Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Phát triển làng nghề truyền thống ở huyện Chương Mỹ - Hà Tây. Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.15 KB, 48 trang )

Lời nói đầu
Con đờng chính trị của bất cứ một quốc gia nào cũng dẫn tới mục tiêu cuối cùng là
làm cho đất nớc mình giầu mạnh về kinh tế, xã hội thực sự công bằng và con ngời
sống văn minh. F.Anghen đã nói Trớc khi con ngời ta nghĩ tới làm chính trị, văn
hoá thì tr ớc hết họ phải ăn, phải mặc, ở. Tục ngữ Việt Nam có câu Có thực mới
vực đợc đạo. Một quốc gia cũng vậy muốn đạt đợc các mục tiêu đặt ra, trớc hết nhà
cầm quyền phải tìm phơng sách làm cho nhân dân no đủ, tức là xây dựng một nền
kinh tế vững mạnh.
Thức tế cho thấy không ít quốc gia có nền kinh tế phát triển song đó chỉ là tạm thời,
một ví dụ là Thái Lan: Trớc đây nến kinh tế của Thái Lan khá phát triển nhng sự phát
triển này là do những tác nhân bên ngoài, cụ thể nguồn vốn chủ yếu để thúc đẩy sự
phát triển đó là vốn đầu t nớc ngoài, mà không phải là chính sức lực của nhân dân
của quốc gia đó. Những nớc này cũng chỉ chú trọng phát triển những ngành sản xuất
mũi nhón, những sản phẩm có khả năng xuất khẩu mạnh nhằm mục đích thu tiền
ngoại tệ mà quên đi hay ít quan tâm tới những ngành tuy thu đợc ít ngoại tệ hay
không trực tiếp xuất khẩu song đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển bền vững,
xã hội hng thịnh lâu dài của nền kinh tế quốc dân.
Vậy để đạt đợc mục tiêu phát triển bền vững thì cần làm gì là nh thế nào? Mỗi quốc
gia đều cón chiến lợc, chính sách vĩ mô, vi mô của riêng mình theo điều kiện cụ thể
của đất nớc đó nhằm đạt đợc những mục tiêu trong giai đoạn trớc mắt cũng nh trong
giai đoạn lâu dài. Dù áp dụng chiến lợc nào đi nữa cũng cần phải phát triển đa dạng
cân đối các ngành kinh tế, công nghiệp, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ...
Việt Nam là nớc đang phát triển, nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất chủ yếu, trình
độ khoa học kỹ thuật, quản lý còn nhiều lạc hậu. Do vậy, đất nớc rất cần sự hỗ trợ,
đầu t từ bên ngoài, song chúng ta không đợc lạm dụng chúng và coi đầu t nớc ngoài
là động lực chính thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Sự phát triển của nền kinh tế
nớc ta phải dựa chủ yếu vào chính nguồn lực của đất nớc, của nhân dân ta, có nh vậy
chúng ta mới làm chủ, không bị lệ thuộc vào quốc gia khác do yêu tố kinh tế chi
phối. Chúng ta cần phát triển một cách hợp lý của công nghiệp nặng, công nghiệp
nhẹ, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Trong một thời gian dài chúng ta đã quá chú
trọng đến công nghiệp nặng, đó là một sai lầm bời nó không phù hợp với một nền


1
kinh tế mà tỷ trọng ngành nông nghiệp quá lớn trong GDP, trong khi cơ sở hạ tầng
yếu kém, trình độ dân trí còn thấp.
Hiện nay nớc ta có khoảng 80% dân số sống trong khu vực nông thôn, 70% nguồn
lao động nằm trong khu vực này, hàng năm lại bổ sung thêm hàng triệu lao động.
Trong những năm gần đây làn sóng di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị đã
làm đau đầu các nhà quản lý, nhiều chính sách đợc đa ra nhằm hạn chế làn sóng di
chuyển này song hiệu quả không cao, không những sự di chuyển lao động thông th-
ờng mà nguồn lao động đợc đào tạo qua các trờng lớp cũng không muốn quay trở về
quê hơng, họ muốn tìm một công việc ổn định có thu nhập cao ở thành phố. Phải
chăng chúng ta cha đa ra đợc những chính sách knh tế xã hội phù hợp để phát triển
kinh tế nông thôn, rút ngắn khoảng cách giầu nghèo giữa thành thị và nông thôn?
Một hớng đi đợc đặt ra là phát triển kinh tế nông thôn không thể chỉ dựa vào sản xuất
nông nghiệp mà cần phát triển tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, đặc biệt kích thích
hình thành các làng nghề, làm cho dân c nông thôn ly nông bất ly hơng.
Các làng nghề nói chung và làng nghề truyền thống nói riêng sau thời gian thăng
trầm, đang từng bớc phục hồi, phát triển và ngày càng có vị trí quan trọng trong nền
kinh tế nói chung. Điều đó đợc thể hiện quan tỷ trọng giá trị xuất khẩu của ngành
công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp: Năm 1990 chiếm 26,43% trong giá trị xuất
khẩu, năm 1995 chiếm 28,24%, năm 1996 chiếm 28,55%. Đó là điều đáng mừng cho
ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp vốn bị coi nhẹ bấy lâu nay.
Cùng với công cuộc đổi mới, t duy kinh tế của ngời dân đợc tự do phát triển đã kích
thích các làng nghề hình thành và phát triển. Cùng với kinh nghiệm sản xuất lâu đời
và những điều kiện kinh doanh thuận lợi, nhiều mặt hàng của các làng nghề nớc ta đã
có chỗ đớng trên thị trờng quốc tế nh dệt, thổ cẩm, mây tre đan, đồ gỗ mỹ nghệ chất
lợng cao ...
Với lợi thế nhiều mặt từ vị trí địa lý, điều kiện kinh tế xã hội, lịch sử, đồng bằng
sông Hồng đợc mang danh là đất trăm nghề. Có những nghề, những làng nghề có tới
hàng ngàn năm nay, có làng nghề xuất hiện mới đây do nhu cầu của cuộc sống con
ngời.

Nằm trong khu vực đồng bằng sông Hồng, giáp thành phố Hà Nội, Hà tây là nới có
nhiều các làng nghề đang hoạt động, đặc biệt là làng nghề truyền thống. Trong đó
huyện Chơng Mỹ cũng là một trong những nới cần thiết và có điều kiện phát triển
làng nghề truyền thống. Cho tới nay Chơng Mỹ đã đợc UBND tỉnh Hà tây công nhận
15 làng nghề đạt tiêu chuẩn là làng nghề truyền thống. Mục tiêu đến năm 1005 sẽ
tăng thêm 5 làng nghề nữa. Sản phẩm ở đây chủ yếu là mây tre đan (có từ lâu đời ví
2
nh làng nghề mây tre giang đan ở Phú Vinh - xã Phú Nghĩa), nghề làm nón (ở Văn
La - xã Văn Võ), nghề mộc (ở Phù Yên - xã Trờng Yên).
Trong sự phát triển phức tạp của nền kinh tế thị trờng để cho các làng nghề tồn tại
và vận động có hiệu quả không chỉ là vấn đề chủ trơng, chính sách của Đảng và Nhà
nớc mà còn là các vấn đề cụ thể về nguyên liệu đầu vào, tiêu thụ sản phẩm ... Đánh
giá chung thì các làng nghề trong nông thôn Việt Nam đang khởi sắc và ngày càng
có vị trí quan trọng trong nền kinh tế.
Trong kinh doanh mục tiêu về lợi nhuận luôn chiếm u thế hàng đầu của các doanh
nghiệp, của các cơ sở sản xuât, song mục tiêu đó khi không đạt đợc, không ít những
cơ sở sản xuất, hộ gia đình bị phá sản. Nguyên nhân của sự phá sản, làm ăn không
hiệu quả có nhiều, bao gồm những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Với hy
vọng góp phần nhỏ bé và sự phát triển của làng nghề truyền thống nói chung và các
làng nghề truyền thống nói riêng ở huyện Chơng Mỹ em tiến hành nghiên cứu đề tài:
Phát triển làng nghề truyền thống ở huyện Ch ơng Mỹ Hà Tây
Thực trạng và giải pháp .
Đây là vấn đề quan trọng trong phát triển làng nghề. Việc nghiên cứu này có ý
nghĩa thực tiễn lớn không chỉ cho việc phát triển làng nghề ở huyện Chơng Mỹ mà
còn góp phần giải quyết một số vấn đề về phát triển làng nghề nói chung ở đất nớc ta
hiện nay.
3
Chơng I
Nghiên cứu chung về làng nghề truyền thống
I. Khái niệm và đặc điểm làng nghề truyền thống.

1. Một số khái niệm.
* Tổ chức: Là việc làm cho một vấn đề kinh tế xã hội nào đó trở thành một chỉnh
thể có một cầu tạo, một cấu trúc và có những chức năng nhất định, là việc làm cho
vấn đề quan tâm trở nên có nề nếp để tiến hành các hoạt động nào đó có hiệu quả
nhất.
* Sản xuất, kinh doanh: Là quá trình sử dụng các nguồn lực đầu t vào lao động,
vốn, trang thiết bị kỹ thuật để tạo ra các sản phẩm hàng hoá đáp ứng nhu cầu của
con ngời nhằm mục tiêu sinh lời và mục tiêu khác .
* Làng nghề: Khi một làng nào đó ở nông thôn có một hay một số nghề thủ
công đợc tách khỏi nông nghiệp và sản xuất kinh doanh độc lập thì đó là làng nghề.
Làng nghề truyền thống là đơn vị dân c cùng làm sản xuất những mặt hàng có từ lâu
đời, những sản phẩm này có những nét đặc thù riêng đặc trng cho vùng và con ngời ở
đó.
A: Làng nghề nông thôn.
B: nghề tiểu thủ công cổ truyền.
C: (Giao giữa A và B) Làng nghề truyền thống.
* Nghệ nhân: Là những ngời có tay nghề cao trội, đợc lao động lành nghề tín
nhiệm, suy tôn và đợc Nhà nớc công nhận
* Lao động lành nghề: Là những lao động đã thông thạo công việc, có kinh
nghiệm trong san xuất, có thể đang làm thợ cả, hớng dẫn kỹ thuật cho mọi ngời. Lao
động lành nghề đối lập với lao động cha lành nghề.
2. Đặc điểm của làng nghề truyền thống.
Tuy có nhiều loại làng nghề truyền thống khác nhau, nhng chúng đều có một số
đặc diểm chung sau đây:
A
4
C B
- Sự ra đời, tồn tại và phát triển của làng nghề truyền thống luôn gắn liền với làng
nghề Nông thôn.
- Các làng nghề truyền thống ra đời cách đây nhiều thế hệ và nghề mang tính chất

gia truyền.
- Thờng gắn liền với nông nghiệp, trình độ dân trí còn thấp nên hầu hết các làng
nghề có vốn đầu t thấp.
Một số loại sản phẩm của các làng nghề truyền thống mang tính chất nghệ thuật
cao, đó là sự kết tinh của văn hoá lâu đời của cha ông ta.
3. Sự hình thành và phát triển của làng nghề truyền thống.
Sẽ có nhiều làng nghề cùng tồn tại ở nhiều vùng khác nhau và cho ra đời cùng
loại sản phẩm song cha chắc chúng đã xuất hiện đồng thời. Sự hình thành các làng
nghề thờng qua những cách thức sau:
- Các làng nghề đợc hình thành do một hay một nhóm nghệ nhân từ nơi khác tới
truyền dạy.
- Các làng nghề đợc hình thành do sự sáng tạo của cá nhân hay nhóm ngời nào đó
ở trong làng, cùng với thời gian những kỹ thuật đó không ngừng đợc hoàn thiện và
lan truyền. Không ít làng nghề hình thành chủ yếu do một số cá nhân có cơ hội tiếp
xúc, giao du nhiều nơi có ý học hỏi để truyền lại cho làng quê của họ.
- Một số làng nghề xuất hiện do chủ trơng chính sách của nhà cầm quyền hoặc
địa phơng
Để các làng nghề này tồn tại và phát triển lâu dài thì những điều kiện sau đây đợc
thoả mãn:
- Gần những mạch máu giao thông thuỷ bộ quan trọng. ở những vị trí này hàng
hoá trao đổi dễ dàng, đó là điều rất quan trọng trong sản xuất kinh doanh.
- Gần nơi tiêu thụ hay những thị trờng chính. Qua nghiên cứu khảo sát cho thấy
các làng nghề thờng tập trung ở những vùng phụ cận của các thành phố lớn hoặc
vùng tập trung đông đúc dân c.
- Một điều kiện khác là các làng nghề tồn tại phát triển đợc là do sức ép về kinh tề
ở vùng đó, có thể là ruộng đất ít nếu chỉ sản xuất nông nghiệp thì thu nhập không bảo
đảm cho cuộc sống buộc họ phải tìm cách làm gì đó để tăng thu nhập.
II. Phân loại và các nhân tố ảnh hởng đến làng nghề.
1. Phân loại.
Trên những góc độ khác nhau chúng ta sẽ có nhiều cách phân loại khác nhau về

làng nghề.
5
Xét theo ngành nghề: Làng nghề đợc chia thành các loại làng với các nghề cụ thể
nh làng rèn, làng đúc, làn dệt, làng gốm sứ.....
Xét theo quá trình hình thành và hoạt động: Làng nghề đợc chia thành 2 loại là
làng nghề truyền thống và làng nghề mới hình thành.
2. Những nhân tố ảnh hởng.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hởng tới làng nghề bao gồm nhóm nhân tố về xã hội,
nhóm nhân tố kinh tề và nhóm nhân tố môi trờng, làng nghề chịu tác động tổng hoà
của các nhóm nhân tố này. Nừu một trong các nhóm này có tác động tiêu cực qua
một giới hạn nào đó thì sẽ làm cho làng nghề không tồn tại và phát triẻn đợc. Chúng
ta sẽ xem xét cụ thể những nhân tố chính.
2.1. Nhóm nhân tố xã hội.
* Chính sách của nhà nớc.
Chính sách của Nhà nớc ảnh hởng lớn tới sự tồn tại phát triển của làng nghề. Trong
một thời gian dài trớc đây (mà chúng ta thờng gọi trớc đổi mới), chúng ta phủ nhận
các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Chính vì vậy hoạt động sản xuất kinh
doanh trong làng nghề đều là hợp tác, tập thể với chế độ ăn chia quân bình cho các
lao động khoẻ, yếu già trẻ, làm nhiều, ít, tích cức hay không tích cực đều ngang
nhau. Trên thực tế chính sách này không kích thích đợc sự phát triển kinh tế nói
chung và kinh tế làng nghề nói riêng. Nhận thấy những hạn chế trong đờng lối chính
sách phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nớc ta đã thực hiện công cuộc đổi mới mà quan
trọng nhất là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Trong sự đổi mới này Đảng và Nhà nớc
ta đã thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế (nh kinh tế hộ, kinh tế t
nhân... ). Chính sách kinh tế mới đã phù hợp với mong muốn của nhân dân và thời kỳ
mới nên đã húc đẩy sự tăng trởng của nền kinh tế. Các làng nghề có điều kiện thuận
lợi để khôi phục và phát triển.
* Nhân tố truyền thống.
Thực tế cho thấy các làng nghề tồn tại, phát triển đợc do có sự kế tục của đời con, đời
cháu, nghề đợc bậc tiền bối truyền lại cho lớp hậu sinh bằng miệng. Những bí quyết

nghề nghiệp trong làng nghề đợc giữ bí mật khắt khe. Điều này không tránh khỏi sự
thất truyền vì một nguyên nhân nào đó. Tóm lại rằng nhân tố truyền thống có ảnh h-
ởng quyết định tới sự hng vong của làng nghề.
* Phong tục tập quán.
Nhiều vùng, nhiều địa phơng có những phong tục tập quán của riêng mình. Trong
những ngày lễ, tết họ làm ra những sản phẩm cho chính họ, những sản phẩm này đợc
6
nhiều ngời biết đến và tiêu dùng chúng. Những ngời có khả năng kinh doanh đã sản
xuất ra để bán và hình thành làng nghề ví dụ: sản phẩm dệt thổ cẩm của đồng bào
dân tộc Chăm.
2.2. Nhóm nhân tố kinh tế.
Những nhân tố chính trong nhóm nhân tố này bao gồm:
* Cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng bao gồm: giao thông, điện, thuỷ lợi, bu chính viễn thông, y tế giáo
dục, các công trình văn hoá công cộng...Một điều hển nhiên rằng khi cơ sở hạ tầng
yếu kém thì quy mô làng nghề chậm đợc mở rộng. Cơ sở hạ tầng phải đợc xây dựng
một cách đồng bộ, cân đối nếu không sẽ tạo ra sự khập khiễng trong đó và không
những không thuận lợi cho sự phát triẻn ngành nghề mà còn kìm hãm sự phát triển
của nó.
Giao thông: Đợc ví nh là mạch máu trong cơ thể con ngời, sự hoàn thiện, thuận
lợi của giao thông tạo điều kiện cho việc giao lu hàng hoá dễ dàng, nhanh chóng. Vì
thế các làng nghề thờng đợc hình thành ở những đầu mối giao thông thuỷ bộ. Trong
thờ kỳ kinh ts thị trờng, thời gian là àng bạc, sự phát trỉn củ thông tin đã tiết kiệm đ-
ợc rất nhiều thời gian góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của các làng
nghề.
Y tế giáo dục: Tuy không trực tiếp tạo ra của cải cho làng nghề song không thể
thiếu trong sự phát triển chung của làng nghề.
* Vốn cho sản xuất.
Vốn một yếu tố đóng vai trò quan trọng, tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất,
kinh doanh của các cơ sở trong làng nghề. Những năm trớc đây nguồn vốn cho làng

nghề chủ yếu là tự có và vay mợn của nhau với số lợng nhỏ không đấp ứng nhu cầu
mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh. Những năm gần đây cùng với sự mở cửa
của nền kinh tế, nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh ngày càng cấp bách hơn, lợng
lớn hơn trong khi vốn tự có nhỏ, vay mợn anh em bạn bè cũng trở nên khó khăn hơn
và không mang tính thể chế. Do vậy Nhà nớc đã có nhữn chính sách vốn phù hợp cho
nông thôn. Nhiều hình thức tín dụng đã hình thành nhằm cung cấp vốn cho sản xuất
kinh doanh.
Có 2 hệ thống tín dụng: Hệ thống tín chính thống và hệ thống tính dụng phi
chính thống. Hoạt động của các tổ chức tín dụng chính thống còn nhiều phiền hà về
thủ tục giấy tờ, trong khi hoạt động của các tổ chức phi chính thống lại khá đơn giản
về mặt thủ tục. Nói chung thị trờng tín dụng tuy không đáp ứng đầy đủ nhng phần
7
nào đã đảm bảo đợc nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh trong các làng nghề truyền
thống.
* Yếu tố nguyên vật liệu.
Nguyên vật liệu luôn gắn liền với sản phẩm và chất lợng sản phẩm. chất lợng của
nguyên liệu có tốt thì sản phẩn mới có chất lợng cao. Tuy vậy giá cả của nguyên vật
liệu phải hợp lý bảo đảm cho sản phẩm và kinh doanh có lãi thì mới đợc chấp nhận
Để đáp ứng đa dạng nhu cầu tiêu dùng cần đa dạng nguyên liệu sử dụng có nh vậy
sản xuất kinh doanh mới đạt hiệu quả cao
III. Vai trò của làng nghề trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở
Nông thôn.
Các làng nghề, đặc biệt là các làng nghề truyền thống ngày càng có vai trò quan
trọng trong quá trình phát triển kinh tế nông thôn.
Các làng nghề góp phần tạo việc làm, phân công lao động thu hút lao động d thừa
cũng nh lo động nông nhàn ở nông thôn, Việt Nam là quốc gia chủ yếu sản xuất
nông nghiệp có gần 80% dân số nông thôn, tốc độ tăng dân số hàng năm khá cao,
tốc độ đô thị hoá cao làm cho đất đai sản xuất nông nghiệp bình quân ngày càng
giảm. Nguyên nhân này làm cho thu nhập từ nông nghiệp thấp, lực lợng lao động
nhàn rỗi tăng nhanh. Nghành nghề phi nông nghiệp thu hút nguồn lao động nhàn

rỗi rất mạnh. Ngành nghề phi nông nghiệp thu hút nguồn lao động nhàn rỗi này
làm giảm tình trạng không có việc làm lúc nông nhàn và lực lợng lao động ít
ruộng trong thời vụ nông nghiệp. Chúng ta không coi một số ngành nghề là phụ
nữa mà hãy coi chúng nh nghề thực thụ bởi nhiều nơi, nhiều ngành nghề mang lại
cho ngời lao động thu nhập cao hơn từ sản xuất nông nghiệp.
Các làng nghề hoạt động sẽ thu hút đợc nguồn vốn từ bên ngoài, uan trong hơn sử
dụng có hiệu quả nguồn vốn trong dân. Từng gia đình, từng hộ thì số vốn tự có là
không lớn nhng với u thế số đông nguồn vốn đợc sử dụng là rất lớn. Nguồn vốn tự
có trong dân đó không chỉ là vốn bằng tiền, mà đó còn là vốn cố định trong xây
dựng cơ bản. Hầu hết các ngành nghề sản xuất đều tiết kiệm sử dụng diện tích
nhà ở ( nh nghề mộc, nghề làm bún, nghề dệt...) tiết kiệm đợc lợng vốn rát lớn
cho xây dựng nhà xởng.
Một vấn đề quan trọng của phát triển làng nghề là góp phần và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, làm giảm tỷ xuất trọng của ngành nông
nghiệp trong thu nhập của vùng Nông thôn, tạo điều kiện rút ngắn khoảng cách
kinh tế giữa nông thôn và thành thị.
8
Làng nghề không chỉ có vai trò quan trọng trong bản sắc văn hoá dân tộc. Một số
hàng hoá thủ công truỳen thống đã vợt lên khỏi hàng hoá tiêu dùng thông thờng
mà nó mang tính nghệ thuật cao, đặc trng cho văn hoá làng xã Việt Nam. Bạn bè
quốc tế biết tới Việt Nam qua những sản phẩm này. Chúng ta cần gìn giữ và
không ngừng phát triển những văn hoá tốt đẹp ẩn chứa trong các sản phẩm này.
IV. Kinh nghiệm phát triển làng nghề truyền thống ở một số nớc và ở Việt
Nam.
1. Tổng quan làng nghề trên thế giới.
Lịch Sử kinh tế của xã hội loài ngời bắt đầu từ sự sử dụng những sản phẩm sẵn có
của tự nhiên, chủ yếu là sản phẩm nông nghiệp ( cây, trái cây, động vật tự nhiên.. )
để bảo đảm cuộc sống củ họ. Theo thời gian trí óc của loài ngời không ngừng phát
triển, họ đã tự sản xuất ra những sản phẩm thiết yếu để đảm bảo sự tồn tại. Xã hội với
những thể chế nhát định hình thành. Khi nền sản xuất cha phát triển quốc gia nào

cũng chỉ có nền kinh tế nông nghiệp là chính. Sự phát triên nh vũ bão của khoa học,
kỹ thuật đã đa một số nớc phát triển thành những nớc sản xuất công nghiệp. Đó là về
sau còn trớc đó quốc gia nào cũng có nông thôn, cũng có những sản phẩm truyền
thống đặc trng cho quốc gia đó và đợc bảo lu tới ngày nay.
Để hiểu sâu hơn về làng nghề truyền thống của Việt Nam, sự xem xét tìm hiểu làng
nghề ở các quốc gia trên thế giới là việc làm có ý nghĩa và thực sự cần thiết. Chúng ta
xem rằng sự phát triển làng nghề ở các quốc gia đó có gì khác với Việt Nam, những
hạn chế, những tích cực của họ.
* Cộng hoà liên bang Đức: Cũng nh các nớc công nghiệp châu Âu khác quá
trình công nghiệp hoá đất nớc bắt đầu từ sự phát triển của ngành công nghiệp nặng.
Tất nhiên rằng khi đó ngành thủ công nghiệp bị coi nhẹ và không đợc chú trọng đầu
t phát triển. Nừu trớc đây tỷ trọng của ngành này không nhỏ trong GDP với trình độ
kỹ thuạt, tay nghề lao động cao thì hiện nay nó chiếm tỷ trọng rất nhỏ bé và trình độ
tay nghề lao động thấp kém. Nguyên nhân nào dẫn tới tình trạng đó? Do công nghiệp
phát triển sẽ thu hút nhiều lao động vào làm việc, kéo theo nhiều lao động làm dịch
vụ hơn là làm nghề truyền thống. Tuy vậy các làng nghề thủ công mỹ nghệ vẫn tồn
tại với quy mô sản xuất trung bình. Hình thức này xuyên suốt từ cơ sở đến liên bang.
Hình thức tổ chức quy mô nh hộ, doanh nghiệp t nhân quy mô nhỏ đợc hởng sự u đãi
về thuế, vốn... Của Nhà nớc, kết quả này có đợc do sự nhận thức vì một nền kinh tế
bền vững của các nhà lãnh đạo Đức.
9
* Nhật Bản: Nhật bản là tên một quốc gia mà hầu hết dân số thế gới đều biết
đến và thán phục vì sự thông minh của con ngời Nhật Bản vì một sự phát triển kinh tế
thần kỳ mà nhiều quốc gia trên thế giới hằng mơ ớc, một quốc gia mà ngời ta biết có
nguồn tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn lạc hậu nhng vẫn là một nớc công nghiệp
phát triển vào hàng đầu thế giới. Tuy thế nớc Nhật luôn luôn còn tồn tại nông thôn,
ngành nông nghiệp luôn đợc chú trọng phát triển. Đặc biệt các làng nghề truyền
thống trong nông thôn Nhật Bản đợc duy trì và không ngừng phát triển, hình thức tổ
chức sản xuất chủ yếu vẫn là hộ. Hiện nay ở Nhật có 867 nghề tiểu thủ công nghiệp
khác nhau. Nghề cổ truyền nổi tiếng là nghề sơn mài và nghề rèn ( có khoảng 800

năm nay ). Những năm của thập niên 70 ở Nhật Bản xuất hiện phong trào mỗi thôn
làng một sản phẩm nhằm phát triển ngành nghề cổ truyền ở nông thôn. Kết quả
phong trào này là 143 loại sản phẩm đợc sản xuất thu đợc 358 triệu USD ngay trong
năm đầu tiên, tới năm 1992 tăng lên tới 1,2 tỉ USD. Phong trào này đợc mở rộng ra
toàn quốc vào năm 1993 riêng ngnhf tiểu thủ công nghiệp đạt doanh số 8,1 tỷ USD.
Hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đợc cải tiến so với trớc đây, các hộ làm ra sản
phẩm đợc các công ty lơn bao tiêu, nh thế việc tiêu thụ sản phẩm đợc dễ dàng và đơn
giản.
* Hàn Quốc: Những năm 70 dân số nông thôn Hàn Quốc chiếm tỷ lệ khá cao,
sự phát triển kinh tế của khu vực này thấp kém, một chơng trình khôi phục các ngành
nghề thủ công truyền thống đợc thực hiện nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn và nâng cao thu nhập cho khu vực này. Tới những năm 80 trên 23.000 lao động
trong hơn 1000 cơ sở sản xuất chủ yếu là hộ gia đình đã làm cho bộ mặt kinh tế nông
thôn Hàn Quốc có sự thay đổi. Để hỗ trợ cho hình thức kinh tế hộ phát triển trong cả
nớc đã có hơn 100 công ty đợc thành lập làm dịch vụ thơng mại đảm nhiệm cung câp
đầu vào và dịch vụ đầu ra. Hoạt động của ngành nghề truyền thống có bớc phát triển
lớn do có chính sách lợp lý và thị trờng tiêu thụ có xu hớng đợc mở rộng hơn trớc.
* Đài Loan: Làng nghề truyền thống ở Đài Loan đợc duy trì và phát triển trong
quá trình công nghiệp hoá đất nớc. Các hoạt động sản xuất kinh doanh trong các làng
nghề thông qua hợp đồng giữa các hộ và các công ty, các công ty chỉ thuê gia công
một số công đoạn của sản phẩm.
Các nớc đang phát triển có tỷ lệ c dân nông thôn cao hơn các nớc công nghiệp, tình
trạng nông thôn dồi dào hơn, các quốc gia này phát triển làng nghề, ngành nghề
truyền thống nh thế nào, hãy xem xét một vài quốc gia sau:
10
* Trung Quốc: Một quốc gia đông dân số nhất thế giới, là cái nôi của văn hoá
Châu á. Cũng nh nhiều quốc gia khác dân số Trung Quốc sinh sống chủ yếu ở những
vùng nông thôn, sự gia tăng dân số làm chp bình quân đất nông nghiệp ngày càng
giảm đi. Con ngời ở đây phải nghĩ cách sinh nhai, nhiều ngành nghề lúc đầu mang
tính chất nghề phụ xuất hiện, theo thời gian nó phát triển tồn tại tới ngày nay. Những

năm của thập kỹ 50 Trung Quốc có khoảng 10 triệu thợ thủ công làm ngành nghề
trong các làng nghề truyền thống, thời kỳ này hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh
chủ yếu là hộ gia đình quy mô nhỏ, khi nớc cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời
hoạt động ngành nghề đợc hợp tác hoá mọi khâu. Đây là quá trình làm chậm, kìm
hãm sự phát triển ngành nghề ở Trung Quốc mặc dù đợc sự quan tâm của Nhà Nớc.
Tới thời kỳ mở cửa, cải cách, mô hình kinh tế hộ đợc thừa nhận, các làng nghề đợc
sống lại với vẻ nhôn nhịp tự nhiên của nó. Với chủ trơng Ly nông bất ly hơng
ngành nghề đợc phát triển mạnh hơn trong nông thôn Trung Quốc, bên cạnh mô hình
kinh tế hộ, những ngời có tiền vốn, đầu óc kinh doanh đã thành lập xí nghiệp Hng
Tấn. Những xí nghiệp này thu hút lợng lớn trong việc tăng GDP của đất nớc. Nhiều
sản phẩm của làng truyền thống ở Trung Quốc đã xuất khẩu đi nhiều nớc đặc biệt là
hàng thảm, hàng thảm của Trung Quốc chiếm tới 75% trên thị trờng Nhật Bản.
* Indônexia: Với những kế hoạch 5 năm chính phủ Inđônêxia đã kính thích thúc
đẩy mạnh mẽ và sự phát triển của các ngành tiểu thủ công nghiệp ở các làng nghề.
Nhiều chủ rơng chính sách đợc ban hành, bên cạnh đó chính phủ còn tổ chức ra :
Hội đồng thủ công nghiệp quốc gia nhằm mục đích thúc đẩy sự phát triển của
ngành này. Nhiều việc làm thiết thực đã đợc thực hiện: tổ chức các cuộc thi thiết kế
mẫu mã, thờng xuyên tổ chức các cuộc triển lãm hàng tiểu thủ công nghiệp, các
Trung tâm phát triển tiểu thủ công nghiệp cũng đợc lập ra nhằm quản lý, hỗ trợ
ngành này. Kế hoạch phát triển ngành tiểu thủ công nghiệp đợc lồng ghép với các ch-
ơng trình phát triển nông thôn khác. Trong năm 1994 chính phủ đã cung cấp vốn cho
việc khôi phục một số làng nghề truyền thống tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho
khu vực nông thôn. Chơng trình này không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn mang ý
nghĩa xã hội, gìn giữ, bảo vệ văn hoá truyền thống của dân tộc, của nhân dân
Indônêxia.
* Philippin: Sự năng động của các chinh sách kinh tế là cần thiếu cho mọi quốc
gia, điều này thể hiện rõ ràng trong chính sách phát ttiển ngành tiểu thủ công nghiệp
triền thống của Philippin. Trong giai đoạn 1988 1992., chính phủ dã đề ra các
chính sách hớng ngành tiểu thủ công nghiệp vào sản xuất các mặt hàng tiêu dùng
11

đơn giản phục vụ cho nhu cầu trong nớc, chế biến lợng thực, thực phẩm, chế tạo công
cụ Sang giai đoạn tiếp theo chính sách của chính phủ là h ớng những ngành nghề
nông thôn vào những mặt hàng có khả năng xuất khẩu. Nhũng chính sách cụ thể: cho
vay vốn lãi xuất thấp, miễn thuế cho những ngành sản xuất này Một ví dụ điển
hình là chế biến Nata (nớc dừa kết tinh), đây là món ăn cổ truyền của nhân dân
Philippin, hiện nay có đợc xuất đi nhiều nớc. Nât đợc sản xuất chủ yếu ở các hộ gia
đình sau đó cung cấp cho công ty Interfood, chủ yếu đê công ty này xuất khẩu.
* Thái Lan: Với định hớng chuyển dịnh cơ cấu kinh tế nông thôn theo hớng giảm
tỷ trọng nông nghiệp tăng tỷ trọng của các ngành phi nông nghiệp, chính phủ đã thực
hiện nhiều chính sách phát triển ngành nghề, tạo điều hiện cho làng nghề phát triển
phục vụ nông nghiệp. Khi đó các ngành nghề và nông nghiệp cùng phát triển và cơ
cấu kinh tế có sự thay đổi. Trong số ngành nghề truyền thống của TháiLan thì ngành
chế tác vàng bạc, đá quý phát triển mạnh, năm 1990 kim ngạch xuất khẩu của ngành
này đạt tới tới 2 tỷ USD. Sau ngành này phải kể đến ngành gôm sứ Thái Lan nổi
tiếng ở nhiều Chính phủ Thái Lan không chỉ chú trọng tới những ngành nghề xuất
khẩu mà luôn quan tâm phát triển ngành nghề truyền thống khác nh ngành gỗ mỹ
nghệ, chế biến nông sản thự phẩn chế biến cây ăn quả. Nhờ có sự phát triển hợp lý
của các ngành kinh tế thành thị nông thôn mà nhiều năm nền kinh tế Thái Lan đã trở
nên phồn thịnh.
* Ân Độ: ấn độ là quốc gia có nhiều ngành nghề triền thống, với mục tiêu không
ngừng làm cho kinh tế nông thôn phát triển chính phủ đã lập ra các trung tâm dạy
nghề, động viên họ bằng cả vật chất và tinh thần. Trong số các làng nghề thì làng
nghề chế tác kim cơng hàng năm thu về cho đất nớc lợng lớn lại tệ.
* Một só kinh nghiệm rút ra từ sự phát triẻn ngành nghề. Làng nghề của các n-
ớc:
- Ra đời từ nông thôn, kinh tế làng nghề gắn chặt với kinh tế nông thôn, sự phát
triẻn của nó tuỳ thuộc vào điều kiện của tong nớc. Tuy vậy mọi chính phủ đều xác
định phát triển làng nghề là một quá trình lâu dài không phải trong chốc lát mà đạu
đợc mục tiêu định ra.
- Mong muốn sự phát triển của lang nghề nhng lại để nó tự do phát triển thì nhiều

khi không đạt đợc mục tiêu định ra.
- Mong muốn sự phát triển của làng nghề nhng lại để nó tự do phát riển thì nhiều
hình thức khá nhau: chất xám, vốn, kỹ thuật, thông tin hầu hết các làng nghề t các
quốc gia trên có hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh là hộ gia đình, sản phẩm đợc
12
các công ty bao tiêu. Có lẽ rằng hình thức hộ là mô hình sản xuất có hiệu quả kinh tế
cao nhất, một mô hình đáng để cho chúng ta học tập là xí nghiệp Hng Trấn trong
phong trào ly nông bất ly hơng ở Trung Quốc, tuy nhiên học tập không có nghĩa là
mang mô hình của họ dập khuôn y nguyên ở nớc ta. Tóm lại, hầt hết các quốc gia
đều có sự tác động của nhà nớc vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng
nghề ở nhng mức độ khác nhau và những giai đoạn khác nhau.
2. Khái quát làng nghề ở Việt Nam.
Cũng nh nhiều quốc gia khác Việt Nam có nhiều ngành nghề truyền thống: gốm
sứ, mộc nề, mây tre đan, dệt những ngành nghề này đ ợc phat triển thành làng
nghề, xã nghề ở nhiều vùng nông thôn trên toàn quốc. Trong những giai đoạn lịnh sử
khác nhau làng nghề có sự phát triển không giống nhau, lúc thăng, lúc trầm do tác
động tổng hợp của các nhân tố kinh tế xã hội, tự nhiên. Sau nhiều năm không ổn định
hiện nay các làng nghề truyền thống đang đợc phục hồi phát triển làng nghề ở Việtt
Nam là các tỉnh Bắc Ninh, Hà Tây Làng mộc mỹ nghệ Đồng kỵ, đúc đồng Đại
Bái,rệt lụa Hà Tây là những làng nghề nổi tiếng không chỉ là sản phẩm độc đáo mà
cả lợi ích kinh tế và xã hội. ở Gia lâm (Hà Nội) có làng nghề gốm sứ Bát Tràng hàng
năm cung cấp sản lợng lớn các sản phẩm gốm sứ cho thị trờng, thu hút lợng rất lớn
lao động ở các vùng lân cận tới làm việc tại đó. ở tỉnh Hải Dơng sản phẩm đậu xanh
là đặc trng của tỉnh mang lại thu nhập cao cho ngời lao động. Hình thức tổ chức sản
xuất kinh doanh từ đơn giản tới phức tạp, từ hộ tới các công ty. Dới đây chúng ta sẽ
tìm hiểu sự phát triển của các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong những
thập niên gần đây.
- Trớc thời kì Pháp thuộc: Hầu nh dân số nớc ta sống trong nông thôn, làm nông
nghiệp là chủ yếu, các làng nghề ổn định sản xuất, đáp ứng nhu cầu tại chỗ là
chính. Thời kỳ này hình thức chủ yếu trong giai đoạn này là phờng nghề do nhiều

hộ gia đình hình thành.
- Giai đoạn 1939 1945: Giai đoạn này làng nghề phát triển hơn trớc đó, do
chính sách vơ vét kinh tế nhằm bù đắp cho chiến tranh của thực dân Pháp.
- Giai đoạn 1945 1954: Thời kỳ mà cuộc kháng chiến chống Pháp ác liệt diễn ra,
một số làng nghề ở miền Bắc nằm trong vùng chiến sự không phát triển đợc, một
số làng nghề khác phát triển mạnh để cung cấp cho chiến trờng. Hình thức hộ là
chủ yếu trong giai đoạn này.
- Giai đoạn 1954 1975: Giai đoạn này miền Bắc là miền tự do, chúng ta tiến
hành công cuộc hợp tác hoá, cải tạo thơng nghiệp t bản t doanh, chúng ta không
13
thừa nhận thành phần kinh tế t bản t nhân. Chịu ảnh hởng của kinh tế này ở miền
Bắc nhiều hợp tác xã ngành nghề ở các làng nghề đợc thành lập đi vào hoạt động.
Mong muốn một xã hội không có áp bức bóc lột, xã hội công bằng mô hình kinh
tế chỉ huy đợc thực hiện một cách hệ thống từ trên xuống, ý nghĩa sản xuất kinh
doanh đọc lập, tự chủ không còn nữa, tất cả là một khuôn mẫu định sẵn.
Trong hợp tác, ngời tay nghề cao với ngời cha lành nghề đợc đối sử nh nhau cả về
kinh tế, về chính trị. Sự bình quân chủ nghĩa đã không kích thích đợc óc sáng tạo,
lòng say mê làm việc của ngời lao động, có chăng đó là trong khẩu hiệu.
Đờng lối chủ trơng, chính sách kinh tế của Đảng và nhà nớc trong giai đoạn này
đã kìm hãm sự phát triển của ngành tiểu thủ công nghiệp của các làng nghề.
Những năm về sau những hợp tác xã ngành nghề chỉ còn là cái xác với sự làm ăn
thua lỗ liên tục. Tuy nhiên trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ mô hình tập thể hoá,
hợp tác hoá là yếu tố quan trọng để dân tộc ta giành thắng loại.
Trong giai đoạn này thì làng nghề truyền thống, ngành thủ công nghiệp ỏ miền
nam lại khá phát triển với nhiều hình thức tổ chức, hộ sản xuất, kinh doanh kinh tế t
bản phát triển mạnh.
- Từ năm 1975 1986: Sau năm 1975 cả nớc đợc thống nhất, Đảng và Nhà nớc
chủ trơng áp dụng chính sách kinh tế tập trung trong cả nớc. Xoá bỏ thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh, tập thể. Trong giai đoạn nay làng nghề không pháp
triển lên đợc, nền kinh tế dựa qua nhiều vào viện trợ nớc ngoài.

Những năm cuối thập niên 70, viện trợ bị cắt giảm đột ngột làm cho nền kinh tế
vốn khó khăn nay càng khó khăn hơn. Trớc bối cảnh kinh tế đất nớc nh vậy t tởng cải
tổ nền kinh tế đã hình thành nhen nhóm, song vì còn mới lạ nên không đợc thừa nhận
thậm chí đợc coi là những t tởng phản động. Đảng và Nhà nớc đã nhanh chóng nhận
thấy những sai lầm thiếu sót trong đờng lối phát triển của mình. Đờng lối chính sách
đổi mới nền kinh tế đợc khẳng định qua Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam
năm 1986. Đây là một yếu tố quan trọng trong đờng lối chiến lợc kinh tế của chúng
ta, mà vấn đề quan trọng nhất là công nhận sự tồn tại khách quan của các thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh.
- Giai đoạn 1986 đến nay: Sau Đại hội VI hộ gia đình đợc công nhận là một đơn vị
kinh tế tự chủ. Đại hội VI mở ra hớng phát triển mới của nền kinh tế quốc gia nh-
ng đó mới là lý luận, chủ trơng, đờng lối, cha đi vào thực tiễn. Phải tới những năm
cuối của thập kỷ 80, do sự thay đổi của bối cảnh kinh tế chính trị quốc tế và tình
hình kinh tế trong nớc thì quá trình đổi mới mới thực sự là hiện thực. Sự cải
14
biến diễn ra mạnh mẽ trong nông nghiệp và nông thôn. Sự khẳng định sự tồn tại
nhiều thành phần kinh tế với hình thức tổ chức mở cửa cho nền kinh tế nớc ta
khởi sắc. Trong bối cảnh đó làng nghề truyền thống nói riêng, ngành tiểu thủ
công nghiệp nói chung đợc khôi phục và không ngừng phát triển khẳng định vai
trò to lớn trong khu vực kinh tế Nông thôn.
Hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh là hộ gia đình, hợp tác xã, tổ hợp sản xuất,
xí nghiệp, công ty... Hình thức không còn gò bó tuỳ theo khả năng của các chủ thể
mà chọn hình thức nào đó phù hợp cho sự phát triển của mình.
Luật công ty, luật HTX, luật Doanh nghiệp t nhân ra đời là hành lang pháp lý cho
các hình thức này tồn tại, đóng góp vào nền kinh tế, khẳng định vị trí của mình.
15
Chơng II
Thực trạng phát triển làng nghề truyền thống ở Huyện
chơng mỹ-hà tây.
I. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội ảnh hởng đến sự phát triển của làng

nghề truyền thống ở huyện Chơng Mỹ.
Chơng Mỹ là huyện liền kề với thủ đô Hà Nội, cách thị xã Hà Đông 10km, Hà
Nội 20km về phía Tây. Huyện có diện tích tự nhiên 23.294ha, đất nông nghiệp
14.282ha, toàn huyện có 31 xã và 02 thị trấn (Xuân Mai và Chúc Sơn), dân số có
27,3 vạn, có 57 nghìn hộ, 136.260 lao động. Đất nông nghiệp bình quân 533m
2
/ngời.
Là huyện có nghề mây tre giang đan truyền thống. Là vùng đất có cảnh quan đẹp, có
truyền thống lịch sử lâu đời, có nhiều di tích lịch sử danh lam thắng cảnh: Chùa
Trầm, Chùa Chăm Gian, núi Hoả Tinh, là quê hơng của Nhà sử học Ngô sỹ Liên, đô
đốc Đặng Tiến Đông... Nhiều di tích đã đợc Nhà nớc xếp hạng. Chơng Mỹ có 02 khu
vực Miếu Môn, Xuân Mai đã đợc chính phủ phê duyệt quy hoạch trong chuỗi đô thị
Miếu Môn-Xuân Mai, Hoà Lạc. Tuy nhiên Chơng Mỹ cũng là huyện nằm trong vùng
phân lũ của Trung Ương.
1. Điều kiện tự nhiên.
Địa hình của huyện Chơng Mỹ: Đợc chia là 2 vùng:
- Vùng Trung Du: Gồm các xã nằm ở phía Tây huyện: Trần phú, Hữu Văn, Mỹ
Lơng, Tân Tiến, Nam Phơng Tiến, Thuỷ Xuân Tiên, Thị trấn Xuân Mai, Đông
Sơn, Thanh Bình, Tiên Phơng (gồm 09 xã và 01 thị trấn).
- Vùng Đồng Bằng: Gồm 22 xã và 01 thị trấn.
Khí hậu: Huyện Chơng Mỹ nằm ở trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia
làm 4 mùa rõ rệt: Xuân-Hạ-Thu-Đông.
Số giờ nắng trung bình là 1460-1560 giờ nắng/1 năm, cao nhất vào tháng 6,
đạt 180 giờ/tháng, thấp nhất vào tháng 01, đạt 90 giờ/tháng.
Nhiệt độ trung bình năm là 20
0
C, nhiệt độ cao nhất là 38
0
C, nhiệt độ thấp nhất
là 9

0
C (vào tháng 1 và tháng 2), lợng ma bình quân 1.700mm/năm.
Huyện Chơng Mỹ có sông Đáy chảy qua địa phận huyện dài 28km từ xã
Phụng Châu đến xã Hoà Chính.
Tài nguyên đất đai:
Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện Chơng Mỹ là: 23.294,15ha
Trong đó:
- Đất nông nghiệp : 14.282,1ha, chiếm 61,3%
16
- Đất lâm nghiệp : 585,6ha, chiếm 2,51%
- Đất chuyên dùng : 5.034,18ha, chiếm 21,61%
- Đất thổ c : 1.206,07ha, chiếm 5,18%
- Đất cha sử dụng và sông ngòi-núi đá vôi: 2.186,21ha, chiếm 9,39%
- Vùng sản xuất lơng thực, rau mầu tập trung ở các xã nằm ven sông Đáy ở
phía Đông huyện (gồm 22 xã và 01 thị trấn).
- Vùng sản xuất cây công nghiệp hàng năm và cây ăn quả lâu năm tập trung ở
các xã phía Tây huyện (gồm 9 xã và 01 thị trấn).
Tài nguyên khoáng sản của Chơng Mỹ khá phong phú và đa dạng.
- Trữ lợng đá các loại khoảng 5 triệu m
3
nằm ở các xã: Trần phú, Tân Tiến, Mỹ
Lơng, Nam Phơng Tiến, Thuỷ Xuân Tiên.
- Đá vôi tập trung ở các xã: Trần Phú, Nam Phơng Tiến.
Tài nguyên nớc: huyện Chơng Mỹ có 03 hồ lớn: Hồ Đồng Sơng, Văn Sơn,
Miễu, trữ lợng nớc: 15 triệu m
3
, phục vụ tới cho các xã: Trần Phú, Hữu Văn,
Mỹ Lơng, Tân Tiến, Thuỷ Xuân Tiên, Thị trấn Xuân Mai.
2. Điều kiện kinh tế xã hội.
2.1. Về điều kiện kinh tế.

Vị trí địa lý: Vị trí của huyện rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế-xã hội,
huyện có hệ thống giao thông đờng bộ gồm có: Quốc lộ số 6 đi qua huyện với tổng
chiều dài là: 19km, Quốc lộ 21 với tổng chiều dài 18km, tỉnh lộ 80 với tổng chiều dài
là 20km.
Hiện nay tất cả các hệ thống đờng trục huyện đã đợc nâng cấp đổ bê tông hoặc
thâm nhập nhựa theo chơng trình vốn phân, chậm lũ và chơng trình WB2.
Hệ thống điện thoại: Số máy điện thoại hiện có trong huyện Chơng Mỹ có 8.031
máy, bình quân đạt 2,97 máy/100 dân. Toàn huyện có 25 điểm bu điện văn hoá xã,
và 08 bu cục phục vụ, nh vậy huyện có 33/33 điểm phục vụ, đã phủ sóng di động tại
Thị trấn Xuân Mai và Thị trấn Chúc Sơn (diện tích phủ sóng đạt 80%)
Huyện Chơng Mỹ hiện có 150 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó doanh
nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài 03, doanh nghiệp của Trung Ương, của Tỉnh 14, còn
lại là các Công ty TNHH và doanh nghiệp của địa phơng. Hàng năm tạo ra giá trị
hàng hoá là: 1.600 tỷ, tạo việc làm cho 7.484 lao động, trong đó lao động của Huyện
là: 6.297 chiếm 84%.
Huyện có tiềm năng về du lịch với các di tích lịch sử đợc xếp hạng quốc gia:
Chùa Trăm gian, chùa Trầm, bớc đầu đã hình thành du lịch làng nghề: Làng nghề
17
mây tre giang Phú Vinh, du lịch sinh thái: Làng nghề Tiên Lữ. Hàng năm thu hút
khoảng 10 vạn khách thăm quan du lịch, trong đó có hàng trăm đoàn khách nớc
ngoài.
2.2. Về điều kiện xã hội.
Về mặt hành chính huyện Chơng Mỹ có 33 xã và thị trấn với 229 thôn, làng.
Hiện nay Đảng bộ huyện Chơng Mỹ có 79 Đảng bộ trực thuộc, trong đó có 47
Đảng bộ cơ sở, Chi bộ có 32. Tổng số đảng viên toàn Đảng bộ đến 31/12/2003 là
6954 đồng chí, sinh hoạt ở 302 Chi bộ trong đó 33 Đảng uỷ trực thuộc Huyện uỷ,
còn lại là Chi bộ trực thuộc Đảng uỷ cơ sở.
Tổng dân số toàn huyện đến ngày 31/12/2003 là: 273.000 ngời, gồm Dân tộc
Kinh chiếm 99,6%, dân tộc Mờng chiếm 0,4%.
Trong đó nam 131.600; nữ 142.014

Mật độ dân số bình quân 1.159ngời/km
2
.
Dân số sống ở thị trấn: 26.195 ngời chiếm 9,8%
Dân số sống ở nông thôn: 247.419 ngời chiếm 90,2%
Tổng số lao động 136.260 lao động, chiếm 49,9%. Trong đo:
- Lao động sản xuất Nông nghiệp 78.000 lao động, chiếm 57,2%
- Lao động sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp 45.000 lao động chiếm
33%.
- Lao động trong thơng mại và dịch vụ 13.260 lao động, chiếm 9,8%.
- Về giáo dục, toàn huyện có 39 trờng tiểu học; phổ thông trung học cơ sở: 36
trờng, trờng phổ thông trung học và trung tâm hớng nghiệp dạy nghề: 06; Năm
học 2002-2003 toàn huyện có 66.223 học sinh đi học. Hiện nay 100% số trờng
học đã đợc cao tầng hoá và kiên cố hoá, không còn tình trạng học sinh học ca
3; 100% số xã trong huyện đã đạt tiêu chuẩn phổ cập tiểu học và trung học cơ
sở. Hàng năm có trên 300 cháu đỗ và các trờng Cao đẳng, Đại học.
- Công tác y tế đợc quan tâm với một bệnh viện cấp huyện và 03 phòng khám
khu vực, 33 trạm xá xã đều có bác sỹ. Công tác dân số kế hoạch hoá gia đình
có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ dân số phát triển tự nhiên năm 2003 là 1,47%, tỷ lệ
sinh con thứ 3 là: 14,8%.
II. Thực trạng phát triển làng nghề truyền thống ở Huyện.
1. Các điều kiện để một làng đợc công nhận là làng nghề truyền thống ở Ch-
ơng Mỹ.
18
1.1. Mục đích.
Nhằm vận động nhân dân các địa phơng trong huyện, tỉnh xây dựng, phát triển
ngành nghề, làng nghề truyền thống, cổ truyền, làng nghề mới sản xuất công nghiêp-
tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn quản lý, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp công nghiệp dịch vụ theo hớng công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông
nghiệp và nông thôn, tăng cờng công tác quản lý Nhà nớc về công nghiêp-tiểu thủ

công nghiệp trên địa bàn.
Xây dựng nông thôn mới, phát triển ngành nghề, làng nghề phải gắn với công tác
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội; quy hoạch, kế hoạch phát triển công
nghiêp-tiểu thủ công nghiệp, bảo vệ môi trờng của từng vùng, từng xã theo đinh hớng
XHCN
Tạo thuận lợi để làng nghề công nghiêp-tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ gắn bó với
các hoạt động văn hoá du lịch, giao lu kinh tế.
Làm cơ sở để xây dựng, phát triển, xét công nhận làng nghề.
1.2. Tiêu chuẩn làng nghề Công nghiệp-Tiểu thủ công nghiệp.
a) Chấp hành tốt các chủ trơng, chính sách của Đảng, Nhà nớc và mọi quy
định hợp pháp của chính quyền địa phơng.
b) Số hộ hoặc lao động làm nghề công nghiêp-tiểu thủ công nghiệp ở làng đạt
từ 50% trở lên so với tổng số hộ hoặc lao động của từng làng.
c) Giá trị sản xuất và thu nhập từ công nghiêp-tiểu thủ công nghiệp ở làng
chiểm tỷ trọng trên 50% so với tổng giá trị sản xuất và thu nhập của làng
trong năm. Đảm bảo vệ sinh môi trờng theo các quy định hiện hành.
d) Có hình thức tổ chức phù hợp, chịu sự quản lý Nhà nớc của chính quyền địa
phơng, gắn với các mục tiêu kinh tế xã hội và làng văn hoá của địa phơng.
Tên nghề của làng phải đợc gắn với tên làng: Nừu là làng nghề truyền thống, cổ
truyền còn tồn tại và phát triển thì lấy nghề đó đặt tên cho nghề của làng. Nừu làng
có nhiều nghề phát triển, sản phẩm nghề nào nổi tiếng nhất thì nên lấy nghề đó đặt
tên nghề của làng, hoặc trong làng có nhiều nghề không phải làng nghề truyền thống
hay cha có sản phẩm nghề nào nổi tiếng thì tên nghề của làng nên dựa vào nghề nào
có giá trị sản xuất và thu nhập cao nhất để đặt tên nghề gắn với tên làng. Việc đặt tên
nghề của làng do nhân dân bàn bạc thống nhất và chính quyền địa phơng xem xét đề
nghị.
19
Các tiêu chuẩn trên của làng nghề đợc ổn định và đạt từ 3 năm trở lên, hàng năm
có tổ chức theo dõi và cứ 3 năm UBND tỉnh xét công nhận một lần.
1.3. Yêu cầu tổ chức xét duyệt, công nhận làng nghề.

- Các địa phơng có nghề sản xuất công nghiêp-tiểu thủ công nghiệp phát triển,
kể cả làng nghề truyền thống, cổ truyền, làng nghề mới do nhân dân tự suy tôn
đều phải đăng ký xây dựng làng nghề, nếu đạt đợc các tiêu chuẩn quy định thì
có thể đề nghị xét công nhận là làng nghề.
- UBND xã, phờng, thị trấn có văn bản đề nghị, đợc UBND huyện, thị xã đồng
ý, gửi hồ sơ trực tiếp về Sở Công nghiệp Tỉnh để Sở Công nghiệp chủ trì thống
nhất với các sở, ban, ngành liên quan ở tỉnh và trình UBND tỉnh xét công
nhận.
- Nếu 3 năm liền không đạt các tiêu chuẩn làng nghề, UBND xã, phờng, thị trấn
báo cáo UBND huyện, thị xã và Sở Công nghiệp để báo cáo UBND tỉnh dừng
công nhận làng nghề.
1.4. Trách nhiệm, quyền lợi của làng nghề.
1.4.1. Về trách nhiệm của làng nghề.
- Tổ chức tuyên truyền, vận động nhân dân hăng hái tham gia xây dựng, phát
triển ngành nghề, làng nghề.
- Xây dựng làng nghề tiếp tục phát triển, động viên các nghệ nhân, thợ giỏi
tham gia đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh phát triển các mặt hàng mà pháp luật
cho phép, góp phần xây dựng kinh tế địa phơng ngày một phát triển, hoàn
thành tốt các nghĩa vụ với Nhà nớc.
- Xây dựng, phát triển làng nghề từng bớc gắn với xây dựng làng văn hoá và các
phong trào xã hội khác.
- Chấp hành tốt các chủ trơng, chính sách của Đảng, Nhà nớc đã ban hành và
hàng năm gửi báo cáo tình hình hoạt động của làng nghề về Sở Công nghiệp
tỉnh.
- Thờng xuyên đi sâu nghiên cứu cải tiến thiết bị công nghệ sản xuất đa dạng
hoá mẫu mã sảm phẩm chất lợng cao, du nhập nghề mới, sảm phẩm mới để
chiếm lĩnh thị trờng, đồng thời đảm bảo vệ sinh, môi trờng để duy trì sự tồn tại
của làng nghề.
1.4.2. Về quyền lợi.
20

- Đợc thực hiện các chế độ u đãi theo quy định của Nhà nớc và đợc hởng chính
sách khuyến công, vay vốn, giải quyết đất đai, xây dựng cơ sở hạng tầng...
theo dự án đợc duyệt.
- Đợc Nhà nớc bảo hộ quyền sở hữu bản quyền công nghiệp.
- Đợc đào tạo, bồi dỡng tham gia các lớp học nghề cán bộ quản lý, nghệ nhân,
công nhân lành nghề theo quy định của Nhà nớc.
1.5. Tổ chức thực hiện.
- UBND xã, phờng, thị trấn phân công cán bộ theo dõi, quản lý làng nghề, tập
hợp các thông tin kiến nghị của cán bộ, ngời làm nghề, giải thích cho mọi ngời
biết, nếu vợt thẩm quyền thì báo cáo cấp trên xem xét, giải quyết theo quy
định.
- Các Sở, ban, ngành theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đợc phân cấp, phối
hợp với UBND các huyện, thị xã tổ chức hớng dẫn các địa phơng (làng) phấn
đấu xây dựng, phát triển ngành nghề, làng nghề đến năm 2005, toàn huyện có
20 làng (phấn đấu 2010 toàn tỉnh có 150 làng) công nghiêp-tiểu thủ công
nghiệp đạt tiêu chuẩn theo quy định.
- Hàng năm, Giám đốc Sở Công nghiệp phối hợp với các sở, ban, ngành có liên
quan, UBND các huyện, thị xã tiến hành tổng kết việc khôi phục, nhân cấy
nghề và xây dựng phát triển làng nghề, gắn với công tác tổng kết công nghiệp-
tiểu thủ công nghiệp của địa phơng.
- Quá trình thực hiện cần tổ chức rút kinh nghiệm, bổ xung hoàn thiện quy định
về làng nghề.
2. Thực trạng phát triển của làng nghề truyền thống.
2.1. Số lợng, quy mô và tình hình phát triển của các làng nghề truyền
thống.
Tính cho đến ngày 09/07/2003 thì Huyện Chơng Mỹ đã đợc công nhận 15 làng
nghề truyền thống đạt yêu cầu mà Tỉnh Hà Tây đề ra. Mục tiêu của Huyện uỷ,
UBND đến 2005 sẽ tiếp tục công nhân 5 làng nghề nữa đạt tiêu chuẩn đề ra.
15 làng nghề này đợc công nhận theo 3 đợt:
Đợt 1: Ngày 17/03/2001 Quyết định số 315 (27/03/2001) của UBND tỉnh Hà Tây

công nhận 2 làng nghề đạt tiêu chuẩn.
- Làng nghề Mây tre đan Phú Vinh (xã Phú Nghĩa):
Tổng số hộ là 541 hộ, trong đó số hộ sản xuất Công nghiệp tiểu thủ công
nghiệp là 500 hộ, chiếm tỷ lệ 92%.
21
Tổng số lao động là 1078 ngời, trong đó lao động sản xuất Công nghiệp tiểu
thủ công nghiệp là 1002 ngời, chiếm tỷ lệ 93%.
Tổng giá trị sản xuất là 5,7 tỷ đồng, trong đó giá trị sản xuất công nghiệp tiểu
thủ công nghiệp là 3,6 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 63%.
Thu nhập bình quân 1,72 triệu đồng/ngời/năm, trong đó thu nhập bình quân từ sản
xuất Công nghiệp tiểu thủ công nghiệp là 1,75 triệu đồng/ngời/năm.
Nghề mây tre giang đan Phú Vinh đã có trên 100 năm nay, từ thời thực dân Pháp
còn đang đô hộ nớc ta. Lúc đầu chỉ có một số hộ làm đem bán tại thị trờng Hà Nội.
Khi thực dân Pháp chiếm đóng đã đa các hàng mây tre giang đan về nớc. Đất nớc
hoà bình, nghề mây tre giang đan Phú Vinh phát triển mạnh vì đợc đem bán ở nhiều
nớc. Đến năm 1986 thì 100% số hộ ở Phú Vinh đã làm nghề này. Từ khâu khai thác
vật liệu, chế biến sản phẩm, ký kết hợp đồng xuất khẩu, đóng Côngtennơ hàng để đa
đi đều đợc ngời làng Phú Vinh làm thành thạo. Mẫu mã hàng ở đây vừa phong phú,
vừa đẹp vì Phú Vinh gần nh đợc coi là đất tổ nghề này.
- Làng nghề Mây tre đan + Mộc Phù Yên (xã Trờng Yên):
Tổng số hộ là 568 hộ, trong đó số hộ sản xuất Công nghiệp tiểu thủ công
nghiệp là 510 hộ, chiếm tỷ lệ 88%.
Tổng số lao động là 1447 ngời, trong đó lao động sản xuất Công nghiệp tiểu
thủ công nghiệp là 1261 ngời, chiếm tỷ lệ 87%.
Tổng giá trị sản xuất là 12,5 tỷ đồng, trong đó giá trị sản xuất công nghiệp tiểu
thủ công nghiệp là 8,3 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 66%.
Thu nhập bình quân 2,77 triệu đồng/ngời/năm, trong đó thu nhập bình quân từ sản
xuất Công nghiệp tiểu thủ công nghiệp là 2,8 triệu đồng/ngời/năm.
Những năm 1970, nghề mây tre giang đan xuất khẩu bắt đầu có ở Phù Yên. Lúc
ấy, bà con ở đây làm để bán cho các ông chủ, bà chủ của các xã bạn. Nghề phát triển

dần va đến nay đã trở thành nghề chính của thôn. 95% số hộ trong làng tham gia làm
nghề. Nghề đã giải quyết đợc việc làm cho cả số lao động phụ. Sản phẩm ở đây đều
thông qua tổ hợp tác mây tre giang đan xuất khẩu thu mua gom và xuất đi nớc ngoài,
không bán qua địa phơng khác. Nhiều hộ đã đợc giải quyết đất để mở rộng sản xuất
và làm ăn lớn.
Song song với nó thì nghề Mộc mặc dù không nhiều về quy mô nhng nó cũng có
những đóng góp không nhỏ về kinh tế cũng nh những giá trị về văn hoá, nhân văn
cho làng. Tạo công ăn việc làm 303 lao động trong lĩnh vực nghề mộc, đem lại thu
nhập bình quân/ngời/năm từ 3,6 triệu-3,9 triệu (khoảng 202.076đ/ngời/tháng).
22
Đợt 2: Ngày 01/11/2001) UBND Tỉnh công nhận 7 làng nghề theo quyết định số
1769.
- Làng nghề mây giang đan Quan Châm (xã Phú Nghĩa):
Tổng số hộ là 147 hộ, trong đó số hộ sản xuất Công nghiệp tiểu thủ công
nghiệp là 129 hộ, chiếm tỷ lệ 88%.
Tổng số lao động là 285 ngời, trong đó lao động sản xuất Công nghiệp tiểu thủ
công nghiệp là 247 ngời, chiếm tỷ lệ 86%.
Tổng giá trị sản xuất là 1,18 tỷ đồng, trong đó giá trị sản xuất công nghiệp tiểu
thủ công nghiệp là 1,07 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 58%.
Thu nhập bình quân 2,0 triệu đồng/ngời/năm, trong đó thu nhập bình quân từ sản
xuất Công nghiệp tiểu thủ công nghiệp là 2,0 tỷ đồng/ngời/năm.
Quan Châm có nghề đan may giang xuất khẩu từ lâu đời. Trớc đây, hàng mây đan
chỉ nhằm phục vụ sinh hoạt trong nớc. Sau này, khi những sản phẩm may đan đợc
ngời Đông Âu mến mộ thì hàng ở đây đã đợc xuất đi thông qua các hiệp định thơng
mại. Hiện nay, nghề mây đan càng phát triển mạnh vì ngoài thị trờng Đông Âu, hàng
còn đợc đa sang các nớc: Hồng Kông, Hà Quốc, Nhật Bản... hầu hết các nớc kinh tế
phát triển mạnh đều rất thích dùng hàng mây tre đan vì ngoài yếu tố thẩm mỹ, mặt
hàng này lại rẻ tiền và khi hỏng thì không gây ô nhiễm môi trờng.
- Làng nghề mây tre giang đan Khê Than (xã Phú Nghĩa):
Tổng số hộ là 108 hộ, trong đó số hộ sản xuất Công nghiệp tiểu thủ công

nghiệp là 88 hộ, chiếm tỷ lệ 81%.
Tổng số lao động là 197 ngời, trong đó lao động sản xuất Công nghiệp tiểu thủ
công nghiệp là 158 ngời, chiếm tỷ lệ 80%.
Tổng giá trị sản xuất là 1,07 tỷ đồng, trong đó giá trị sản xuất công nghiệp tiểu
thủ công nghiệp là 0,55 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 51%.
Thu nhập bình quân 1,8 triệu đồng/ngời/năm, trong đó thu nhập bình quân từ sản
xuất Công nghiệp tiểu thủ công nghiệp là 1,9 triệu đồng/ngời/năm.
Đây cũng là làng nghề nổi tiếng, có từ hơn 100 năm nay. Từ năm 1986 thì 99% số
hộ trong làng nghề này tuỳ theo mức độ từng nhà. Ngoài số lao động chính làm nghề
thì hơn 200 lao động phụ trong làng cũng tham gia làm suốt ngày. Nhờ đó, thu nhập
của bà con ngày một tăng, đời sống đợc cải thiện. Trớc đây, hàng của Khê Than xuất
khẩu đi các nớc nhờ Công ty xuất nhập khẩu tỉnh. Hiện nay, hầu hết các nớc a
chuộng hàng mây tre đan thì đều đã có mặt hàng của Khê Than nhng đều do các ông
chủ, bà chủ Khê Than đảm nhận từ đầu đến cuối.
23
- Làng nghề mây tre giang đan Lam Điền (xã Lam Điền):
Tổng số hộ là 486 hộ, trong đó số hộ sản xuất Công nghiệp tiểu thủ công
nghiệp là 448 hộ, chiếm tỷ lệ 92%.
Tổng số lao động là 1622 ngời, trong đó lao động sản xuất Công nghiệp tiểu
thủ công nghiệp là 1314 ngời, chiếm tỷ lệ 81%.
Tổng giá trị sản xuất là 5,173 tỷ đồng, trong đó giá trị sản xuất công nghiệp
tiểu thủ công nghiệp là 3,5 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 68%.
Thu nhập bình quân 1,43 triệu đồng/ngời/năm, trong đó thu nhập bình quân từ sản
xuất Công nghiệp tiểu thủ công nghiệp là 1,3 tỷ đồng/ngời/năm.
Những năm 1960, thôn Lam Điền có một vài gia đình nên Phú Vinh học nghề
mây tre đan. Thấy nghề cũng có thêm thu nhập và giải quyết đợc việc làm lúc nông
nhàn nên anh em, họ hàng đã dạy cho nhau. Càng về những năm gần đây, nghề mây
tre đan càng phát triển mạnh vì có nơi tiêu thụ tốt. Sản phẩm ngày càng đa dạng,
phong phú. Ngời lao động của địa phơng cũng dồi dào nên giá trị sản lợng tăng lên
nhanh chóng. Nếu năm 1996, giá trị hàng Thủ công nghiệp của Lam Điền mới đợc

2,3 tỷ đồng, thì đến năm 2000 đã nên 3,5 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 68% là nguồn thu
nhập chính của ngời dân nơi đây.
- Làng nghề mây tre đan Yên Kiện (xã Đông Phơng Yên):
Tổng số hộ là 282 hộ, trong đó hộ sản xuất công nghiệp tiểu thủ công nghiệp
là 167, chiếm tỷ lệ 59%.
Tổng số lao động là 568 ngời, trong đó lao động sản xuất Công nghiệp tiểu thủ
công nghiệp là 358 ngời chiếm tỷ lệ 63%.
Tổng giá trị sản xuất là 4,06 tỷ đồng, trong đó giá trị sản xuất Công nghiệp
tiểu thủ công nghiệp là 2,5 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 61%.
Thu nhập bình quân 3,21 triệu đồng/ngời/năm, trong đo thu nhập bình quân từ sản
xuất Công nghiệp tiểu thủ công nghiệp là 3,1 triệu đồng/ngời/năm.
Yên Kiện nằm trong vùng bán sơn địa của xã Đông Phơng Yên. Nghề mây tre
giang đan xâm nhập vào thôn từ những năm 1960. Đến nay, có 59,2% số hộ làm
nghề này tuỳ theo mức độ nhiều ít khác nhau. Nừu tính cả lao động phụ thì có tới
550 ngời tham gia làm nghề. Năm 2000, tỷ trong hàng Thủ công nghiệp ở đây đã
chiếm tới gần 62%. Trong làng đã có vài ba doanh nghiệp lớn chuyên tổ chức mua
gom hàng hoá. Mặc dù nghề cha thuộc diện lâu đời nhng đã xuất hiện nhiều ngời
giỏi có tiếng. Hàng ở đây chủ yếu đợc đa đi các nớc: Nhật Bản, Liên xô(cũ), Tây Ban
Nha.
24
- Làng nghề mây tre đan Đông Cựu (xã Đông Phơng Yên):
Tổng số hộ là 285 hộ, trong đó hộ sản xuất công nghiệp tiểu thủ công nghiệp
là 250, chiếm tỷ lệ 87%.
Tổng số lao động là 500 ngời, trong đó lao động sản xuất Công nghiệp tiểu thủ
công nghiệp là 465 ngời, chiếm tỷ lệ 93%.
Tổng giá trị sản xuất là 4,3 tỷ đồng, trong đó giá trị sản xuất công nghiệp tiểu
thủ công nghiệp là 2,7 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 63%.
Thu nhập bình quân 3,87 triệu đồng/ngời/năm, trong đó thu nhập bình quân từ sản
xuất Công nghiệp tiểu thủ công nghiệp là 3,85 tỷ đồng/ngời/năm.
Thôn Đông Cựu nằm ven quốc lộ 6 (Hà Nội Hoà Bình) nên giao thông thuận

lợi. Xã có nghề mây tre đan từ năm 1960. Hiện 87% số hộ trong xã tham gia làm
nghề. Nừu tính cả lao động phụ thì nghề mây tre đan đang thu hút cỡ gần 600 ngời.
Giá trị thu từ nghề này chiếm 63% vào năm 2000, đến nay đã tăng hơn. Trong xã có
doanh nghiệp lớn, tự làm luôn việc ký hợp đồng, đóng Côngtennơ xuất khẩu. Nhiều
ngời có tay nghề giỏi. Hiện hàng ở đây đợc các nớc: Liên xô(cũ), Nhật Bản, Tây Ban
Nha rất a chuộng.
- Làng nghề mây tre đan thôn Đồi 3 (xã Đông Phơng Yên):
Tổng số hộ là 238 hộ, trong đó hộ sản xuất công nghiệp tiểu thủ công nghiệp
là 184, chiếm tỷ lệ 77%.
Tổng số lao động là 594 ngời, trong đó lao động sản xuất Công nghiệp tiểu thủ
công nghiệp là 494 ngời, chiếm tỷ lệ 83%.
Tổng giá trị sản xuất là 7,63 tỷ đồng, trong đó giá trị sản xuất công nghiệp tiểu
thủ công nghiệp là 5,2 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 70%.
Thu nhập bình quân 5,2 triệu đồng/ngời/năm, trong đó thu nhập bình quân từ sản
xuất Công nghiệp tiểu thủ công nghiệp là 5,4 tỷ đồng/ngời/năm.
Thôn Đồi ba năm trong vùng bán sơn địa giáp trục đờng giao thông quốc lộ 6 đi
Hà Nội, Hoà Bình nên rất thuận tiện trong chuyên chở hàng hoá. Nghề mây tre giang
đan sớm hình thành từ đầu những năm 1960, lúc đầu chỉ có số ít gia đình tham gia
với hình thức sản xuất nhỏ bé. Đến nay, ngành nghề trong thôn đã phát triển mạnh,
thu hút gần 500 lao động chính và khoảng 800 lao động phụ, đóng góp tích cực vào
công cuộc xoá đói giảm nghèo của địa phơng. Với tính chất sản xuất phân tán trong
từng hộ gia đình, vật liệu đợc dân khai thác đem về ban, do đó không tốn nhiều diện
tích, đầu t vốn ban đầu ít, hiệu quả kinh tế cao. Làng nghề đã tạo nên những nhà
25

×