Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

đề tài “giới thiệu khái quát về điều tra xã hội học”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.75 KB, 41 trang )


ĐỀ TÀI
“Giới thiệu khái quát về điều tra xã
hội học”
1
Giáo viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện :

1
PHỤ LỤC
LỜI NÓI ĐẦU:………………………………………………………………………. 3
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CỦA XÃ HỘI HỌC 4
1. Xã hội học ……………………………………………………………………… 4
2. Quan hệ xã hội………………………………………………………………… 4
3. Tương tác xã hội………………………………………………………………… 5
4. Vị thế xã hội……………………………………………………………………… 5
5. Địa vị xã hội……………………………………………………………………… 6
6. Vai trò xã hội…………………………………………………………………… 6
7. Hành động xã hội……………………………………………………………… 7
8. Thiết chế xã hội………………………………………………………………… 8
9. Bất bình đẳng xã hội…………………………………………………………… 9
10. Phân tầng xã hội……………………………………………………………… 10
11. Di động xã hội………………………………………………………………… 11
II. LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI HỌC………………… 12
1. Lịch sử ra đời của xã hội học…………………………………………………. 12
2. Điều kiện và tiền đề của sự ra đời của xã hội học…………………………. 13
2.1. Điều kiện phát triển kinh tế xã hội………………………………… 13
2.2. Những tiền đề về tư tưởng, lí luận khoa học…………………… 14
2.3. Một số đóng góp của các nhà sáng lập ra xã hội học……………. 15
III. ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA XÃ HỘI HỌC………… 18
1. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học………………………………………… 18


2. Chức năng của xã hội học…………………………………………………… 19
2.1. Chức năng nhận thức…………………………………………………. 20
2.2. Chức năng tư tưởng…………………………………………………… 20
2
2.3. Chức năng thực tiễn…………………………………………………… 21
2.4. Chức năng dự báo……………………………………………………… 22
2.5 Chức năng quản lý………………………………………………………. 22
2.6. Chức năng công cụ……………………………………………………… 22
3. Nhiệm vụ của xã hội học…………………………………………………. 23
IV. MỘT SỐ LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC…………………… 23
1. Xã hội học nông thôn…………………………………………………………… 23
2. Xã hội học đô thị………………………………………………………………… 24
3. Xã hội học gia đình……………………………………………………………… 24
4. Xã hội học về chính sách xã hội……………………………………………… 25
5. Xã hội học về pháp luật và tội phạm………………………………………… 26
6. Xã hội học về dư luận xã hội và thông tin đại chúng……………………… 26
7. Xã hội học giáo dục 28
V. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC……………………. 29
1. Phương pháp chọn mẫu…………………………………………………………. 29
2. Phương pháp phân tích các nguồn tài liệu……………………………………. 30
3. Phương pháp phỏng vấn…………………………………………………………. 31
4. Phương pháp qua sát…………………………………………………………… 32
KẾT LUẬN…………………………………………………………………………… 33

3
LỜI NÓI ĐẦU
Xã hội học là một môn khoa học cụ thể, nó nằm trong hệ thống các môn khoa
học về xã hội và nhân văn. Xã hội học đã ra đời muộn hơn nhiều môn khoa học khác
nhưng đã nhanh chóng phát triển, trở thành một môn khoa học độc lập. Kiến thức về
xã hội học liên quan mật thiết với nhiều ngành khoa học, nhất là trong lĩnh vực các

khoa học xã hội: dân tộc học, văn hóa học, chính trị học, giáo dục học, tâm lí học…
Giống như các khoa học nghiên cứu về con người, xã hội học là lĩnh vực
nghiên cứu một cách khoa học những con người trong mối tương quan với người
khác nhưng đi sâu hơn trong việc nghiên cứu các hoạt động xã hội, các hành vi xã
hội của con người.
Để hiểu rõ hơn về xã hội học nên em xin chọn đề tài “Giới thiệu khái quát về
điều tra xã hội học” làm bài tiểu luận của môn học.
4
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CỦA XÃ HỘI HỌC.
1. Xã hội học.
Muốn hiểu đúng nội dung và tính chất của xã hội học chúng ta bắt đầu tìm
hiểu nguồn gốc của thuật ngữ này. Người đưa thuật ngữ “xã hội học” vào ngôn ngữ
khoa học là Auguste Comte lần đầu tiên vào năm 1839. Thuật ngữ này được ghép từ
hai chữ Societas (xã hội) gốc latinh và logos (học thuyết) gốc Hy lạp có hàm nghĩa
là một khoa học nghiên cứu về xã hội, mặt xã hội của xã hội loài người.
Xã hội học mà Auguste Comte đưa ra là khoa học nghiên cứu vừa trên cơ sở
định tính, vừa trên cơ sở định lượng đối với các quá trình xã hội. Theo đó, xã hội
được mô tả như một hệ thống hoàn chỉnh có cấu trúc xác định (các tập hợp, nhóm,
tầng lớp, các cộng đồng) được cấu trúc và vận hành theo các thiết chế, luôn luôn vận
động, biến đổi và phát triển có tính qui luật. Ngoài các phương pháp thông thường,
theo ông, cần nghiên cứu bằng phương pháp thực nghiệm xã hội, xem đó như là cơ
sở thực tế của lí luận xã hội học.
Nối tiếp Auguste Comte là Emile Durkheim (1858 – 1879), Max Weber
(1864 – 1920) và đặc biệt là sự cống hiến của Karl Marx, các tác giả từ góc nhìn
khác nhau đã phát hiện các khía cạnh mới, vấn đề mới trong đời sống xã hội, làm
cho xã hội ngày càng phát triển và phong phú thêm.
Mặc dù ngày nay có rất nhiều trường phái xã hội học có quan điểm nghiên
cứu khác nhau, nghiên cứu từ thực tiễn xã hội khác nhau, nhưng các định nghĩa về
xã hội học mà họ nêu lên cũng có nhiều điểm tương đồng, những khái quát lí luận
giống nhau.

Nói một cách khái quát, xã hội học là một khoa học thuộc lĩnh vực khoa học
xã hội, nghiên cứu các tương tác xã hội, đặc biệt đi sâu nghiên cứu một cách có hệ
thống sự phát triển, cấu trúc, mối tương quan xã hội và hành vi, hoạt động của con
người trong các tổ chức nhóm xã hội. Mối tương tác này liên hệ với nền văn hóa
rộng lớn cũng như toàn bộ cơ cấu xã hội.
=> Định nghĩa chung xã hội học:
Xã hội học là một lĩnh vực khoa học xã hội nghiên cứu quy luật, tính quy luật
của sự hình thành, vận động, biến đổi mối quan hệ, tương tác qua lại giữa con người
và xã hội.
2. Quan hệ xã hội.
5
Quan hệ xã hội là khái niệm chỉ mối quan hệ giữa người và người trong cơ
cấu xã hội (nhóm, tập hợp, hội, đoàn), trong các hoạt động và các tương quan
xã hội.
Quan hệ xã hội được hình thành trong quá trình hoạt động chung trong đời
sống xã hội hàng ngày. Người ta có thể phân biệt quan hệ xã hội thành các lĩnh vực
khác nhau: quan hệ vật chất và quan hệ tư tưởng.
3. Tương tác xã hội.
Tương tác xã hội là khái niệm chỉ mối quan hệ tương hỗ, lệ thuộc vào nhau
của những con người trong xã hội. Phản ánh tương hỗ và sự thông đạt hỗ tương (tác
động, ảnh hưởng qua lại) đối với từng cá nhân và các đoàn thể, cộng đồng… là điều
kiện vô cùng thiết yếu, nhờ nó, thông qua nó mà các đoàn thể, cả xã hội mới có thể
tồn tại và hoạt động. Con người cũng như các tập hợp, các đoàn thể luôn luôn có
những mối tương quan, tác động ảnh hưởng lẫn nhau với nhiều cách, nhiều dạng vẻ,
và đời sống xã hội vì thế, luôn luôn là một hệ thống tương quan xã hội mà trong đó
chúng ta ảnh hưởng, tác động với nhau trong môi trường rộng lớn và phức tạp.
Thông qua các quan hệ xã hội, mối tương quan xã hội hình thành và thông
qua các hoạt động chúng ta ảnh hưởng, tác động đến nhau (với các vai trò, các chức
năng, nhiệm vụ cụ thể). Sự tương tác nào cũng có mối liên hệ với các khuôn mẫu,
tác phong, chúng luôn luôn hiện hữu, có thể phân biệt được, lặp đi lặp lại và có ảnh

hưởng tương hỗ, trong đó hai hoặc nhiều người cùng thực hiện các nhiệm vụ xã hội
của họ. Tương tác xã hội không tách rời quá trình xã hội hóa của cá nhân và được
nhìn nhận như là một quá trình tất yếu, kéo dài suốt cuộc đời.
4. Vị thế xã hội.
Vị thế xã hội là một dạng biểu hiện địa vị của con người, được hình thành
trong cơ cấu của xã hội, phụ thuộc vào sự thẩm định và sự đánh giá của xã hội trong
một điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể.
Nói cách khác, có thể hiểu vị thế xã hội của một người nào đó chính là địa vị
hay thứ bậc mà những người sống cùng thời dành cho cho trong bối cảnh anh ta sinh
sống, lao động và phát triển. Do vậy, vị thế là sản phẩm của đời sống tinh thần, là
thái độ và mức độ tôn trọng hay khinh rẻ của xã hội bày tỏ, biểu lộ ra đối với các cá
nhân.
Như vậy, những yếu tố tạo nên vị thế tồn tại khách quan ngoài cá nhân, thể
hiện ra ở các tiêu chuẩn có tính phổ biến (trong xã hội) về sự tán thành (khẳng định)
hay chê bai (phủ định) của xã hội. Đó cũng chính là các chuẩn mực, các giá trị xã
hội nghĩa là những điều người ta cho là quan trọng nhất, đáng tôn trọng nhất.
6
Xã hội luôn luôn biến chuyển và phát triển, do đó vị thế xã hội cũng luôn luôn
di chuyển, bởi vì con người và vị thế xã hội của họ luôn luôn có mối tương quan mật
thiết với nhau.
Trong đời sống xã hội, vị thế xã hội thường tương quan với quyền lực. Nếu ta
hiểu rằng quyền lực xã hội có ý nghĩa là ảnh hưởng của một người có thể có đối với
người khác trong xã hội (đó cũng là biểu hiện vị thế của người ấy).
Xét về mặt tâm lí xã hội, người ta thường tin tưởng, tín nhiệm vào những người có
vị thế xã hội cao hơn vì họ có ảnh hưởng lớn, rộng rãi đối với toàn xã hội nghĩa là
hơn hẳn người bình thường.
5. Địa vị xã hội.
Địa vị xã hội là sự phản ánh vị thế xã hội của cá nhân, do cá nhận đạt được ở
trong một nhóm hoặc là một thứ bậc xã hội trong nhóm này khi so sánh với thành
viên khác của nhóm khác.

Có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng địa vị xã hội của một người là cái mà xã
hội công nhận về người này một cách tương đối tổng quát xét trong bậc thang xã
hội. Cũng có nhiều người thì cho rằng địa vị xã hội là sự kết tinh vị thế xã hội của
một người. Trong trường hợp này địa vị xã hội của người đó là ổn định được mọi
người thừa nhận
Một số tác giả trong quá trình nghiên cứu cho thấy một địa vị của cá nhân
thường phản ánh những quyền lực và quyền lợi mà cá nhân đó được hưởng. Trong
đời sống xã hội có nhiều biểu hiện khác nhau về địa vị xã hội của mỗi người. Thông
thường có:
- Địa vị gán: Là loại địa vị mà cá nhân sinh ra được thừa hưởng (gần như tự
nhiên) do đặc điểm của quan hệ xã hội của mình như từ tôn giáo, chủng tộc, sắc
tộc, giòng dõi, gia thế…
- Địa vị giành được: Là loại địa vị mà con người nhờ sự phấn đấu, nỗ lực
trong các hoạt động sản xuất, đấu tranh, nghiên cứu khoa học… đạt được và được xã
hội thừa nhận.
6. Vai trò xã hội.
Khái niệm về vai trò xã hội dùng để chỉ vai diễn hoặc trách nhiệm mà cá nhân
đảm đương thực hiện trong một thời gian nhất định do mọi người tín nhiệm giao phó
và mong đợi. Những vai trò này do cá nhân học hỏi, rèn luyện trong quá trình xã hội
hóa cá nhân tạo nên. Tất nhiên trong một tổ chức xã hội bao gồm nhiều vai trò xã
7
hội “phân công”, có người tùy năng lực, điều kiện chủ quan và khách quan có thể có
vai trò là người thừa hành, thực hiện.
Trong xã hội học khi nghiên cứu vai trò xã hội của cá nhân chúng ta phải
nghiên cứu mô tả các đặc điểm của vai trò và các cách thức ảnh hưởng của chúng
đối với hành vi của mỗi các nhân.
Người ta thường chú ý đến vai trò định chế tức là loại vai trò mà mỗi cá nhân
khi sắm vai phải hành động theo khuôn mẫu, cách thức nhất định mà định chế đã
chế tài, quy định sẵn. Ngày nay trong xã hội, tất cả các lĩnh vực hoạt động từ chuyên
môn khoa học, nghiệp vụ… đều đã được chuẩn hóa dần dần. Do đó muốn tham gia

vào bất cứ công việc gì mỗi cá nhân đều phải được chuẩn bị: học hỏi, đào tạo, bồi
dưỡng, tuyển chọn. Và khi đã chính thức hoạt động phải tuân thủ các nội quy, quy
chế… nhằm đáp ứng đòi hỏi của xã hội, nhằm đạt hiệu quả cao theo đúng chuẩn
mực của các vai trò xã hội mong đợi.
7. Hành động xã hội.
Trong ngành xã hội học, hành động xã hội (Social actions) là một hình thức
hoặc cách thức giải quyết các mâu thuẫn hay các vấn đề xã hội. Hành động xã hội
được tạo ra bởi các phong trào xã hội, các tổ chức, các đảng phái chính trị, v.v
Thực chất, hành động xã hội là sự trao đổi trực tiếp giữa các cá nhân với nhau cũng
như các khuôn mẫu quan hệ đã được cấu trúc hóa bên trên các nhóm, tổ chức, thiết
chế và xã hội. Một thực tế có thể quan sát được trong mọi tình huống cá nhân và
công cộng hàng ngày là hành động xã hội của con người diễn ra theo những quy tắc
nhất định và trong những hình thái nhất định, những quy tắc và hình thái này có một
sự bất biến tương đối. Hành động xã hội là cốt lõi của mối quan hệ giữa con người
với xã hội, đồng thời là cơ sở của đời sống xã hội của con người. Hành động xã hội
mang một ý nghĩa bao trùm tổng thể các mối quan hệ xã hội.
Định nghĩa hành động xã hội:
Định nghĩa của nhà xã hội học người Đức Max Weber về hành động xã hội
được cho là hoàn chỉnh nhất; ông cho rằng, hành động xã hội là hành vi mà chủ thể
gắn cho ý nghĩa chủ quan nhất định, một hành động xã hội là một hành động của
một cá nhân mà có gắn một ý nghĩa vào hành động ấy, và cá nhân đó tính đến hành
vi của người khác, bằng cách như vậy mà định hướng vào chuỗi hành động đó.
Weber đã nhấn mạnh đến động cơ bên trong chủ thể như nguyên nhân của hành
động. Một hành động mà một cá nhân không nghĩ về nó thì không thể là một hành
động xã hội. Mọi hành động không tính đến sự tồn tại và những phản ứng có thể có
8
từ những người khác thì không phải là hành động xã hội. Hành động không phải là
kết quả của quá trình suy nghĩ có ý thức thì không phải là hành động xã hội.
Các kiểu của hành động xã hội:
- Kiểu hành động truyền thống được thực hiện bởi vì nó vẫn được làm như thế

từ xưa đến nay.
- Kiểu hành động cảm tính bị dẫn dắt bởi cảm xúc.
- Kiểu hành động duy lý với giá trị hướng tới các giá trị tối hậu.
- Kiểu hành động duy lý có mục đích hay còn gọi là kiểu hành động mang
tính công cụ.
8. Thiết chế xã hội.
Thiết chế xã hội là một tập hợp các vị thế và vai trò có chủ định nhằm thỏa
mãn nhu cầu xã hội quan trọng. Khái niệm thiết chế xã hội là khái niệm quan trọng
và được dùng rộng rãi trong xã hội học. Cũng giống như nhiều khái niệm khác của
xã hội học, nội hàm của thiết chế xã hội cũng chưa được xác định một cách rõ ràng.
Sự nhầm lẫn phổ biến nhất là việc đồng nhất thiết chế xã hội với một nhóm thực, tổ
chức thực nào đó. Lý do của sự nhầm lẫn này là mặc dù khái niệm thiết chế xã hội
rất trừu tượng, nhưng bản thân thiết chế lại hữu hình.
Nhà xã hội học người Mỹ J. Fichter cho rằng, thiết chế xã hội chính là một
đoạn của văn hóa đã được khuôn mẫu hóa. Những khuôn mẫu tác phong của nền
văn hóa đó được xã hội đồng tình, khuyến khích sẽ có xu hướng trở thành các mô
hình hành vi được mong đợi - các vai trò. Do đó, thiết chế xã hội là một tập hợp các
khuôn mẫu tác phong được đa số chấp nhận (các vai trò) nhằm thỏa mãn một nhu
cầu cơ bản của nhóm xã hội.
Một số đặc điểm của thiết chế xã hội:
- Mỗi thiết chế đều có đối tượng, có mục đích nhằm thỏa mãn các nhu cầu xã
hội, trong đó bao hàm những lề lối, tác phong mà những người liên kết với nhau
(trong thiết chế) đều theo đó mà hoạt động.
- Nội dung của thiết chế thường có tính ổn định, vĩnh cửu.
- Các thiết chế đều được tổ chức thành cơ cấu, trong đó các yếu tố tạo thành
thiết chế có xu hướng kết lại với nhau, tăng cường cho nhau nhờ các vai trò xã hội
và những tương quan xã hội.
- Mỗi thiết chế là một cơ cấu tổ chức thống nhất, điều hành như một đơn vị,
không một thiết chế nào tách biệt, cô lập, với các định chế khác nhưng mỗi định chế
9

điều hành như một giai đoạn vì thế có thể nhận định riêng biệt trong tác phong của
con người.
- Thiết chế phản ánh hệ thống các giá trị, trong đời sống hiện thực được lặp đi
lặp lại trở thành các quy phạm, các luật lệ, tạo nên áp lực xã hội trong tiềm thức của
mọi người và mọi người cùng chia sẻ với nhau.
9. Bất bình đẳng xã hội.
Bất bình đẳng xã hội là sự không bình đẳng, sự không bằng nhau về các cơ
hội hoặc lợi ích đối với những cá nhân khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều nhóm
trong xã hội.
Tất cả các xã hội, cả quá khứ hay hiện tại đều được đặc trưng bởi sự khác biệt
xã hội. Đó là một quá trình trong đó con người tạo nên khoảng cách do cách ứng xử
khác nhau bởi các địa vị, vai trò và những đặc điểm khác nhau. Quá trình của sự
khác biệt xã hội không đòi hỏi con người đánh giá các vai trò và các hoạt động cụ
thể tồn tại như là quan trọng hơn những cái khác. Tuy nhiên, sự khác biệt xã hội
chuẩn bị cho sự bất bình đẳng xã hội, là một điều kiện trong đó con người có cơ hội
không ngang bằng về sử dụng của cải, quyền lực và uy tín. Nhà xã hội học Daniel
Rossides cho rằng: ngay trong các xã hội đơn giản nhất "người già thường có uy
quyền đối với người trẻ, cha mẹ có uy quyền với con cái, và đàn ông có uy quyền
đối với đàn bà."
Bất bình đẳng xã hội không phải là một hiện tượng tồn tại một cách ngẫu
nhiên giữa các cá nhân trong xã hội. Xã hội có bất bình đẳng khi một số nhóm xã
hội kiểm soát và khai thác các nhóm xã hội khác. Qua những xã hội khác nhau đã
tồn tại những hệ thống bất bình đẳng xã hội khác nhau. Bất bình đẳng xã hội là một
vấn đề trung tâm của xã hội học, đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự
phân tầng trong tổ chức xã hội.
Nguyên nhân của bất bình đẳng xã hội
Ở những xã hội khác nhau, bất bình đẳng cũng có những nét khác biệt. Trong
xã hội có quy mô lớn và hoàn thiện hơn thì bất bình đẳng xã hội gay gắt hơn so
với trong các xã hội giản đơn. Bất bình bình đẳng thường xuyên tồn tại với
những nguyên nhân và kết quả, cụ thể liên quan đến giai cấp xã hội, giới tính,

chủng tộc, tôn giáo, lãnh thổ, v.v Những nguyên nhân dẫn đến bất bình
đẳng xã hội có đa dạng và khác nhau giữa các xã hội và nền văn hóa, và các
nhà xã hội học đưa về ba loại căn bản đó là:
- Cơ hội trong cuộc sống: bao gồm tất cả những thuận lợi vật chất có thể cải
thiện chất lượng cuộc sống. Nó không chỉ bao gồm những thuận lợi về vật chất,
10
của cải, tài sản và thu nhập mà cả những điều kiện như lợi ích bảo vệ sức khỏe
hay an ninh xã hội. Cơ hội là những thực tế và những thực tế này cho thấy
những lợi ích vật chất và sự lựa chọn thực tế của một nhóm xã hội, bất kể
những thành viên của nhóm có nhận thức được điều đó hay không. Trong một
xã hội cụ thể, một nhóm người có thể có cơ hội, trong khi các nhóm khác thì
không và đó là nguyên nhân khách quan của bất bình đẳng xã hội.
- Địa vị xã hội: trái lại, với nguyên nhân khách quan trên, bất bình đẳng xã hội
về địa vị xã hội là do những thành viên của các nhóm xã hội tạo nên và thừa
nhận chúng. Cơ sở địa vị xã hội có thể khác nhau, có thể là bất cứ cái gì mà
một nhóm xã hội cho là ưu việt và được các nhóm xã hội khác thừa nhận. Bất
kể với nguyên nhân như thế nào, địa vị xã hội chỉ có thể được giữ vững bởi
những nhóm xã hội nắm giữ địa vị đó và các nhóm xã hội khác tự giác thừa
nhận tính ưu việt của những nhóm đó;
- Ảnh hưởng chính trị: bất bình đẳng trong ảnh hưởng chính trị có thể được
nhìn nhận như là có được từ những ưu thế vật chất hoặc địa vị cao. Thực tế,
bản thân chức vụ chính trị có thể tạo ra cơ sở để đạt được địa vị và những cơ
hội trong cuộc sống. Có thể gọi đó là những bất bình đẳng dựa trên cơ sở chính
trị.
10. Phân tầng xã hội.
Phân tầng xã hội (Social Strafication) là sự phân chia nhỏ xã hội thành các
tầng lớp khác nhau về địa vị kinh tế, địa vị chính trị, học vấn, kiểu dáng nhà ở, nơi
cư trú, phong cách sinh hoạt, cách ứng xử, sở thích nghệ thuật. Đây là một trong
những khái niệm cơ bản của xã hội học. Đó là một khái niệm để chỉ sự phân chia
các cá nhân hay các nhóm xã hội thành các tầng lớp khác nhau. Mỗi tầng bao gồm

các cá nhân, các nhóm xã hội có địa vị kinh tế, chính trị, uy tín giống nhau. Phân
tầng xã hội diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị cho
đến văn hóa…
Khi nói đến phân tầng xã hội, các nhà xã hội học đề cập đến bất bình đẳng xã
hội, coi đó như một yếu tố cơ bản cho việc hình thành nên sự phân tầng xã hội. Một
số tác giả lưu tâm đến sự biến đổi hình thức của phân tầng xã hội, và cho rằng điều
đó phụ thuộc vào tính chất "mở" của hệ thống xã hội. Một số tác giả khác quan tâm
đến sự phân phối không đồng đều các lợi ích giữa các thành viên trong xã hội, coi
đó là nguyên nhân dẫn tới sự phân tầng xã hội. Phân tầng xã hội và bất bình đẳng xã
hội có mối quan hệ mật thiết. Bất bình đẳng là nguyên nhân, phân tầng xã hội là kết
quả. Sự không ngang nhau về mọi lĩnh vực giữa các cá nhân trong xã hội dẫn đến cơ
hội và lợi ích của các các nhân là không như nhau, từ đó dẫn đến việc các cá nhân
11
hay các nhóm xã hội có cùng chung lợi ích sẽ tập hợp lại thành một nhóm. Nhiều
nhóm có cơ hội và lợi ích khác nhau ra đời. Có nhóm lợi ích và cơ hội nhiều, có
nhóm thì ít, từ đó dẫn đến phân tầng xã hội.
Phân tầng xã hội không có ý nghĩa tuyệt đối. Do vị thế xã hội của các nhân có
thể thay đổi, từng ngày, từng giờ, có cá nhân hôm nay thuộc tầng lớp này, mai lại
thuộc tầng lớp khác. Bởi vì cơ hội và lợi ích của họ không còn nằm trong tầng lớp
đó nữa.
Định nghĩa của phân tầng xã hội:
Theo nhà xã hội học Mỹ Neil Smelser, "phân tầng xã hội liên quan đến những
cách thức, trong đó bất bình đẳng dường như từ thế hệ này truyền qua thế hệ khác,
tạo nên vị trí hoặc đẳng cấp xã hội". Một định nghĩa khác: "sự phân tầng trong xã
hội học thường được áp dụng để nghiên cứu về cấu trúc xã hội bất bình đẳng, vì vậy,
nghiên cứu về những hệ thống bất bình đẳng giữa những nhóm người nảy sinh như
là kết quả không chủ ý của những quan hệ xã hội và quá trình xã hội".
Đặc điểm của phân tầng xã hội:
- Phân tầng xã hội diễn ra ở nhiều khía cạnh như chính trị, kinh tế, địa vị xã
hội, học vấn.

- Phân tầng xã hội có phạm vi toàn cầu.
- Phân tầng xã hội tồn tại theo lịch sử, theo các thể chế chính trị.
- Phân tầng xã hội tồn tại trong các nhóm dân cư, giai cấp, tầng lớp xã hội.
11. Di động xã hội.
Di động xã hội (Social mobility), còn gọi là sự cơ động xã hội hay dịch
chuyển xã hội, là khái niệm xã hội học dùng để chỉ sự chuyển động của những cá
nhân, gia đình, nhóm xã hội trong cơ cấu xã hội và hệ thống xã hội. Di động xã hội
liên quan đến sự vận động của con người từ một vị trí xã hội này đến một vị trí xã
hội khác trong hệ thống phân tầng xã hội. Thực chất di động xã hội là sự thay đổi vị
trí trong hệ thống phân tầng xã hội. Vấn đề di động xã hội liên quan tới việc các cá
nhân giành vị trí, địa vị xã hội, liên quan tới điều kiện ảnh hưởng tới sự biến đổi cơ
cấu xã hội. Nội hàm của di động xã hội là sự vận động của cá nhân hay một nhóm
người từ vị thế xã hội này sang vị thế xã hội khác, là sự di chuyển của một con
người, một tập thể, từ một địa vị, tầng lớp xã hội hay một giai cấp sang một địa vị,
tầng lớp, giai cấp khác. Di động xã hội có thể định nghĩa như sự chuyển dịch từ một
địa vị này qua một địa vị khác trong cơ cấu tổ chức.
Hình thức di động xã hội
12
- Thế hệ: Có thể phân biệt di động xã hội theo hai khía cạnh khác nhau:
+ Di động giữa các thế hệ: thế hệ con cái có địa vị cao hơn hoặc thấp hơn so
với địa vị của cha mẹ;
+ Di động trong thế hệ: là một người thay đổi vị trí nghề nghiệp, nơi ở trong
cuộc đời làm việc của mình, có thể cao hơn hoặc kém hơn so với người cùng thế hệ.
- Ngang dọc: Di động xã hội được xác định như là sự vận động của các cá
nhân hay một nhóm xã hội từ vị trí, địa vị xã hội này sang vị trí, địa vị xã hội khác.
Bởi vậy, khi nghiên cứu di động xã hội, các nhà lý luận còn chú ý tới hình thức:
+ Di động theo chiều ngang: chỉ sự vận động cá nhân giữa các nhóm xã hội,
giai cấp xã hội tới một vị trí ngang bằng về mặt xã hội. Trong xã hội hiện đại, di
động theo chiều ngang cũng rất phổ biến, nó liên quan đến sự di chuyển địa lý giữa
các khu vực, các thị trấn, thành phố hoặc các vùng địa phương;

+ Di động theo chiều dọc: chỉ sự vận động của các cá nhân giữa các nhóm xã
hội, giai cấp xã hội tới vị trí, địa vị xã hội có giá trị cao hơn hoặc thấp hơn. Biểu
hiện của hình thức này di động là sự thăng tiến, đề bạt - di động lên và miễn nhiệm,
rút lui, lùi xuống, thất bại - di động xuống.
II. LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI HỌC.
1. Lịch sử ra đời của xã hội học.
Ngay từ thời cổ đại những vấn đề lớn của cá nhân và xã hội đã thu hút sự
quan tâm chú ý của nhiều nhà tư tưởng trong các giai đoạn lich sử khác nhau. Nhiều
tư tưởng của các nhà khoa học, đặc biệt là các nhà triết học, chính trị học đã ra đời
và ảnh hưởng khá sâu sắc đến sự phát triển, sự vận động của xã hội. Tuy vậy các mô
hình xã hội, các ý tưởng vĩ đại về con người, về xã hội chỉ được xây dựng trên
những giả định, những dự đoán trừu tượng, chưa giải thích được cơ cấu và sự vận
hành của xã hội trên cơ sở khoa học.
Bắt đầu từ thế kỷ 18, đời sống xã hội ở các nước Châu Âu trở nên hết sức
phức tạp. Cuộc cách mạng công nghiệp năm 1750 đã đưa đến những đảo lộn ghê
gớm. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những đô thị công nghiệp khổng lồ gây nên những
làn sóng chuyển dịch dân cư lớn, kèm theo đó là những mâu thuẫn giai cấp, mâu
thuẫn dân tộc, mâu thuẫn tôn giáo căng thẳng, các quan hệ xã hội ngày càng thêm đa
dạng và phức tạp. Xã hội rơi vào trạng thái biến động không ngừng: chiến tranh,
khủng hoảng kinh tế, xung đột chính trị, suy thoái đạo đức, phân hoá giàu nghèo,
bùng nổ dân số, tan rã hàng loạt các thiết chế cổ truyền Trước tình hình như thế,
xã hội nảy sinh một yêu cầu cấp thiết là cần phải có một ngành khoa học nào đó
13
đóng vai trò tương tự như một bác sĩ luôn luôn theo dõi cơ thể sống - xã hội tiến tới
giải phẫu các mặt, các lĩnh vực khác nhau trên bề mặt cắt của nó từ tầm vĩ mô đến vi
mô, kể cả khi xã hội đó thăng bằng cũng như khi mất thăng bằng để chỉ ra trạng thái
thật của xã hội đó, phát hiện ra những vấn đề xã hội (social problems), dự báo
khuynh hướng phát triển của xã hội, và chỉ ra những giải pháp có tính khả thi.
Emile Durkheim một trong các bậc tiền bối của khoa học xã hội học đã phát
biểu rằng: cuối cùng thì nhà xã hội học phải chẩn đoán xem xã hội ở trong tình trạng

"khỏe mạnh" hay "bệnh tật" và sau đó nhà xã hội học phải kê đơn những loại thuốc
cần cho sức khỏe của xã hội. Và mãi cho đến nửa sau của thế kỷ XIX, xã hội học
mới xuất hiện với tư cách là một môn khoa học độc lập có đối tượng, chức năng và
phương pháp riêng biệt.
2. Điều kiện và tiền đề của sự ra đời của xã hội học.
2.1. Điều kiện phát triển kinh tế xã hội.
Vào cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20, nhiều quốc gia ở Tây Âu nền kinh tế, chính
trị có những bước phát triển mạnh mẽ có tính chất đột biến đã tạo nên một khối
lượng sản phẩm, của cải vật chất khổng lồ tương đương với tất cả những gì mà con
người sáng tạo nên từ khi con người xuất hiện cho đến khi chủ nghĩa tư bản hình
thành. Biến đổi mạnh mẽ trong kinh tế, trong sản xuất đã làm thay đổi mạnh mẽ mọi
lĩnh vực hoạt động của con người. Lao động công nghiệp, cơ khí hóa trong các công
xưởng đã thay thế lao động thủ công, làm thay đổi nền sản xuất nông nghiệp cổ
truyền. Lối sống đô thị theo phong cách công nghiệp đã đẩy lùi ảnh hưởng của lối
sống điền dã, tản mạn, manh mún, kiểu công nghiệp, nông thôn. Các tác phong
khuôn mẫu xã hội cổ truyền, có tính ổn định, quen thuộc, được xem là truyền thống
bị tấn công, phá vỡ từng mảng và bị thay thế dần. Rất nhiều nhân tố mới, hiện tượng
mới, xã hội mới đã xuất hiện. Hiện tượng cư dân tập trung chen chúc ở đô thị, làm
nảy sinh các vấn đề về dân số, về môi trường, về bệnh tật và nạn thất nghiệp.
Sự phát triển mạnh của đời sống kinh tế xã hội đã tạo tiền đề cho sự khẳng
định vị thế, vai trò của cá nhân trong đời sống xã hội. Ngay từ thời kỳ phục hưng,
quyền con người, vai trò của cá nhân đã được xác lập và khẳng định, nhất là việc đề
cao sự tự do của con người. Xã hội tư bản được hình thành và củng cố, điều kiện và
yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội kiểu mới đã khác với thời kỳ phục hưng. Xã
hội tư bản đòi hỏi sự tự do của con người phải được đặt trong khuôn mẫu, trong thiết
chế xã hội và tuân thủ pháp luật. Nhu cầu nghiên cứu về vai trò của cá nhân trong
các tương quan xã hội đặt ra cho xã hội học những vấn đề cụ thể, bức thiết.
14
Hơn nữa vào thời kỳ này, so với giai đoạn trước, sự giao lưu quốc tế, quan hệ
thương mại, quan hệ thực dân đã tạo ra cơ hội, tiền đề tiếp xúc, làm ăn với nhiều xã

hội, nhiều nền văn hóa, nhiều lối sống khác lạ. Họ bắt đầu quan sát, so sánh, đối
chiếu và nhận ra rằng xã hội Tây Âu có nhiều điểm khác xa so với xã hội châu Á,
châu Úc, châu Mĩ, châu Phi về kinh tế, các quan hệ chính trị, xã hội, Từ những
tiền đề kinh tế xã hội và sự phát triển kinh tế xã hội kể trên đã đặt ra yêu cầu phải
nhanh chóng nghiên cứu, phát hiện, tìm kiếm các qui luật, xu thế phát triển của xã
hội và con người, định hướng cho sự phát triển xã hội tương lai. Không thể nghiên
cứu các vấn đề trên chỉ trong phạm vi của triết học, kinh tế học, dân tộc học, văn hóa
học và cũng không thể chỉ bằng lòng với các lý thuyết sẵn có, tất cả tạo ra tiền đề
cho sự xuất hiện một lý thuyết, một khoa học mới nghiên cứu về sự vận động, phát
triển của đời sống xã hội đó là xã hội học.
2.2. Những tiền đề về tư tưởng, lí luận khoa học.
Xã hội học cũng như bất kì một khoa học nào khác sẽ không thể nào phát
triển được nếu chỉ xuất phát, căn cứ từ các nhu cầu thực tiễn mà thiếu những tiền đề
lí thuyết, cơ sở khoa học nhất định.
Khi đi sâu nghiên cứu mặt xã hội trong đời sống con người một thực thể sinh
động và rất phức tạp, xã hội học phải dựa trên cơ sở lí luận phong phú, làm công cụ
cho quá trình nghiên cứu sáng tạo.
Dựa vào và kế thừa nhiều thành tựu của các khoa học khác khi xác lập xã hội
học, Auguste Comte đã cố gắng làm rõ, phân biệt đối tượng, phương pháp nghiên
cứu, hình thành nội dung và cấu trúc của xã hội với tư cách là một khoa học riêng
biệt so với các khoa học khác trong hệ thống các khoa học xã hội.
Trong quá trình nghiên cứu, xã hội học cũng đã tiếp thu và vận dụng có kết
quả, nhất là về phương pháp nghiên cứu của khoa học tự nhiên, các khoa học về con
người, kể cả một số phương pháp của khoa học kỹ thuật. Nhờ vậy mà chất lượng
nghiên cứu ngày càng cao, càng có độ tin cậy. Trong các phương pháp ấy phương
pháp nghiên cứu theo cấu trúc – hệ thống vốn có trong các khoa học tự nhiên, trong
khoa học kỹ thuật (nghiên cứu về vật chất) đã được mô phỏng, chọn lọc, áp dụng
vào việc nghiên cứu xã hội và tương quan giữa cá nhân với đời sống xã hội.
Trong rất nhiều công trình nghiên cứu xã hội học từ trước tới nay người ta đã
áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu của các khoa học khác nhau (như các

phương pháp toán học, các phương pháp nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu triết
học…), đặc biệt là các phương pháp định lượng trong các khoa học tự nhiên vào
việc tìm hiểu, đo đạc, lượng giá các vấn đề xã hội, tăng thêm độ chính xác, tường
15
minh, tính khoa học trong nghiên cứu xã hội học. Ngày nay xã hội học ngày càng cố
gắng nâng cao tính chất khoa học của mình qua việc thu thập số liệu, thực hành
quan sát, phân tích dữ liệu, xử lí thông tin, mô tả, biểu diễn tổng quát và áp dụng
những phương pháp, kĩ thuật, thủ thuật nghiên cứu của nhiều khoa học có liên quan.
Nhờ có tiên đề lí thuyết phong phú, vững chức với quá trình nghiên cứu bám
sát thực tế đời sống, trong các công trình nghiên cứu xã hội học đã thật sự tôn trọng,
đảm bảo các điều kiện sau:
- Dựa trên các bằng chứng hiển nhiên, có đủ điều kiện có thể thẩm tra, kiểm
chứng được độ chính xác.
- Thực tiễn xã hội luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển, do đó trong quá
trình nghiên cứu không nên tuyệt đối hóa, xem xét vấn đề với thái độ cực đoan, chỉ
chấp nhận sự thật khoa học sau khi đã lật đi lật lại, nghiên cứu vấn đề với nhiều
phương pháp, kiểm chứng thử nghiệm khác nhau.
- Trong xã hội học có thể lập luận, chứng minh, trả lời câu hỏi nào đó đặt ra
bằng những kiến thức mới mẻ. Nhưng giá trị của các phát hiện, các lí thyết mới ấy
cần được đánh giá sau khi đã vận dụng vào thực tế đời sống, không xuất phát từ ý
chí chủ quan, hoặc từ thái độ có tính định kiến, từ xúc cảm của người nghiên cứu.
- Phải đảm bảo tính khách quan trong quá trình nghiên cứu, từ những việc đơn
giản, riêng lẻ cho đến việc tập hợp, xử lí đánh giá những vấn đề lớn, không thiên vị,
thành kiến đối với đối tượng.
- Nghiên cứu xã hội rộng lớn muốn chính xác cần tiêu chuẩn hóa các tiêu chí
đánh giá, khảo sát, kiểm tra và phải vận dụng các phương pháp nghiên cứu một cách
chính xác, tie mỉ khách quan.
Tóm lại, sự phát triển nhanh chóng của xã hội Tây Âu cuối thế kỷ 19 đầu thế
kỷ 20 đã đòi hỏi sự xuất hiện cảu khoa học nghiên cứu về sự vận động và phát triển
của xã hội.

2.3. Một số đóng góp của các nhà sáng lập ra xã hội học.
a). Auguste Comte (1798 – 1857).
Ông sinh tại Montpellier, nước pháp, trong một gia đình theo đạo Giatô theo
xu hướng quân chủ.
Trong các tác phẩm đầu tiên của mình, Auguste Comte đã phân tích sự khủng
hoảng của xã hội Tây Âu hồi đầu thế kỷ 19 với sự sụp đổ của xã hội thần học và
quân sự, đồng thời là sự ra đời của xã hội khoa học và công nghệ.
16
Ông đã phát hiện, xây dựng nên quy luật ba trạng thái trong đó trình bày ba
giai đoạn phát triển tinh thần của con người:
- Kỷ nguyên thần học, trong đó tinh thần giải thích các hiện tượng bằng
những thực thể hay sức mạnh có hình người.
- Kỷ nguyên siêu hình học, trong đó tinh thần giải thích các hiện tượng bằng
những thực thể trừu tượng.
- Kỷ nguyên thực chứng, trong đó tinh thần thiết lập những liên hệ đều đặn
gọi là các quy luật.
Theo ông tất cả các môn học trí tuệ đều phải trải qua ba kỷ nguyên đó nhưng
không đồng thời với nhau. Do đó theo ông, có thể phân loại khoa học theo thư tự
vừa logic vừa lịch sử mà trong đó khoa học cuối cùng, phức tạp nhất là xã hội học.
Đặc trưng của xã hội học là ở tính tổng hợp của nó, cho nên đối tượng của xã hội
học chỉ có thể là lịch sử loài người.
Auguste Comte quan niệm rằng xã hội học sẽ mạng lại giải pháp cho sự
khủng hoảng của văn minh phương Tây, là một thứ “kinh Phúc âm” của khoa học
thực chứng mà ông truyền giảng với tư cách là nhà “cải cách xã hội”. Nhưng ông
không có ảo tưởng đối với vệc can thiệp vào đời sống xã hội, vì đó là việc quá phức
tạp. Cải cách xã hội cũng đòi hỏi phải xét lại nhiều khái niệm căn bản, phải chỉnh
đốn phong tục, rất tốn thời gian và công sức. Ông xem chiến tranh là lỗi thời và dự
báo trước sự xuất hiện một quyền lực tinh thần mới: quyền lực của các nhà bác học
và các nhà triết học.
Về sau Auguste Comte được tôn vinh là người khai sáng ra xã hôi học. Ông

luôn luôn tin tưởng rằng muốn nghiên cứu xã hội học phải dựa trên sự quan sát có
hệ thống và phân loại.
Ông cũng thừa nhận rằng xã hội học luôn luôn bị chi phối bởi các nguyên tắc
và phương pháp của khoa học tự nhiên.
Với những cống hiến to lớn như trên, ông được xem là người có công đầu xây
dựng nên xã hội học với vai trò của một khoa học chân chính.
b). Karl Marx (1818 – 18830.
Là nhà triết học, kinh tế học người Đức. Lúc sinh thời Karl Marx không coi
mình là nhà xã hội học, nhưng những tư tưởng trong di sản đồ sộ của ông đã ảnh
hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển của xã hội học, đến nỗi ngày nay ai
cũng coi ông mặc nhiên là một trong những người sáng lập ra xã hội học. Dường
như tất cả các nhà xã hội học hiện đại khi giải thích xã hội đều tiếp cận bằng lý
17
thuyết mâu thuẫn và xung đột của Karl Marx. Các nhà xã hội học "đều vay mượn
của Karl Marx các lý giải về giai cấp, ngay cho dù nhà xã hội học đó kết thúc bằng
cách bài bác Karl Marx như là sai lầm và bị lịch sử vượt qua". Karl Marx chủ yếu sử
dụng lý thuyết mâu thuẫn để làm sáng tỏ biến chuyển xã hội. Đó là mâu thuẫn giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa hai giai cấp cơ bản kiến tạo nên xã hội.
Các vấn đề như: phân tầng xã hội, tội phạm, biến chuyển xã hội, đều được các nhà
xã hội học đương đại xem xét dưới ánh sáng lý thuyết mâu thuẫn của Karrl Marx.
Các tác phẩm chính: Gia đình thần thánh (1845), Hệ tư tưỏng Đức (1846), Sự
khốn cùng của triết học (1847), Tư bản (1875).
c). Herbert Spencer (1820 – 1903).
Spencer là nhà triết học và xã hội học người Anh được giới triết học xem là
cha đẻ của triết học tiến hóa. Ông phản bác sự phân chia khoa học thành khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội. Ông cố gắng xây dựng một hệ thống lí luận thống nhất về
sự tiến hóa, theo công thức: chuyển từ đơn giản thuần nhận trong một số trường hợp
riêng biệt có sự vận động ngược lại.
Ông cũng chủ trương phân loại xã hội thành “xã hội quân sự” và “xã hội công
nghiệp” theo đó, các xã hội quân sự là những xã hội độc tài, trong đó sự ganh đua và

gây hấn luôn luôn ngự trị, còn các xã hội công nghiệp là các “xã hội tự do”. Quá
trình tiến hóa xã hội diễn ra từ kiểu này sang kiểu kia, tùy thuộc vào thời kì chiến
tranh hay hòa bình. Hòa bình có lợi cho xu thế tự nhiên chuyển từ các xã hội quân
sự sang các xã hội công nghiệp, còn chiến tranh thì cản trở và xóa bỏ sự tiến hóa ấy,
tạo điều kiện cho phản cách mạng xuất hiện.
Lí thuyết “tiến hóa xã hội” của Spencer có lúc đã được giới khoa học thừa
nhận nhưng sau đó bị bác bỏ và ông đã phục hưng chúng bằng cách có những thay
đổi và đổi mới nhất định.
d). Emile Durkheim (1858 – 1917).
Nhà xã hội học nổi tiếng được coi là cha đẻ của xã hội học Pháp. Ông là
người lập ra chuyên ngành xã hội học ở trường Đại học Bordeaux và ở Đại học
Sorbonne của Paris. Các nhà xã hội học trên thế giới ngày nay đều ảnh hưởng rất
nhiều lối tiếp cận cấu trúc, chức năng của ông. E. Durkheim đã cố gắng tách các sự
kiện, hiện tượng xã hội ra khỏi sự chi phối của con người và yêu cầu xem xét chúng
như các "vật thể" để không áp đặt vào chúng những định kiến đã có sẵn. Ông cũng
là người sáng lập ra "Niên giám xã hội học" nhằm tập hợp các công trình khoa học
của các nhà xã hội học đương thời. Ông là người có công lao rất lớn trong việc hình
thành và phát triển ngành xã hội học hiện đại.
18
Các tác phẩm chính: Phân công lao động xã hội (1893), Các qui tắc của
phương pháp xã hội học (1897), Tự tử (1897), Các hình thức cơ bản của đời sống
tôn giáo (1912).
Sau khi ra đời, xã hội học đã phát triển rực rỡ và có được những bước tiến dài
trong việc xây dựng nền tảng cũng như các phân nghành xã hội học ở các nước công
nghiệp phát triển. Có thể nói những thành tựu to lớn mà các nước công nghiệp phát
triển đạt được là có sự đóng góp đáng kể của ngành khoa học xã hội học. Ngày nay,
xã hội học đã có mặt ở hầu khắp các nước trên thế giới và chiếm một vị trí xứng
đáng trong hệ thống lý thuyết cũng như ứng dụng. Nó được coi là môn khoa học
phát triển. Rất nhiều trường phái xã hội học hiện đai nổi tiếng có ảnh hưởng lớn trên
thế giới. Chẳng hạn như trường phái lý thuyết hệ thống của Talcott Parsons (Đại học

Harvard), trường phái xã hội học đô thị (Đại học Chicago), trường phái xã hội học
tội phạm (Đại học Michigan), trường phái lý thuyết tương tác Marx (Bulgaria),
e). Max Weber (1864 – 1920).
Nhà xã hội học Đức, được coi là một trong những nhà xã hội học lớn nhất đầu
thế kỷ 20. Lĩnh vực được ông chú ý nhiều là hành động xã hội. Ngoài ra, Max
Weber còn dành khá nhiều thì giờ nghiên cứu về đạo Tin lành, về tổ chức quan liêu,
về sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Những tư tưởng của ông đã để lại khá đậm
nét cho các thế hệ xã hội học sau này không chỉ về lý thuyết mà còn các phương
pháp tiếp cận xã hội.
Các tác phẩm chính: Những tiểu luận phương pháp luận (1902), Đạo đức Tin
lành và tinh thần của CNTB (1904), Kinh tế và xã hội (1910-1914), Xã hội học tôn
giáo (1916).
III. ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA XÃ HỘI HỌC.
1. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học.
Đối tượng nghiên cứu của xã hội chính là xã hội loài người, trong đó quan hệ
xã hội (tương quan xã hội) được biểu hiện thông qua các hành vi xã hội giữa người
và người.
Từ việc nghiên cứu các quan hệ của con người trong gia đình, bạn bè, trong
cộng đồng… chúng ta tìm ra logic, cơ chế vận hành thường tàng ẩn trong đó, phát
hiện tính quy luật của các hình thái vận động và phát triển của xã hội.
Như vậy là cái mang tính phổ quát, bao trùm trong các công trình nghiên cứu
xã hội học là các hành vi xã hội của con người.
19
Vấn đề thứ hai mà xã hội học quan tâm nghiên cứu là hệ thống xã hội, ở đây
cá nhân trong tương quan xã hội với nhóm, với cộng đồng diễn ra như thế nào. Qua
đó có thể thấy được cấu trúc hệ thống xã hội, và cấu trúc này trong từng phân hệ của
nó lại có mối liên hệ, tác động lẫn nhau, định hình dưới dạng các thiết chế xã hội,
những hệ thống giá trị chuẩn mực lại quy định cơ chế hoạt động của hệ thống.
Nhiệm vụ của xã hội học từ chỗ phát hiện ra cơ cấu xã hội thể hiện dưới dạng
các thiết chế xã hội, chúng do con gười thiết lập nên nhưng lại tác động trở lại cuộc

sống của con người theo các chiều hướng khác nhau: mang tính quy luật khách
quan. Tất nhiên về lĩnh vực này, do xuất phát nghiên cứu ở nhiều xã hội khác nhau,
các tác giả cũng có nhận xét, khái quát khác nhau và thể hiện quan điểm khác nhau.
Ngoài việc nghiên cứu về giai cấp, xã hội còn nghiên cứu cơ cấu xã hội với
các nhóm, các cộng đồng khác trong xã hội (nhóm dân tộc, nhóm tôn giáo, nhóm
theo giới tính…)
Nghiên cứu nhóm cộng đồng xã hội chính là nghiên cứu về mối quan hệ, tác
động qua lại giữa các cá nhân trong cộng đồng về lợi ích để xem xét mức độ gần gũi
về quan điểm, tín ngưỡng, về định hướng chính trị, mục tiêu và phương thức hành
động để đạt tới mục đích. Nhờ vậy sẽ có cơ sở để xem xét tác động qua lại giữa các
nhóm, các cộng đồng tạo nên một chỉnh thể xã hội với tất cả những mâu thuẫn, xung
đột, vận động và phát triển…qua đó có thể đoán định được tính ổn định, tính bền
vững của mỗi thể chế xã hội, trong những điều kiện chủ quan và khách quan có tính
xác định.
Nhờ nghiên cứu sâu nhóm cộng đồng, chúng ta cũng sẽ phát hiện được bản
sắc đặc thù trong hành vi xã hội của người. Trong trường hợp này các chuẩn mực
giá trị, thiết chế xã hội, bản sắc văn hóa chính là khuôn mẫu, chuẩn mực hành vi của
mỗi nhóm người. Vậy đối tượng nghiên cứu của xã hội học nói một cách khái quát
chính là hành vi xã hội của con người. Chúng ta chỉ có thể hiểu rõ hành vi xã hội
dựa trên cơ sở làm rõ một tương quan giữa người và người trong các nhóm và trong
cộng đồng xã hội dựa trên các dấu hiệu đặc trưng.
Những nhóm cộng đồng xã hội khác nhau tương tác với nhau tạo nên một kết
cấu chỉnh thể của một xã hội. Nghiên cứu các vấn đề trên, xã hội học phát hiện ra
tính quy luật chi phối các quan hệ, các mối liên hệ tạo thành hệ thống tổng thể, hoàn
chỉnh của xã hội.
2. Chức năng của xã hội học.
20
Mỗi một môn khoa học đều có một số chức năng nhất định. Chức năng của
mỗi môn khoa học được phản ánh ở mối quan hệ và sự tác động qua lại của chính
môn khoa học đó với thực tiễn xã hội. Xã hội học có sáu chức năng cơ bản sau đây:

2.1. Chức năng nhận thức.
Chức năng nhận thức của xã hội học được thực hiện trong một số mặt cơ bản
sau:
Trang bị cho người học hệ thống tri thức khoa học về sự phát triển của xã hội,
quy luật của sự phát triển ấy, đồng thời vạch ra cơ chế của quá trình phát triển đó.
Thông qua việc vạch ra những quy luật khách quan của các quá trình phát
triển của các hiện tượng và các quá trình xã hội mà tạo nên các tiền đề để nhận thức
về những triển vọng nhằm phát triển hơn nữa đời sống xã hội cũng như các mặt, các
khía cạnh riêng biệt của nó.
Thông qua nghiên cứu, các nhà xã hội học xác định được nhu cầu phát triển
của xã hội, của các giai cấp, các cộng đồng… biểu lộ ra ở các hoạt động xã hội của
con người, góp phần xác định các hình thức cụ thể nhằm đạt được nhu cầu, sự kết
hợp được lợi ích của các cá nhân với lợi ích của tập thể và cộng đồng…
Cùng với các khoa học có liên quan, xã hội học góp phần xây dựng, làm sáng
tỏ lí luận và phương pháp luận nhận thức về xã hội thông qua các công trình nghiên
cứu, so sánh, đối chiếu, tổng hợp về các mô hình xã hội khác nhau tìm ra những hạt
nhân hợp lí, những mô thức tối ưu.
Chức năng nhận thức của xã hội học được thể hiện qua chức năng phương
pháp luận của nó. Ý nghĩa phương pháp luận của xã hội học được thể hiện ở chỗ, nó
là những thông tin khoa học tập trung và chọn lọc, loại trừ tất cả những gì là thứ
yếu, nó đóng vai trò những nguyên lí và những chuẩn mực cho các tiến trình nghiên
cứu khoa học. Mọi hoạt động của con người đều thực hiện trên cơ sở những nguyên
lí cụ thể, chứa đựng những vấn đề mang tính quy luật rút ra từ kinh nghiệm của quá
khứ và hiện tại.
2.2. Chức năng tư tưởng.
Chức năng tư tưởng thể hiện ở việc phục vụ cho việc giáo dục quần chúng
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy ảnh hưởng tích cực hạn chế ảnh hưởng
tiêu cực của cơ chế thị trường đang tác động vào mọi mặt của đời sống xã hội.
Trong việc giáo dục tư tưởng quần chúng theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, xã hội học vũ trang cho mọi người tri thức về các qui luật

khách quan của sự phát triển xã hội, giáo dục lí tưởng xã hội chủ nghĩa, tiến lên xây
21
dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Trong quá trình
giáo dục xã hội, một bộ phận cảu xã hội học – xã hội học ứng dụng có vai rò và tác
dụng sâu sắc.
Xã hội học Mác – Lênin còn đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành tư
duy khoa học, hình thành thói quen, nề nếp suy xét trên quan điểm duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử đối với các hiện tượng của đời sống xã hội, nắm bắt và
hành động phù hợp với qui luật khách quan của sự vận động và phát triển của xã
hội, phát huy được bản chất tốt đẹp của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Lập trường của nhà xã hội học chân chính phải luôn luôn đảm bảo tính khách
quan, khoa học trong vấn đề nghiên cứu, đảm bảo nguyên tắc tính Đảng trong khoa
học xã hội, trong việc nghiên cứu và vận dụng kiến thức khoa học phục vụ đức lực
cho cho công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là nhà xã hội học
không đứng bên lề xã hội, nghiên cứu khoa học với thái độ bàng quan mà luôn gắn
với công tác nghiên cứu khoa học của mình với mục đích, lí tưởng xã hội mà toàn xã
hội đang phấn đấu thực hiện.
2.3. Chức năng thực tiễn.
Trong xã hội học chức năng thực tiễn có liên quan trực tiếp với chức năng
nhận thức. Nhận thức khoa học luôn luôn bao hàm yếu tố tiên đoán khoa học, do đó
chức năng thực tiễn của xã hội học luôn luôn bắt nguồn từ bản chất khoa học của
các nhận thức khoa học. Trên cơ sở phân tích thực trạng xã hội và những mặt, những
quá trình riêng lẻ của sự vận động, phát triển của nó, xã hội học sẽ làm sáng tỏ triển
vọng của sự vận động và phát triển của xã hội trong tương lai gần cũng như tương
lai xa.
Khi nghiên cứu thực trạng của các quan hệ xã hội, xã hội học tạo điều kiện để
con người có thể kiểm soát được quan hệ xã hội của mình và điều hòa các quan hệ
đó sao cho phù hợp với yêu cầu khách quan của sự vận động, phát triển và tiến bộ
xã hội.
Việc dự báo trên cơ sở nắm bắt chính xác các quy luật và xu hướng phát triển

của xã hội là tiền đề và là điều kiện để kế hoạch hóa và quản lí xã hội một cách khoa
học.
Chức năng thực tiễn của xã hội học không tách rời những đề xuất và kiến nghị
mà nó đề ra nhằm đáp ứng các yêu cầu của công tác quản lý, nhằm củng cố mối liên
hệ giữa khoa học với công tác quản lí, nhằm củng cố mối liên hệ giữa khoa học với
đời sống thực tế, phát huy tác dụng của xã hội học đối với công tác quản lí xã hội
nói chung. Từ những yếu tố trên có thể hiểu rằng chức năng thực tiễn của xã hội học
22
còn biểu lộ ra ở chức năng quản lí và chỉ đạo của nó. Với chức năng này, xã hội học
có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thực tiễn của các cơ quan quản lý và hoạt
động của quần chúng. Ý nghĩa lớn lao của chức năng quản lý xã hội học là do hai
nhân tố sau qui định: Vai trò của công tác quản lý đối với xã hội và nội dung có tính
đặc thù của xã hội học.
Nói như vậy, bởi vì quản lý xã hội học chính là một kiểu quan hệ và hoạt
động của con người, gắn liền với việc đặt ra các quyết sách có tính quyết định đối
với sự ứng xử của mỗi người và của các chủ thể xã hội, kể cả việc kiểm soát việc thi
hành các quyết định đó. Tất cả đều là hành động có ý thức, có mục đích của từng
các nhân và các cộng đồng, cũng như của toàn xã hội. Như vậy cũng có nghĩa là các
hệ thống xã hội, các thể chế xã hội duy trì hoặc thay đổi tình trạng của chúng thông
qua cơ chế điều chỉnh của ý thức. Chức năng quản lý của xã hội học còn thể hiện ở
sự dự báo. Đây chính là một khâu nối liền hoạt động lý thuyết với hoạt động thực
tiễn của công tác quản lí. Dự báo xã hội trong thực tế không thể thực hiện được nếu
không dựa vào xã hội học, không dựa vào các phương pháp khoa học, đặc biệt là
dựa vào các thực nghiệm của xã hội.
Qua các chức năng quản lý của mình xã hội học góp phần vào việc giải quyết
đúng đắn nhiều vấn đề quan trọng trong công tác qản lý xã hội và kinh tế, văn hóa,
giáo dục và phát triển xã hội… Qua đó xã hội học cũng nâng cao chất lượng nghiên
cứu, chất lượng phục vụ đời sống xã hội và nâng cao chất lượng khoa học của chính
mình.
2.4. Chức năng dự báo.

Trên cơ sở nhận diện được hiện trạng xã hội thực tại và sử dụng các lý thuyết
dự báo, các nhà xã hội học sẽ mô tả được triển vọng vận động của xã hội trong
tương lai gần cũng như tương lai xa hơn. Dự báo xã hội là một thế mạnh của xã hội
học. Có thể nói trong tất cả các môn khoa học xã hội thì xã hội học có chức năng dự
báo mạnh nhất và hiệu qủa nhất.
2.5 Chức năng quản lý.
Trước hết cần phải nói rõ ngay rằng xã hội học không phải là khoa học quản
lý, nhưng có một điều chắc chắn rằng tất cả các hoạt động quản lý kể cả quản lý
kinh tế, hành chính hay nhân sự chỉ trở nên tối ưu khi mà biết sử dụng tốt các kết
luận, nhận định và dự báo của xã hội học.
2.6. Chức năng công cụ.
Các phương pháp, các kỹ thuật thao tác, các cách thức tiếp cận xã hội của xã
hội học được các ngành khoa học khác nhau cũng như các lĩnh vực khác nhau của
23
kinh tế, chính trị, văn hóa, sử dụng như một công cụ hữu ích và hết sức cần thiết
trong quá trình hoạt động. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó qua các cuộc thăm dò dư
luận xã hội trước các cuộc tranh cử, hay các phương pháp điều tra của xã hội học
được ứng dụng vào việc thăm dò nhu cầu, thị hiếu khách hàng trong marketing. Do
vậy "xã hội học sẽ làm một công cụ hữu hiệu để cho con người có thể xây dựng cho
mình một xã hội tốt đẹp hơn ".
3. Nhiệm vụ của xã hội học.
- Nhiệm vụ hàng đầu của xã hội học là nghiên cứu các hình thái biểu hiện và
các cơ chế hoạt động của các quy chế hoạt động của xã hội.
- Nhiệm vụ tiếp theo của xã hội học là phục vụ cho công tác tổ chức và quản
lí xã hội một cách trực tiếp và gián tiếp.
Xã hội học đại cương cung cấp thông tin phục vụ gián tiếp cho công tác quản
lí xã hội vĩ mô, xem như là một bộ phận của nhân sinh quan, như cơ sở phương pháp
luận của các xã hội học chuyên ngành và kể cả các khoa học trong hệ thống khoa
học xã hội.
IV. MỘT SỐ LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC.

1. Xã hội học nông thôn.
Xã hội học nông thôn là một chuyên ngành học trong xã hội học. Đối tượng
nghiên cứu của xã hội học nông thôn là các hiện tượng, các quá trình xã hội trong
phạm vi đời sống xã hội diễn ra trong bối cảnh nông thôn. Như vậy, nông thôn là
môi trường xã hội được xem xét, xác đinh theo để phân biệt với vùng đô thị, là đơn
vị kinh tế xã hội, có những nét đặc thù về cơ cấu dân cư, các tập quán, lối sống và
các truyền thống của cộng đồng dân cư.
Nội dung nghiên cứu của xã hội học nông thôn.
- Nghiên cứu về cơ cấu của xã hội nông thôn: về các giai cấp và sự phân tầng
xã hội diễn ra ở nông thôn.
- Cơ cấu về xã hội, lao động nghề nghiệp ở nông thôn theo xu hướng tiến bộ
và phát triển xã hội hiện nay.
- Đời sống chính trị - xã hội ở nông thôn (vấn đề làng xã, họ tộc, đời sống gia
đình…)
- Đời sống văn hóa ở nông thôn, vấn đề truyền thống, văn hóa (vùng văn hóa,
lễ hội, tập tục…)
24
- Vấn đề nghề nghiệp, lối sống, vấn đề dân cư, các yếu tố có liên quan đến sự
phát triển và tiến bộ của cộng đồng dân cư nông thôn…
- Con đường tiến lên xã hội nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa…
2. Xã hội học đô thị.
Xã hội học đô thị cũng là một chuyên ngành quan trọng trong xã hội học, có
vai trò to lớn đối với việc nghiên cứu sự vận động và phát triển của xã hội công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay.
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học đô thị là các hiện tượng và các quá trình
xã hội diễn ra ở đô thị. Nói khác đi, đó chính là quá trình đô thị hóa với tất cả tác
động và ảnh hưởng của nó đối với đời sống và hoạt động của con người.
Trong xã hội học đo thị người ta tập trung nghiên cứu vào hai khía cạnh
sau:

- Các yếu tố thuộc phạm vi không gian – vật chất của đô thị.
- Các yếu tố về tổ chức xã hội đô thị.
Các vấn đề trong nghiên cứu xã hội học đô thị hiện nay là:
- Các vấn đề về cơ cấu dân số và sinh thái học ở đô thị.
- Lối sống đô thị, hiện tượng quá tải ở đô thị nguyên nhân và giải pháp.
- Cộng đồng dân cư và các thiết chế xã hội ở vùng đô thị.
- Vấn đề đô thị trung tâm với các vệ tinh và các vùng phụ cận.
- Dự báo quy hoạch đô thị trong điều kiện xã hội phát triển.
- Môi trường văn hóa ở đô thị, sự giao lưu văn hóa ở các đô thị.
- Chính sách xã hội ở vùng đô thị…
3. Xã hội học gia đình.
Xã hội học gia đình cũng là một chuyên ngành trong xã hội học chuyên
nghiên cứu về quan hệ xã hội trong phạm vi gia đình. Gia đình được quan niệm là
một nhóm xã hội, hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống.
Trong xã hội học gia đình chúng ta nghiên cứu gi đình ớ các mặt sau:
- Gia đình được xem là một thiết chế xã hội, là tế bào của xã hội luôn luôn
gắn với mọi mặt của đời sống xã hội và luôn luôn có tác động tương hỗ lẫn nhau
thông qua các chức năng của gia đình.
25

×