặt khác, do phần lớn là nhu cầu cơ bản nên ít co giãn theo giá cả. Thị trường cung cầu
về lương thực thực phẩm phần lớn là thị trường cạnh tranh hoàn hảo.

Trong điều kiện như vậy, để nâng cao cạnh tranh, hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp cần hết sức coi trọng nắm bắt xu thế biến động của nhu cầu tìm mọi cách thõa mãn
nhu cầu mới, hết sức coi trọng việc tạo ra sự khác biệt về sản phẩm, chất lượng sản phẩm và
chất lượng dịch vụ liên quan làm phong phú da dạng sản phẩm và dịch vụ để thỏa mãn nhu
cầu của nhiều nhóm khách hàng khác nhau.

2.2.2 Sản phẩm nông nghiệp là những sản phẩm tự nhiên hoặc có nguồn gốc tự
nhiên, có những tố chất cần cho sự sống và sức khỏe của con người. Mỗi sản phẩm có
mùi, vị, màu sắc đặc trưng. Việc tiêu dùng thường hình thành thói quen của con người.

GVGD Bùi Văn Trịnh 8 Nhóm 1.4
Đặc điểm này đòi hỏi Marketing nông nghiệp phải chú ý:
- Dù là sản phẩm tiêu dùng trực tiếp hay sản phẩm qua chế biến phải đảm bảo những
yếu tố về dinh dưỡng và độ an toàn cho người sử dụng.
- Vì là sản phẩm có nguồn gốc tự nhiên nên trong quá trình chế biến có thể bổ sung
thêm một số đặc điểm khác về mùi, vị, màu sắc nhưng không được làm thay đổi bản chất tự
nhiên của sản phẩm.
- Để đảm bảo thói quen tiêu dùng của khách hàng đối với một sản phẩm cụ thể, đòi
hỏi các nhà cung ứng phải đảm bảo duy trì các chất lượng đặc trưng của sản phẩm. Đây là vấn
đề hết sức khó trong thực tế nhưng lại là bí quyết thành công của nhiều nhà kinh doanh về
lương thực thực phẩm.
- Sản phẩm lương thực thực phẩm, đa phần thường dễ hư hỏng vì vậy cần phải có hệ
thống vận tải chuyên dùng, kho tàng bảo quản và công nghệ chế biến phù hợp và cẩn công
khai thời hạn sử dụng để đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng.
2.2.3 Việc sản xuất và cung ứng các sản phẩm nông nghiệp có tính thời vụ và địa
phương khá cao.
Đặc điểm này dẫn đến một thực tế cung - cầu sản phẩm nông nghiệp nhiều lúc không
gặp nhau gây bất lợi cho cả người sản xuất và người tiêu dùng. Vì vậy, Marketing đòi hỏi:
- Các nhà sản xuất phải tìm cách kéo dài mùa vụ bằng cơ cấu giống cây, con hợp lý,
bằng sản xuất trái vụ và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật nhằm khắc phục tính thời vụ.

- Các nhà trung gian phải có phương tiện và kế hoạch dự trữ, chế biến và bảo quản
sản phẩm.
- Các nhà phân phối phải mở rộng thị trường đưa sản phẩm từ nơi thừa đến nơi thiếu
thực hiện tốt việc sản xuất và cung ứng các sản phẩm có tính địa phương và đặc sản.
2.2.4 Hoạt động sản xuất kinh doanh nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện
tự nhiên
Đặc điểm này đòi hỏi Marketing nông nghiệp phải có phương án chống rủi ro bằng
cách mở rộng phạm vi kinh doanh, mở rộng thị trường và đặc biệt gắn kết với hoạt động bảo
hiểm, trước hết đối với những mặt hàng chủ yếu của doanh nghiệp.
2.2.5 Một bộ phận của sản phẩm nông nghiệp được sản xuất và tiêu dùng làm
giống cây trồng và giống gia súc, làm tư liệu sản xuất cho công nghiệp chế biến.
Đặc điểm này đòi hỏi phải có chiến lược riêng và thường được Nhà nước quản lý
giám sát chặt chẽ vì đó là những sản phẩm tư liệu sản xuất đặc biệt của nông nghiệp. Bộ phận
sản phẩm nông nghiệp làm tư liệu sản xuất cho công nghiệp chế biến phải phù hợp với yêu

GVGD Bùi Văn Trịnh 9 Nhóm 1.4
Lượng cung cấp
Giá c


cầu kỹ thuật của công nghiệp chế biến và những đòi hỏi khắt khe về số lượng, chất lượng của
nguyên liệu đầu vào của công nghiệp chế biến từng loại sản phẩm.
2.3. Cung trong nông nghiệp
2.3.1 Đặc điểm của cung nông sản:
Nông sản hàng hóa được sản xuất từ nông nghiệp do vậy cung nông sản hàng hóa có
những đặc điểm khác biệt so với ngành khác là:
- Cung nông sản hàng hóa không đáp ứng tức thời (cung chậm hay cung nhanh).Điều
này trong thực tiễn thường xảy ra tình trạng khi thị trường có nhu cầu về một nông sản hàng
hóa nào đó thì các nhà sản xuất không thể đáp ứng ngay vì cần phải trải qua quá trình sản xuất
với chu kì tự nhiên của sinh vật. Ngược lại khi thị trường không có nhu cầu về môt nông sản

nào đó thì các nhà sản xuất không thể kết thúc ngay quá trình sản xuất. Điều này thường dẫn
đến tình trạng cung cầu nông sản không gặp nhau gây nên tình trạng biến động về giá cả
thường xuyên trên thị trường.
- Cung nông sản hàng hóa chậm thay đổi về số lượng, chất lượng, mẫu mã. Nông sản
hàng hóa trước hết là sản vật tự nhiên phải chịu sự chi phối rất nhiều của các qui luật tự nhiên
khách quan. Như con người phải cần thời gian nhiều mới tạo ra giống cây trồng có năng suất
và chất lượng mới.
- Sự thay đổi về cung đối với một nông sản hàng hóa cụ thể là rất khó xác định chính
xác. Điều này là do sản xuất nông sản thường diễn ra trên qui mô rộng lớn lại rất phân tán nhỏ
lẻ ở nhiều vùng, khu vực. Hơn nữa kết quả sản xuất sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết
khí hậu, tâm lý, và quyết định của từng nhà sản xuất. Vì vậy, khi quyết định sản xuất sản
phẩm nào đó, các cơ sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp rất khó dự đoán được lượng cung
của sản phẩm đưa ra thị trường.
- Cung nông sản hàng hóa có tính thời vụ, ít đàn hồi so với giá, cung của loại sản
phẩm này có thể thay thế bằng loại sản phẩm khác. Đặc điểm này là do đặc điểm của sản xuất
nông nghiệp, và đặc điểm tiêu dung sản phẩm quyết định. Điều đó cũng gây không ít khó
khăn cho hoạt đông Marketing nông nghiệp.
2.3.2 Các yếu tố ảnh hưởng
đến cung trong nông sản
- Điều kiện tự nhiên: sản
phẩm nông nghiệp chịu ảnh hưởng
trực tiếp bởi điều kiện khí hậu thời

GVGD Bùi Văn Trịnh 10 Nhóm 1.4
tiết. Sự khan hiếm các loại nông sản thường xuất hiện lúc cuối vụ. Trái lai, lúc chính vụ sản
phẩm lại dư thừa. Những năm thời tiết thuận lợi thì sản phẩm cung cấp nhiều và ngược lại
những năm thiên tai lũ lụt, dịch bệnh thì cung bị thu hẹp đáng kể. Chính điều này gây nên
những bất cặp cho nhà sản xuất lẫn người tiêu dùng.
- Trình độ khoa học công nghệ, ứng dụng tiến bộ kĩ thuật vào sản xuất, qui mô nguồn
lực sản xuất, trình độ chuyên môn hóa, ứng dụng tiến bộ kĩ thuật vào các vùng, các cơ sở sản

xuất kinh doanh nông nghiệp, có ảnh hưởng trực tiếp đến cung nông sản hàng hóa.
- Các chính sách hỗ trợ, khuyến khích của chính phủ, các cơ sở hạ tầng, các quan hệ
hợp tác giữa các tác nhân tham gia vào dây truyền Marketing nông nghiệp.
- Sức mua của người tiêu dùng và hiệu quả kinh doanh đối với người sản xuất và nhà
trung gian. Mức độ cạnh tranh trên thị trường và năng lực cạnh tranh các danh nghiệp tham
gia vào quá trình cung ứng sản phẩm nông nghiệp.
2.3.3 Các dạng đường cung trong marketing nông nghiệp
Khái quát đường cung
Quan hệ giữa lượng cung và giá cả có thể thể hiện thông qua đường cong cung ứng
(hay đường cung). Đây là một đường dốc lên phía phải trong một hệ trục tọa độ với trục tung
là các mức giá cả và trục hoành là các lượng cung cấp. Khi giá cả tăng lên, nhà sản xuất sẽ
tăng lượng cung hàng hóa (sản lượng). Như hình vẽ cho thấy, sự thay đổi này diễn ra dọc theo
đường cung. Kinh tế học gọi đó là sự dịch chuyển dọc theo đường cung.
Mức độ nhạy cảm trong thay đổi của lượng cung khi giá cả thay đổi gọi là độ co dãn
của cung theo giá cả. Đây chính là độ dốc của đường cung. Độ co dãn càng lớn thì độ dốc của
đường cung càng nhỏ.
Hình bên dưới thể hiện việc cung ứng sản phẩm. Đường cung sản phẩm của nông trại
là đường cung ban đầu vì mọi loại lương thực thực phẩm đều do nông trại cung cấp. Đường
cung phát sinh là đường ở các thị trường tiêu thụ. Nó bằng với đường cung ban đầu cộng thêm
khoản chênh lệch thị trường.







P
0


Hình 2.1: Đường cung phát sinh và đường cầu ban đầu
Q
o

Q
1

C
D
Q
B
P
f



P
r

P
f

P
r



Cung phát sinh
Cung ban đầu


GVGD Bùi Văn Trịnh 11 Nhóm 1.4



2.4 Cầu trong nông nghiệp
2.4.1 Đặc điểm về cầu trong thị trường nông sản hàng hoá
Cầu nông sản hàng hoá là khối lượng sản phẩm nông nghiệp mà khách hàng cần mua
và tiêu dùng một thời gian nhất định với giá cả nhất định. Cầu nông sản hàng hoá có đặc
điểm như sau:
- Cầu nông sản hàng hoá rất đa dạng, có tính liên tục và luôn thay đổi theo thời gian,
tính đa dạng của cầu và cơ chế cầu nông sản hàng hoá phụ thuộc vào tính đa dạng nhu cầu của
người tiêu dùng .Con người luôn có nhu cầu về ăn nhưng nhu cầu dinh dưỡng lại luôn khác
nhau , chính điều đó làm cho tính đa dạng trong nhu cầu và cơ cấu nhu cầu. Vì thế các nhà sản
xuất cà phê phải không ngừng nghiên cứu tạo ra nhiều chủng loại cà phê mới với chất lượng
cao đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú của khách hàng
- Cầu nông sản hàng hoá gắn liền với đời sống vật chất của con người, có ảnh hưởng
trực tiếp đến sức khoẻ con người. Khi mức sống của người dân tăng cao thì việc tiêu thụ các
mặt hàng không nhất thiết cho cuộc sống hằng ngày cũng tăng lên, ngược lại nếu mức sống
của người dân giảm xuống thì đồng nghĩa viêc tiêu thụ các mặt hàng không nhất thiết cho
cuộc sống như cà phê cũng giảm xuống.
- Cầu nông sản hàng hoá có thể thay thế cho nhau .Tính thay thế thường rõ rệt hơn các
sản phẩm khác , người ta không thể thay thế tivi cho tủ lạnh nhưng có thể thay thế thịt bò
bằng thịt lợn và tất nhiên người ta cũng có thể thay thế cà phê bằng chè hoặc các thức uống
khác.
- Cầu nông sản hàng hoá có thể thay đổi theo mùa vụ. Cầu cà phê tăng vào những dịp
lễ, tết,…
Các yếu tố ảnh hưởng đến cầu nông sản hàng hoá
Cầu nông sản hàng hoá phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau.
- Trước hết cầu cà phê phụ thuộc nhiều vào đặc điểm về giới tính , tâm lý, tuổi tác và
các đặc tính khác thuộc văn hoá xã hội của con người .

- Cầu cà phê phụ thuộc vào thu nhập, vào khả năng thanh toán của người tiêu dùng.
Nếu mặt hàng mà người mua có nhu cầu là các loại cà phê thông thường hoặc xa xỉ ( cà phê
chồn) hay cao cấp, thì khi thu nhập của anh ta tăng, lượng cầu mặt hàng này cũng tăng.

GVGD Bùi Văn Trịnh 12 Nhóm 1.4
- Nếu người tiêu dùng ban đầu có nhu cầu là các loại cà phê thuộc dạng thứ cấp ( giá
rẽ), thì khi thu nhập của người mua tăng, lượng cầu mặt hàng lại giảm vì anh ta khá giả hơn
nên sở thích thay đổi.
- Mức độ nhạy cảm của thay đổi về lượng cầu của một mặt hàng khi thu nhập của
người mua thay đổi gọi là độ co dãn của nhu cầu theo thu nhập.
- Cầu cà phê phụ thuộc vào tập quán, phong tục, thoái quen tiêu dùng của các nhóm
khách hàng .Các phong tục ,tập quán, tôn giáo có tác dụng quy định hành vi tiêu dùng của
khách hàng. Chính vì những đặc điểm trên mà các nhà cung cấp sản phẩm cần tìm hiểu thật
kỹ về thị trường mà mình muốn thâm nhập.
Kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam
Đơn v
ị tính: Tấn
(Nguồn: Theo số liệu thống kê chính thức từ Tổng cục hải quan)
- Cầu cà phê cũng phụ thuộc vào giá cả hàng hoá. Giá thấp thì nhu cầu tăng, và
ngược lại, nếu giá tăng cao thì nhu cầu giảm.
Sự biến động giá và sản lượng cà phê 2007 - 2009
Năm 2007 2008 2009
Giá (USD/tấn) 1255 1993 1462
Lượng (nghìn tấn) 1229 1059 1184
( Nguồn Tổng cục thống kê)
- Cầu phụ thuộc vào sở thích của người tiêu dùng.Giả định các yếu tố khác không thay
đổi, khi người tiêu dùng thay đổi sở thích của mình đối với mặt hàng nào đó, thì lượng cầu
của hàng hóa đó sẽ thay đổi theo. Ví dụ, nếu người tiêu dùng trở nên không thích đồ uống có
ga, và giả định các yếu tố khác trong đó có giá cả mặt hàng này không đổi, thì lượng cầu về
Nước 2008 2009

Đức 136.023

136.248

Mỹ 106.393

128.050

Italia 86.438

132.283

Bỉ 88.456

96.190

Nước khác 536.69

487.23

Tổng cộng 954000

980000


GVGD Bùi Văn Trịnh 13 Nhóm 1.4
đồ uống có ga sẽ giảm đi. Khi đó người tiêu dùng sẽ hướng sang những mặt hàng thức uống
không có ga khác trong đó có sản phẩm cà phê.
- Lượng cầu một mặt hàng không chỉ chịu tác động từ giá cả của chính nó, mà còn từ
giá cả của các mặt hàng khác. Trong sản phẩm cà phê ta giả sử các yếu tố trong sản phẩm

không thay đổi.
- Lượng cầu của một hàng hoá sẽ giảm, khi giá cả của những mặt hàng thay thế cho
nó hạ xuống. Ví dụ, lượng cầu về cà phê có thể giảm, nếu giá của các loại thức uống khác hạ
xuống.
- Lượng cầu một mặt hàng sẽ giảm, khi giá cả của những mặt hàng bổ sung cho nó
tăng lên. Ví dụ, lượng cầu về cà phê có thể giảm nếu giá cho các mặt hàng bổ sung cho nó
tăng lên như: đường, sữa,…
Chính vì các đặc điểm và yếu tố ảnh hưởng đến đến cầu nông sản hàng hoá mà các
nhà hoạt động Marketing cần nghiên cứu kỹ đặc điểm của từng loại thị trường mục tiêu để có
các biện pháp tiếp cận và cung ứng sản phẩm phù hợp nhất.









2.4.2 Các dạng đường cầu trong marketing nông nghiệp:
Đường cong cầu dốc xuống.
Giá cả tăng, lượng cầu giảm. Đây là sự
dịch chuyển dọc theo đường cầu
Để cho đơn giản, người ta
thường cố định các yếu tố như giá cả
các mặt hàng khác, mức thu nhập của
người tiêu dùng, thời tiết, v.v và chỉ
tập trung vào xem xét quan hệ giữa giá

ợng cầu


Giá
Hình 2
.2

M
ối quan hệ giữa l
ư
ợng cầu v
à giá


GVGD Bùi Văn Trịnh 14 Nhóm 1.4
cả một mặt hàng với lượng cầu về nó rồi biểu diễn quan hệ này bằng đường cong cầu. Đường
này được đặt trong một trục tọa độ hai chiều với trục tung là mức giá và trục hoành là lượng
cầu. Đường cong cầu của một mặt hàng bình thường sẽ là một đường dốc xuống phía phải,
bởi vì quan hệ giữa giá cả và lượng cầu là quan hệ nghịch. Giá cả tăng thì lượng cầu giảm,
còn khi giá cả giảm thì lượng cầu sẽ tăng lên. Kinh tế học gọi đó là sự dịch chuyển dọc theo
đường cầu. Quan hệ bình thường này đôi khi được gọi là quy tắc cầu.









Đường cầu ban đầu là đường cầu của người tiêu thụ đối với một sản phẩm.
Với P

r
: giá bán lẻ sản phẩm (Retail Price).
Ứng với giá bán lẻ P
r
thì người tiêu dùng tiêu thụ một sản lượng Q
0
và với giá bán lẻ
P
r'
thì người tiêu dùng sẽ tiêu thụ một sản lượng Q
1
.
Ta có dường cầu ban đầu đi qua 2 điểm A, B.



Đường cầu phát sinh là đường cầu của sản phẩm ở nông trại/ người sản xuất.
(Đường cầu này bắt nguồn từ nhu cầu của người tiêu thụ.)
P
f
: giá ở nông trại (Farm Price).
Ứng với giá P
f
thì người tiêu dùng tiêu thụ một sản lượng Q
0
và với giá P
r'
thì người
tiêu dùng sẽ tiêu thụ một sản lượng Q
1

. Ta có được đường cầu phát sinh đi qua 2 điểm C, D.





Q
0

Q
1

Q

0

Đường cầu ban đầu
Q
P
Pr
P
A
B
P
Pf
C
D
Đường cầu phát sinh
Q
0

Q
1
Q
0

Pr'

Pr

P

A

B

Đư
ờng cầu ban đầu

Hình 2.3. Đường cầu ban đầu

GVGD Bùi Văn Trịnh 15 Nhóm 1.4



Hình 2.4 Sự dịch chuyển của đường cầu
- Khoản cách AC chính là khoản cách chênh lệch giữa giá bán lẻ sản phẩm P
r
và giá ở
nông trại P
f

, với lượng sản phẩm được tiêu thụ là Q
0.

- Nếu sản phẩm tiêu thụ một lượng là Q
1
thì khoản chênh lệch giữa giá bán lẻ sản phẩm
P
r'
và giá ở nông trại P
f'
là khoản cách BD.
VD: Các dạng đường cầu trong marketing sản phẩm cà phê










Hình 2.5 Đường cầu ban đầu của sản phẩm cà phê
Đường cầu ban đầu là đường cầu của người tiêu thụ đối với sản phẩm cà phê.
Với P
r
: giá bán lẻ cà phê (Retail Price).
Ứng với giá bán lẻ Pr thì người tiêu dùng tiêu thụ một sản lượng Q
0
và với giá bán lẻ

P
r'
thì người tiêu dùng sẽ tiêu thụ một sản lượng Q
1
.
Ta có được đường cầu ban đầu của cà phê đi qua 2 điểm A, B







Q
0

Q
1

Q

0

Pf'

Pf

P

C


D

Đường cầu phát sinh
Q
Q
Q
0
Pr
'

P
r

P
A
B

Đường cầu ban đ
ầu

GVGD Bùi Văn Trịnh 16 Nhóm 1.4



Hình 2.6 Đường cầu phát sinh của cà phê
Đường cầu phát sinh là đường cầu của sản phẩm cà phê ở nông trại/ người sản xuất.
(Đường cầu này bắt nguồn từ nhu cầu của người tiêu thụ.)
Với P
f

: giá cà phê ở nông trại (Farm Price).
Ứng với giá P
f
thì người tiêu dùng tiêu thụ một sản lượng Q
0
và với giá P
f'
thì người
tiêu dùng sẽ tiêu thụ một sản lượng Q
1
.
Ta có được đường cầu phát sinh đối với cà phê đi qua 2 điểm C, D.









Hình 2.7 Sự dịch chuyển đường cầu của cà phê

- Khoản cách AC chính là khoản cách chênh lệch giữa giá bán lẻ cà phê P
r
và giá ở
nông trại P
f
, với lượng cà phê được tiêu thụ là Q
0.

- Nếu cà phê được tiêu thụ một lượng là Q
1
thì khoản chênh lệch giữa giá bán lẻ cà
phê P
r'
và giá ở nông trại P
f'
là khoản cách BD.
2.5 Tác động của việc thay đổi khoản chênh lệch marketing đến giá nông sản và giá
bán lẻ
Như đã đề cập ở phần trên thì khoản chênh lệch giữa giá bán lẻ và giá nông trại là khoản
chênh lệch marketing (MM).
Có thể coi nhu cầu ở cấp thị trường bán lẻ bao gồm hai phần: Nhu cầu đối với nông sản
thô và nhu cầu đối với một loạt các dịch vụ. Nhu cầu đối với nông sản thô gọi là nhu cầu phái
sinh, xuất phát từ nhu cầu ban đầu ở cấp bán lẻ có kết hợp cả nông sản thô và dịch vụ. Đường
cầu này được tạo ra bằng cách đem mỗi điểm trên đường cầu ban đầu trừ đi giá trị về nhu cầu
Q
1
Q
0
Q
Pr
Pr'

P
A

B
Đường cầu ban đầu
Pf


Pf'
C

D
Đường cầu phát sinh

GVGD Bùi Văn Trịnh 17 Nhóm 1.4
cách dịch vụ. Vì nhu cầu đối với dịch vụ về mỗi đơn vị lượng hàng tiêu dùng không đổi với
tất cả các giá lẻ nên hai đường song song (hình 1).
Có thể coi lượng cung của nông trại đối với nông sản thô là đường cung ban đầu về nông
sản đó. Còn có hàm cung đối với các dịch vụ mà người tiêu dùng cần mua. Đường cung phái
sinh này cũng hoàn toàn co dãn đối với giá các dịch vụ, vì vậy nó song song với đường cung
ban đầu, bằng hiệu số giữa giá Pr và P
f
ở trạng thái cân bằng.

Hình 2.8 Các hàm ban đầu và hàm phái sinh, độ cận biên thị trường nông sản

Minh hoạ ở hình 1 cho thấy trạng thái cân bằng đồng thời ở hai cấp thị trường bán lẻ và
nông trại, lượng sản phẩn cân bằng là Q*. Ở cấp thị trường nông trại, đường cung ban đầu cắt
đường cầu phái sinh với lượng hàng Q* và giá cân bằng P
f
. Ở cấp thị trường bán lẻ, đường
cung phái sinh cắt đường cầu ban đầu với lượng Q* nhưng giá cân bằng cao hơn, ở Pr, phản
ánh sự cân bằng cung cầu đối với các dịch vụ thị trường đã phối hợp với nông sản thô.
Như vậy, khi người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cho độ thoả dụng mà hệ thống thị trường
tạo ra về thời gian, không gian, hình thức sản phẩm v v thì ở đây độ cận biên thị trường
phản ánh sự chuẩn bị đầy đủ thoả dụng đó cho người tiêu dùng. Mức độ và các loại chi phí
cho sự "chuẩn bị" này hoàn toàn tuỳ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường.

Đến đây, ta xét hai trường hợp cụ thể:
2.5.1 Trường hợp độ cận biên thị trường không thay đổi:
Ta có thể giả định được rằng trong thời hạn ngắn, độ cận biên thị trường không thay
đổi. Vì nhu cầu đối với dịch vụ có hệ số co dãn hầu như toàn toàn đối với giá ở bất kể điểm
nào, như giả định ở hình 1 nên sự dịch chuyển của đường cong cung và cầu ban đầu sẽ làm
cho giá cân bằng thay đổi những lượng bằng nhau ở tất cả mọi cấp thị trường.

GVGD Bùi Văn Trịnh 18 Nhóm 1.4
Giả sử đường cầu ban đầu dịch chuyển lên nhưng không kéo theo sự chuyển dịch nhu
cầu đối với các dịch vụ, thì nhu cầu phát sinh đối với các sản phẩm thô phải dịch chuyển đi
lên giống như nhu cầu ban đầu. Bởi vì cả hai đường cầu và cung có cùng độ dốc, nên mức
tăng giá lẻ từ Pr lên P'r phải bằng mức tăng giá ở nông trại từ P
f
lên P'
f
. Như vậy, nếu độ cận
biên thị trường coi như cố định trong thời gian ngắn, chúng ta có thể chỉ ra hậu quả của sự
chuyển dịch đường cong cung và cầu đối với cả người sản xuất và người tiêu dùng, do đó
đánh giá được những biến động về lượng hàng, giá cả, doanh thu và chi phí (hình 2).
2.5.2 Trường hợp độ cận biên thị trường thay đổi:

Hình 2.9 Hiệu quả của sự chuyển dịch đường cầu ban đầu đối với nông sản thô

MM biến động rất nhiều giữa các loại nông sản khác nhau vì những nhân tố như: yêu
cầu chế biến, sự dễ hư hỏng của sản phẩm, sự cồng kềnh, tính thời vụ của sản xuất… MM
cao không phải luôn luôn đồng nghĩa với việc người trong lĩnh vực marketing thủ lợi bằng
cách nâng giá bán lẻ hoặc ép giá nông dân.
Trong thời hạn dài, có nhiều nguyên nhân làm thay đổi độ cận biên thị trường và sự
thay đổi đó có ảnh hưởng đến cả người tiêu dùng và người sản xuất. Như trên hình 1 đã chỉ ra,
độ cận biên thị trường giữa giá bản lẻ Pr và giá nông trại P

f
gồm những chi phí vận chuyển,
chế biến, dự trữ Nếu gạt bỏ những nguyên nhân làm ăn kém hiệu quả và lợi nhuận quá cao
của các chủ thể tham gia dây chuyền marketing thì những chi phí này là cần thiết để thực hiện
việc cung cấp hàng hoá kịp thời, đúng địa điểm và chất lượng phù hợp cho người tiêu dùng.
Tuy nhiên có thể khẳng định rằng bất kỳ một sự cải tiến nào về vận chuyển và tổ chức hệ
thống thị trường làm cho chi phí giảm đi đều có lợi cho cả người tiêu dùng và người sản xuất
(hình 2.11).

GVGD Bùi Văn Trịnh 19 Nhóm 1.4

Hình 2.10 Hiệu quả của sự giảm bớt được chi phí trên dây chuyền thị trường

Do chi phí lớn về dịch vụ markrting trên dây chuyền theo giá Pm, đường cung phát
sinh với giá lẻ được hình thành bằng cách cộng thêm đoạn thẳng đứng Pm và đường cung ban
đầu ở cấp nông trại. Giao điểm đường cung phát sinh với đường cầu ban đầu ở cấp bán lẻ cho
giá cân bằng thị trường Pr. Nghĩa là khi giá cân bằng, giá ở nông trại sẽ là P
f
= Pr - Pm.
Nếu hoàn thiện phương tiện vận chuyển và đường giao thông làm cho chi phí trên dây
chuyền thị trường giảm xuống còn P'm, đường cung phát sinh dịch chuyển xuống và có thể
cắt đường cầu ban đầu và tạo ra giá bán lẻ cân bằng P'r. Như vậy giá lẻ hạ đi và thị trường mở
rộng ra với lượng cầu tăng lên từ a lên b. Khi đó giá ở nông trại cũng cần thiết tăng từ P
f
lên
P'
f
để thúc đẩy tăng sản lượng từ a lên b. Nói cách khác, lợi ích của việc giảm chi phí trên dây
chuyền thị trường được phân chia cho người sản xuất và người tiêu dùng theo tỷ lệ tuỳ thuộc
vào độ dốc của đường cung và cầu.

Như vậy, nếu độ cận biên thị trường giảm đi trong khi chất lượng sản phẩm vẫn như
cũ thì hiệu quả của hệ thống dây chuyền thị trường sẽ tăng lên. Trong mỗi dây chuyền của hệ
thống thị trường, mỗi đoạn mắt xích của dây chuyền lại làm tăng giá trị cho sản phẩm ở mắt
xích tiếp theo. Đến lượt nông dân thì làm tăng giá trị các yếu tố đầu vào mà họ mua về. Như
vậy, giá cả mà nông dân chấp nhận cùng với lượng sản phẩm bán ra của họ phụ thuộc rất
nhiều vào kết qủa hoạt động của các doanh nghiệp đứng trước và sau họ trong dây chuyền
marketing. . Dĩ nhiên là một sự gia tăng MM có tác động ngược lại (đường cầu phái sinh và
đường cung phát sinh đều dịch chuyển giảm) khiến giá bán lẻ tăng, giá nông trại giảm, sản

GVGD Bùi Văn Trịnh 20 Nhóm 1.4
lượng tăng.
Tóm lại, mức độ thay đổi của giá bán lẻ và giá nông trại khi MM thay đổi phụ thuộc
vào tốc độ của đường cung và đường cầu. Nếu cung và cầu đều là các đường thẳng và có cùng
độ dốc (hệ số gốc), theo giá trị tuyệt đối thì mức độ thay đổi của đường cung và đường cầu là
bằng nhau. Nếu độ dốc của đường cầu lớn hơn độ dốc của đường cung (cầu co giãn về giá ít
hơn cung) thì mức đọ thay đổi của giá bán lẻ (∆P
r
) sẽ lớn hơn tốc độ thay đổi của giá nông trại
(∆P
f
), và ngược lại nếu độ dốc của đường cung lớn hơn đường cầu thì ∆P
f
> ∆P
r.
Thông thường cung sản phẩm nông nghiệp ít co giãn về giá hơn so với cầu, do đó nếu có một
sự thay đổi nào đó về MM thì sẽ có tác động đối với giá nông trại rõ rệt hơn là đối với giá bán
lẻ. Trường hợp cung hoàn toàn không co giãn thì toàn bộ sự thay đổi của MM sẽ chỉ tác động
đến giá nông trại mà thôi.( Hình 2.11)

Hình 2.11 Phân tích cung cầu và giá cả theo thời vụ


Sự hình thành giá cả theo thời vụ.
Ngành nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất có nhiều đặc điểm riêng, trong đó
tính thời vụ khá cao là nét đặc trưng nhất. Tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp thể hiện rõ ở
sự biến động của giá cả thị trường theo thời vụ, đặc biệt là tính không ổn định của giá cả thị
trường đầu ra. ở đây, việc phân tích thị trường nông nghiệp tập trung vào sự hình thành giá cả
thị trường theo thời gian.
Ở đồ thị 2.12, bên phải trục tung cho thấy sự cân bằng cung cầu và giá cả loại nông
sản điển hình, ví dụ lúa gạo, trên thị trường cạnh tranh. Trong ví dụ này, đường cong cung và
đường cong cầu cắt nhau tại Q1, P1. Đối diện qua trục tung, giá lúa gạo lúc trái vụ thì chạy

GVGD Bùi Văn Trịnh 21 Nhóm 1.4
dài qua bên trái. Trên trục hoành, đối diện qua gốc 0 về phía trái biểu diễn lượng cầu lúc trái
vụ và do vậy đường cầu lúc trái vụ dốc xuống về phía trái và đối xứng với đường cầu lúc mùa
vụ qua trục tung.
Lúc trái vụ, lượng cung bằng 0 tại điểm bắt đầu nhưng vẫn có nhu cầu về lúa gạo
trong mọi thời điểm, nên lúc trái vụ nhu cầu về gạo được đáp ứng bằng lượng gạo dự trữ do
lượng cung quá độ lúc mùa vụ cung cấp. Toàn bộ tình hình được mô tả ở hình 4. Trên hình 4
chưa có mô tả phí lưu kho. Như vậy, giá khởi điểm tối thiểu của gạo lúc trái vụ để thương
nhân sẵn sàng bán phải cao hơn mức giá P2 (bằng giá mua vào lúc mùa vụ cộng thêm phí lưu
kho). Nếu phí lưu kho là cao làm cho tổng chi phí của thương nhân gồm giá mua vào cộng với
phí lưu kho cao hơn mức giá tối đa có thể có lúc trái vụ (mức giá P3 chẳng hạn), thì người
kinh doanh lương thực sẽ bị thua lỗ, nếu càng thấp hơn thì họ càng có lợi nhuận hơn. Để tiện
phân tích ta giả định là phí lưu kho bằng không.
Xem xét giá P1. Nếu giá P1 phổ biến suốt thời kỳ mùa vụ thì lượng cung sẽ cân bằng
với lượng cầu trên thị trường, sẽ không có lúa gạo để mua dự trữ. Đường cung quá độ sẽ khởi
điểm tại toạ độ 0, P1. Muốn có dự trữ, thương nhân phải trả giá cao hơn P1 (giá lúc mùa vụ),
giả dụ giá P2. Khi đó, lượng cầu lúc mùa vụ giảm đi và lượng cung cho thị trường tăng thêm.
Lượng cung quá độ này được thương nhân đưa vào dự trữ. Như vậy lượng cung quá độ để
cung cấp cho thị trường lúc trái vụ chính là hàm số của giá lúa gạo lưu hành lúc mùa vụ. Trên

hình vẽ, đường nét liền biểu diễn hàm số này trước khi gánh chịu mức chi phí kinh doanh của
thương nhân do phải trả giá P2 cao hơn mức giá P1 của thị trường lúc mùa vụ; còn đường nét
đứt biểu diễn hàm số đó sau khi có khoản chi phí này. Quan hệ giá cả - số lượng biểu thị
lượng cung thị trường theo giá lúc trái vụ nên đường nét đứt phản ảnh giá lúa gạo tương
đương phải có trong lúc trái vụ để bù đắp chi phí kinh doanh và có lợi nhuận của thương
nhân.
Quan hệ cân bằng thị trường tại Q, P3 lúc trái vụ có thể được xác định bằng giá mà tại
đó lượng cung quá độ lúc có mùa vụ bằng với lượng cầu lúc trái vụ. Theo thí dụ ở hình 4, lúc
mùa vụ lượng cầu thị trường là Q2 và lượng cung thị trường là Q3. Hiệu số lượng cung và
lượng cầu (Q3 - Q2) phải bằng lượng mà thương nhân mua dự trữ cung cho thị trường lúc trái
vụ.
III. Mối quan hệ giữa các hệ số co giãn của đường cầu ban đầu và đường phát sinh
3.1. Trường hợp khoản chênh lệch marketing không đổi
Trong thị trường nông sản, thường khó ước lượng được các hệ số co giãn giá về cầu ở các
thời điểm khác nhau trong một quá trình tiêu thụ.Hệ số co giãn giá về cầu ở nơi bán lẽ (Er) có

GVGD Bùi Văn Trịnh 22 Nhóm 1.4
thể khác với hệ số co giãn về cầu nơi sản xuất (Ef). Tuy nhiên nếu có được số liệu khoản
chênh lệch marketing và hệ số co giãn về cầu ở một nơi (thị trường bán lẻ chẳng hạn thì ta có
thể ước lượng được hệ số co giản về cầu của nơi còn lại).
Mối quan hệ giữa hệ số co giãn giá về cầu ở hai nơi khác nhau phụ thuộc vào mối quan
hệ giữa đường cầu ban đầu và đường cầu phát sinh, hay nói cách khác là phụ thuộc vào khoản
chênh lệch marketing trên thị trường tiêu thụ nông sản. Trong trường hợp khoản chênh lệch
marketing không đổi, hai đường cầu sẽ song song khi biết được hệ số co giãn của nơi bán lẻ ta
có thể tình được hệ số co giãn của nơi sản xuất theo công thức sau :
E
f
= E
r
(p

f
/p
r
)
Trong đó: Ef: hệ số co giãn giá về cầu ở nơi sản xuất
Er: hệ số co giãn giá về cầu nơi bán lẽ
pf: giá nơi sản xuất
pr: giá bán lẻ
Trong trường hợp khoản chênh lệch marketing không đổi c=pr -pf (hằng số). Ta có pr>pf
do đó tỉ lệ pf/pr luôn nhỏ hơn 1 hay hệ số co giãn giá về cầu nơi sản xuất luôn có giá trị nhỏ
hơn hệ số co giãn giá về cầu nơi bán lẻ. Khoản chênh lệch marketing càng lớn thì sự chênh
lệch giữa hai hệ số co giãn càng nhiều. Ví dụ như giá của cà phê tại nơi sản xuất chỉ bằng
50% của giá bán tại các đại lý bán hàng, lúc này hệ số co giãn giá về cầu nơi sản xuất cà phê
chỉ bằng ½ hệ số co giãn của các đại lý bán hàng.
3.2. Trường hợp khoản chênh lệch marketing theo tỉ lệ không đổi
Khoản chênh lệch marketing bằng một tỉ lệ không thay đổi theo giá mua hoặc giá bán lẻ.
Trong trường hợp này thì hệ số co giãn về cầu ở hai thị truờng là bằng nhau tương ứng với
một mức tiêu thụ sản phẩm nào đó.
Ta có E
f
= E
r

Giá mà nông dân bán cho thương nhân gọi là giá của người sản xuất hoặc giá nông trại.
Giá mà thương nhân bán cho xí nghiệp chế biến gọi là giá bán buôn Giá bán lẻ là giá hình
thành ở lần chuyển giao cuối cùng quyền sở hữu từ người bán lẻ sang người tiêu dùng nông
lâm thuỷ sản.
Do đặc điểm của việc sản xuất và tiêu dùng hàng nông sản, thị trường nông nghiệp là thị
trường đa cấp. Do vậy, trọng tâm phân tích thị trường nông nghiệp là phân tích trạng thái cân
bằng ở mỗi cấp thị trường.

Để đáp ứng những đòi hỏi của thị trường về mỗi loại nông sản, các chủ thể kinh tế tham
gia trên dây chuyền marketing cần bỏ ra những chi phí nhất định. Những chi phí này được

GVGD Bùi Văn Trịnh 23 Nhóm 1.4
phản ánh vào giá cả. Khi thị trường chấp nhận giá, gồm giá nông sản thô cộng thêm chi phí
marketing, thì chênh lệch giữa giá đó với giá ở cấp thị trường trước đó được gọi là độ cận biên
thị trường.
Chúng ta tiếp cận ở phía những người tiêu dùng nông sản từ hai khía cạnh của quá trình.
Thứ nhất là với trình độ phát triển hiện nay của nền kinh tế, người dân tiêu dùng các lượng
lương thực thực phẩm chế biến chưa nhiều, nhưng ở nông thôn người nông dân thường sử
dụng nông sản thô nhiều hơn, còn ở thành phố thì người dân tiêu dùng các sản phẩm đã qua
chế biến với số lượng lớn hơn. Điều đó chỉ ra rằng những người tiêu dùng khác nhau có
những nhu cầu khác nhau về qui cách, mức chất lượng và dịch vụ nông sản hàng hoá. Thứ hai
là xét về lâu dài, khi thu nhập và mức sống tăng lên cùng với sự phát triển cao hơn của nền
kinh tế, nhu cầu của người tiêu dùng ở cả thành thị và nông thôn đều tăng lên đối với các dịch
vụ làm tăng giá trị của nông sản hàng hoá. Kết quả là trong cơ cấu giá mua nông sản thực
phẩm của người tiêu dùng, phần chi trả cho các dịch vụ có chiều hướng tăng lên, còn phần trả
cho sản phẩm thô thì giảm đi. Cùng với sự phát triển kinh tế, độ cận biên thị trường sẽ tăng
lên. Độ cận biên thị trường giữa giá lẻ và giá nông trại là sự chênh lệch giữa giá bán lẻ cuối
cùng cho người tiêu dùng và giá mà người nông dân nhận được khi bán nông sản. Tuỳ những
mục đích khác nhau, người ta có thể nghiên cứu độ cận biên thị trường ở hai cấp thị trường
bất kỳ, nên có thể chú trọng độ cận biên thị trường giữa giá bán lẻ với giá bán buôn, hoặc giữa
giá bán buôn với giá nông trại Như vậy sẽ không làm xuyên tạc bản chất của vấn đề nghiên
cứu khi ta chỉ giới hạn việc phân tích độ cận biên ở chỗ khảo sát hai cấp trao đổi quyền sở
hữu.
Có thể coi nhu cầu ở cấp thị trường bán lẻ bao gồm hai phần: Nhu cầu đối với nông sản
thô và nhu cầu đối với một loạt các dịch vụ. Nhu cầu đối với nông sản thô gọi là nhu cầu phái
sinh, xuất phát từ nhu cầu ban đầu ở cấp bán lẻ có kết hợp cả nông sản thô và dịch vụ. Đường
cầu này được tạo ra bằng cách đem mỗi điểm trên đường cầu ban đầu trừ đi giá trị về nhu cầu
cách dịch vụ. Vì nhu cầu đối với dịch vụ về mỗi đơn vị lượng hàng tiêu dùng không đổi với

tất cả các giá lẻ nên hai đường song song (hình 3.1).


GVGD Bùi Văn Trịnh 24 Nhóm 1.4

Hình 3.1: Các hàm ban đầu và hàm phái sinh, các độ cận biên thị trường nông sản.
Đường cong cầu phái sinh hoàn toàn co dãn với giá, bằng hiệu số không đổi giữa đường
cầu ban đầu và đường cầu phái sinh. Giá này phản ánh giá các dịch vụ và do đó bằng chênh
lệch giá giữa giá lẻ và giá ở nông trại.
Có thể coi lượng cung của nông trại đối với nông sản thô là đường cung ban đầu về nông
sản đó. Còn có hàm cung đối với các dịch vụ mà người tiêu dùng cần mua. Đường cung phái
sinh này cũng hoàn toàn co dãn đối với giá các dịch vụ, vì vậy nó song song với đường cung
ban đầu, bằng hiệu số giữa giá Pr và Pf ở trạng thái cân bằng.
Minh hoạ ở hình 3.1 cho thấy trạng thái cân bằng đồng thời ở hai cấp thị trường bán lẻ và
nông trại, lượng sản phẩn cân bằng là Q*. ở cấp thị trường nông trại, đường cung ban đầu cắt
đường cầu phái sinh với lượng hàng Q* và giá cân bằng Pf. ở cấp thị trường bán lẻ, đường
cung phái sinh cắt đường cầu ban đầu với lượng Q* nhưng giá cân bằng cao hơn, ở Pr, phản
ánh sự cân bằng cung cầu đối với các dịch vụ thị trường đã phối hợp với nông sản thô.
Như vậy, khi người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cho độ thoả dụng mà hệ thống thị trường
tạo ra về thời gian, không gian, hình thức sản phẩm v v thì ở đây khoản chênh lệch
marketing theo tỉ lệ không đổi phản ánh sự chuẩn bị đầy đủ thoả dụng đó cho người tiêu dùng.
Mức độ và các loại chi phí cho sự "chuẩn bị" này hoàn toàn tuỳ thuộc vào quan hệ cung cầu
trên thị trường.
Đến đây, ta xét hai trường hợp cụ thể:
+ Trường hợp độ cận biên thị trường không thay đổi:
Ta có thể giả định được rằng trong thời hạn ngắn, độ cận biên thị trường không thay
đổi. Vì nhu cầu đối với dịch vụ có hệ số co dãn hầu như toàn toàn đối với giá ở bất kể điểm
nào, như giả định ở hình 9.1 nên sự dịch chuyển của đường cong cung và cầu ban đầu sẽ làm
cho giá cân bằng thay đổi những lượng bằng nhau ở tất cả mọi cấp thị trường. Giả sử đường


GVGD Bùi Văn Trịnh 25 Nhóm 1.4
cầu ban đầu dịch chuyển lên nhưng không kéo theo sự chuyển dịch nhu cầu đối với các dịch
vụ, thì nhu cầu phái sinh đối với các sản phẩm thô phải dịch chuyển đi lên giống như nhu cầu
ban đầu. Bởi vì cả hai đường cầu và cung có cùng độ dốc, nên mức tăng giá lẻ từ Pr lên P'r
phải bằng mức tăng giá ở nông trại từ Pf lên P'f. Như vậy, nếu độ cận biên thị trường coi như
cố định trong thời gian ngắn, chúng ta có thể chỉ ra hậu quả của sự chuyển dịch đường cong
cung và cầu đối với cả người sản xuất và người tiêu dùng, do đó đánh giá được những biến
động về lượng hàng, giá cả, doanh thu và chi phí (hình 3.2).

Hình 3.2: Hiệu quả của sự chuyển dịch đường cầu ban đầu đối với nông sản thô.

Trong những ngày đầu tháng 4, giá cà phê đã tăng lên 24.500 đồng/kg. Đây là niềm vui
chung cho ngành cà phê và bà con nông dân. Nhiều người đã mạnh dạn xuất cà phê ra bán lấy
tiền tập trung đầu tư phân bón, nước tưới cho cây ra hoa, đậu quả để chuẩn bị cho mùa vụ
năm sau. Nhưng cũng có không ít gia đình lấy làm tiếc vì đợt hỗ trợ mua tạm trữ lần này lại
rơi vào thời gian cuối vụ, nhiều người không còn cà phê để mà bán.
Kể từ khi có thông tin cà phê tăng giá, chỉ một ngày sau, ông Trần Văn Hoàng, chủ một
trang trại cà phê ở xã Đắk Wer (Đắk R’lấp) đã xuất bán liền 5 tấn cà phê nhân để lấy tiền đầu
tư tái sản xuất. Ông Hoàng cho biết: “Năm nay, trang trại của gia đình thu hoạch được trên 25
tấn cà phê. Từ đầu mùa đến nay, tôi chưa bán hạt nào vì chờ tăng giá. Với giá bán hiện nay thì
trang trại trồng cà phê có lãi”. Tuy nhiên, đối với các hộ nông dân trồng cà phê kiểu “lấy công
làm lời” thì lại khác. Đơn cử như gia đình ông Lê Văn Phòng ở phường Nghĩa Phú (Gia
Nghĩa) cũng trồng 1 ha cà phê. Vụ thu hoạch vừa qua, nhờ thời tiết thuận lợi, đầu tư chăm sóc
tốt nên ông đã thu hoạch trên 4 tấn. Mặc dù đây là sản lượng đạt khá cao so với nhiều vườn cà

×