Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Skkn một số giải pháp chỉ đạo khắc phục, củng cố và nâng cao chất lượng chữ viết cho giáo viên và học sinh trường tiểu học tân thành 2, thường xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (760.08 KB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HỐ

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỈ ĐẠO
KHẮC PHỤC, CỦNG CỐ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CHỮ VIẾT CHO GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH TRƯỜNG
TIỂU HỌC TÂN THÀNH 2, THƯỜNG XUÂN

Người thực hiện: Trần Danh Anh
Chức vụ: Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Tân Thành 2
SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lí

THANH HỐ NĂM 2021

skkn


MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu


2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1 Cơ sở lý luận
2.2. Thực trạng chất lượng chữ viết của giáo viên và học sinh trước
khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.3. Các giải pháp chỉ đạo khắc phục, cũng cố và nâng cao chất
lượng chữ viết cho giáo viên và học sinh

2
2
3
3
3
3
3-5
5-7
7-18

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận.
3.2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

18-20
20-21
20
21
22

skkn



2
1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề chữ viết đã được người xưa rất coi trọng. Cha ông ta thường
dùng câu thành ngữ “văn hay chữ tốt” để khen người chữ đẹp, học rộng tài
cao. Những bậc hiền tài văn hay chữ tốt được tôn vinh như một môn nghệ
thuật chơi chữ “thư pháp”. Các vị vua thường xuyên tổ chức các cuộc thi viết
câu đối.
Nhưng chữ viết khơng phải tự nhiên mà có thể viết đẹp được, mà phải
bắt đầu từ cách cầm bút, cách đưa nét bút sao cho ngay, cho đẹp. Ví như ơng
Cao Bá Quát ngày xưa đâu phải ngay từ đầu ông đã viết đẹp. Chữ ơng rất xấu,
xấu đến nỗi chính ơng cũng khơng đọc nổi bài viết của mình. Thế nhưng với
sự kiên trì khổ luyện ơng đã trở thành người nổi tiếng văn hay chữ tốt, nhiều
người đến xin chữ của ông.
Trong những năm gần đây chất lượng chữ viết của học sinh đang xuống
cấp chầm trọng. Đặc biệt là hiện nay trong thời đại bùng nổ thông tin, công
nghệ thơng tin phát triển nhanh chóng nên phần đa các bậc phụ huynh học
sinh khơng cịn quan tâm nhiều đến chất lượng chữ viết của các con. Hơn nữa
từ khi các cấp tỉnh, huyện khơng cịn tổ chức Hội thi " Viết chữ đẹp" nữa thì
chất lượng chữ viết của học sinh có thể nói là xuống cấp nhanh chóng.
Để khắc phục và củng cố tình trạng xuống cấp nhanh chóng về chất
lượng chữ viết của học sinh trường Tiểu học Tân Thành 2, Thường Xuân.
Năm học 2017-2018 Ban giám hiệu nhà trường đã triệu tập khẩn cấp Hội
đồng sư phạm nhà trường để họp bàn và tìm ra các giải pháp khắc phục kịp
thời tình trạng trên và duy trì việc rèn chữ viết cho giáo viên và học sinh
thông qua các chuyên đề và Hội thi "Viết chữ đẹp" cấp trường hàng năm.
Nhờ vậy, chất lượng dạy - học nói chung và chất lượng chữ viết của
giáo viên và học sinh nói riêng ngày càng có nhiều chuyển biến tích cực.

Có thể nói phong trào luyện viết chữ đẹp với phương châm “Rèn nét
chữ - Luyện nết người” đang được giáo viên và học sinh trường Tiểu học Tân
Thành 2, Thường Xuân quan tâm đúng mức. Nhiều thầy cơ giáo đã trăn trở,
kiên trì luyện viết chữ đẹp, trình bày bảng lớp đẹp, khoa học, thẩm mĩ để học
sinh học tập và noi theo. Nhiều học sinh đã có những trang viết sạch, đẹp mà
thầy giáo, cơ giáo, bạn bè và người đọc trầm trồ, thán phục.
Tuy nhiên, trong thực tế, vẫn cịn khơng ít học sinh chữ viết chưa đạt
yêu cầu cơ bản, viết chậm, viết sai lỗi chính tả, một bộ phận học sinh viết chữ
xấu. Một số ít học sinh viết rất xấu đã thiếu tự tin, mất bình tĩnh và dẫn đến
sợ học các giờ tập viết, chính tả, tập làm văn. Điều này đã làm ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng học tập mơn Tiếng Việt nói riêng và các mơn khoa
học cơ bản khác nói chung.
Bên cạnh đó, hiện nay việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng
dạy đang được phát triển mạnh mẽ. Giáo viên soạn bài bằng máy vi tính, dạy
học sử dụng giáo án điện tử, màn hình máy chiếu. Các văn bản, biểu mẫu giấy
tờ hầu như đều được làm bằng máy tính. Đồng thời, theo hướng dẫn mới của
Bộ GD&ĐT các cơ sở không được tổ chức thi học sinh giỏi cho bậc Tiểu học,
cho nên những cuộc thi Viết chữ đẹp các cấp khơng cịn được tổ chức như

skkn


3
trước đây. Chính điều đó đã làm tác động đến nhận thức của giáo viên và học
sinh, nhiều giáo viên và học sinh đã xem nhẹ việc luyện viết chữ. Một số giáo
viên có nhận thức sai nên chưa quan tâm đến chữ viết của học sinh, các bậc
phụ huynh thì cho rằng chữ viết khơng quan trọng chỉ cần học giỏi toán,
Tiếng Việt là được.
Xuất phát từ những lý do trên, bản thân tôi thấy rằng việc khắc phục,
củng cố và xây dựng nền nếp rèn luyện chữ viết cho giáo viên và học sinh

nhà trường nhằm nâng cao chất lượng chữ viết nói riêng và góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục tồn diện nói chung là một vấn đề cấp thiết. Vì vậy
tơi đã lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp chỉ đạo khắc phục, củng cố, nâng
cao chất lượng chữ viết cho học sinh trường Tiểu học Tân Thành 2,
Thường Xn”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Thơng qua việc nghiên cứu để rút ra các giải pháp nhằm giúp giáo viên có
nhận thức đúng và có biện pháp phù hợp khắc phục những tồn tại về chữ viết
của học sinh. Giúp học sinh viết đúng, viết đẹp góp phần làm cho chất lượng
chữ viết của học sinh được nâng lên nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu, tổng kết một số vấn đề về luyện viết chữ nhằm nâng
cao chất lượng chữ viết cho học sinh ở trường Tiểu học Tân Thành 2.
1.4. Phương pháp nghiện cứu
Khi thực hiện đề tài này tôi sử dụng phối kết hợp các phương pháp dạy
học sau:  
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận
Chữ viết có một vai trị quan trọng. Chữ viết đã phần nào phản ánh
được trình độ văn hố của một con người cũng như của một xã hội. Không
những chữ viết làm phương tiện giao lưu, học tập nghiên cứu, truyền thụ tri
thức…mà chữ viết cịn thể hiện óc sáng tạo, tính thẩm mĩ của con người. Chữ
viết cũng là biểu hiện của nết người. Viết chữ đẹp còn chứa đựng cả suy nghĩ
của một tâm hồn, một phong cách. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đó nói:

“Chữ viết cũng là biểu hiện của nết người, dạy cho học sinh viết đúng, viết
cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lịng tự
trọng đối với mình cũng như đối với thầy, cơ giáo và bạn đọc bài vở của
mình”.
Với học sinh tiểu học chữ viết khơng chỉ có quan hệ mật thiết tới chất
lượng học tập các mơn học khác mà cịn góp phần rèn luyện một trong những
kĩ năng hàng đầu của việc học môn Tiếng Việt trong trường Tiểu học - đó là
kĩ năng viết chữ. Chữ viết là cơng cụ cho các em sử dụng suốt đời. Đọc

skkn


4
thơng, viết thạo gắn bó mật thiết với nhau, khơng thể tách rời. “Nét chữ - Nết
người”, nhận xét này phần nào nói lên tầm quan trọng của việc rèn chữ viết
bên cạnh việc rèn đọc cho học sinh Tiểu học.Mục đích của việc dạy tập viết là
dạy cho các em viết đúng, viết đẹp, giúp các em có được đức tính cần cù,
nhẫn nại, cẩn thận. Đồng thời, hình thành cho các năng lực viết thành thạo,
thuần thục chữ Tiếng Việt.
Nền giáo dục của chúng ta đã lần lượt trải qua nhiều thời kỳ cải cách.
Và sau mỗi lần cải cách như vậy, mẫu chữ viết cho học sinh Tiểu học lại thay
đổi. Đi kèm với sự thay đổi đó là các quy trình dạy, tài liệu dạy và học thay
đổi. Chữ viết và dạy viết được cả xã hội quan tâm. Nhiều thế hệ thầy cô giáo
đã trăn trở, góp cơng, góp sức để cải tiến kiểu chữ, nội dung cũng như
phương pháp dạy học chữ viết.
Với những yêu cầu cấp thiết về vấn đề chữ viết nêu trên và thực hiện
theo các văn bản chỉ đạo của Bộ Giáo dục, Sở Giáo dục và Phòng Giáo dục
hướng dẫn dạy và học chữ viết trong trường Tiểu học với yêu cầu mẫu chữ
viết được thực hiện theo những nguyên tắc sau:
- Bảo đảm tính khoa học, tính hệ thống.

- Có tính thẩm mĩ (đẹp trong sự hài hồ khi viết liền các con chữ).
- Bảo đảm tính sư phạm (phù hợp với đặc điểm tâm lý, sinh lý lứa tuổi
học sinh tiếu học).
- Có tính kế thừa và phát triển, phù hợp với thực tiễn (kế thừa vẻ đẹp
của chữ viết truyền thống đồng thời tính đến tính thuận lợi khi sử dụng, viết
nhanh, viết liền nét: phù hợp điều kiện dạy và học ở tiểu học).
Bên cạnh những ngun tắc trên cơng văn cịn quy định cụ thể về dạy
và học viết chữ đó là:
- Trong trường tiểu học, học sinh học viết chữ thường, chữ số và chữ
viêt hoa theo kiểu chữ viết đứng, nét đều là chủ yếu. Ở những nơi có điều
kiện thuận lợi, giáo viên có thể dạy hoặc giới thiệu thêm cách viết chữ viết
thường, chữ viết hoa theo kiểu chữ viết nghiêng, nét thanh nét đậm.
- Việc dạy chữ viết hoa được tiến hành theo một quá trình từ nhận diện,
tập tô, tập viết nét cơ bản đến viết từng chữ cái; Từ viết đúng đến viết thành
thạo, viết đẹp.
Nội dung dạy và học viết chữ theo bảng mẫu chữ do Bộ đã ban hành
được quy định trong văn bản Phân phối chương trình mơn Tiếng Việt và
Hướng dẫn chun mơn của Vụ Tiểu học, bắt đầu từ lớp 1 năm học 2002 2003.
* Viết là một hoạt động trí tuệ phức tạp mà cơ sở tiếp nhận được thông
tin chữ viết dựa vào hoạt động của cơ quan tri giác.
Quá trình vận động của mắt, sử dụng bộ mã chữ viết, được não bộ tư
duy phân tích hình ảnh, cấu tạo của các con chữ, được tay tái tạo lại một cách
trung thành những chữ viết.
Để viết được chữ học sinh phải hoạt động (phải tiêu hao năng lượng
của thần kinh và bắp thịt). Hoạt động viết của học sinh được thực hiện qua
một số thao tác:

skkn



5
+ Làm quen với đối tượng: Khi giáo viên hướng dẫn thì trẻ sẽ tri giác
bằng mắt, tai và tay sẽ làm theo.
+ Nói điều mình tri giác được, vừa nói vừa đưa tay theo các đường nét
của chữ để nhấn mạnh cách viết đồng thời nhận ra tên gọi, hình dáng của chữ
đó.
+ Nói thầm kiến thức mới thu thập được để tái hiện hình ảnh đó trong
óc khi viết.
+ Làm thử: Hình ảnh đã có trong óc cần được thể hiện trên bảng, trên
giấy bằng các dụng cụ như bút, bảng, phấn, bút mực.
+ Kiểm tra lại kết quả so với mẫu để rút kinh nghiệm cho lần sau.
* Tay trực tiếp điều khiển quá trình viết của trẻ. Các cơ và xương bàn
tay của trẻ đang độ phát triển nhiều chỗ còn sụn nên cử động các ngón tay
vụng về, chóng mệt mỏi.
- Khi cầm bút các em có tâm lý sợ rơi. Điều này gây nên một phản ứng
tự nhiên là các em cầm bút chặt, các cơ tay cứng nên khó di chuyển.
- Muốn có thói quen viết chữ nhẹ nhàng, thoải mái, trước hết học sinh
phải biết kỹ thuật cầm bút bằng ba ngón tay (ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa),
bàn tay phải có điểm tựa là mép cùi của bàn tay. Cầm bút phải tự nhiên, đừng
quá chặt sẽ khó vận động, nếu lỏng quá sẽ không điều khiển được bút.
- Nếu các em cầm bút sai kỹ thuật bằng 4 đến 5 ngón tay, khi viết vận
động cổ tay, cánh tay thì các em sẽ mau mệt mỏi, sức chú ý kém, kết quả chữ
viết không đúng và nhanh được.
* Trẻ tiếp thu hình ảnh chữ viết qua mắt nhìn. Vì vậy, nếu chữ viết
được trình bày với kích thước q nhỏ hoặc ánh sáng kém thì các em phải cúi
sát xuống để nhìn cho rõ chữ, từ đó dẫn đến cận thị.
- Trong thời gian đầu, có thể các em nhận ra đúng hình chữ nhưng bàn
tay chưa ghi lại đầy đủ hình dáng của mẫu chữ. Chỉ sau khi luyện tập, số lần
nhắc đi nhắc lại nhiều hay ít tuỳ theo từng học sinh, thì các em mới chép đúng
mẫu.

2.2. Thực trạng chất lượng chữ viết của giáo viên và học sinh trước
khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
* Tình hình địa phương:
Tân Thành là mợt xã th̀n nơng bán sơn địa. Người dân ở đây sống
chủ yếu bằng nghề nông và trồng cây công nghiệp ngắn ngày, một số hộ gia
đình tham gia buôn bán. Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển
chung của xã hội địa phương đã có sự thay đổi nhiều, cơ sở hạ tầng đang dần
từng bước phát triển, chính trị xã hội ngày một ổn định, dân trí ngày càng
được nâng cao, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, số hộ có mức
sống khá tăng lên, tỉ lệ hộ đói nghèo ngày một giảm.
Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội thì lĩnh vực giáo dục cũng
được quan tâm. Địa phương đã đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho các trường
học, quan tâm đến chất lượng giáo dục của các nhà trường. Hàng năm các
trường học trong xã đều nằm trong số các trường có thành tích cao của huyện,
hiện đã có 03/04 trường đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1.

skkn


6
* Tình hình nhà trường:
Trường Tiểu học Tân Thành 2 là một trong những trường có bề dày
thành tích trong dạy và học. Hàng năm nhà trường đều có giáo viên giỏi cấp
huyện, chất lượng đại trà đảm bảo, chất lượng học sinh Câu Lạc Bộ hàng năm
đảm bảo đạt chỉ tiêu đề ra. Trường nhiều năm liền đạt trường tiên tiến, Chủ
tịch UBND huyện, tỉnh tặng Giấy khen.
Bên cạnh những mặt mạnh và thành tích đạt được thì nhà trường vẫn
cịn những khó khăn nhất định như một số giáo viên tuy đã có trình độ đạt
chuẩn nhưng mức độ tiếp cận với vấn đề đổi mới giáo dục phổ thơng hiện nay
chưa kịp thời do năng lực cịn hạn chế.

Nhiều phụ huynh phải đi làm ăn xa nhà nên sự quan tâm đến việc học
của con cái là chưa kịp thời. Một số phụ huynh khác (các phụ huynh thuộc
vùng dân tộc thiểu số) do nhận thức hạn chế cịn phó mặc nhà trường, khơng
để ý đến việc học tập của con em mình.
- Do điều kiện địa phương nên CSVC nhà trường (Khuôn viên, sân
chơi, bãi tập, một số trang thiết bị dạy học) còn hạn chế, chưa thực sự đáp
ứng yêu cầu của công tác dạy và học.
* Thực trạng về chất lượng chữ viết của nhà trường:
Trong những năm trước đây, chất lượng chữ viết của học sinh nhà trường
nhìn chung khơng đồng đều, nhiều em chữ viết chưa đẹp, chưa đúng quy định.
Hiện tượng học sinh viết chưa đúng mẫu, chưa đều, chưa đẹp, hay sai lỗi chính tả
cịn nhiều; việc giữ gìn vở của một số đông học sinh chưa tốt, vở quăn mép, sờn
góc, trình bày cịn cẩu thả.
Trong các đợt kiểm tra về vở sạch chữ đẹp, số học sinh được xếp loại A
về chữ viết cịn ít, số học sinh xếp loại C về chữ viết nhiều, cá biệt có những
em bị xếp loại D về chữ viết.
Kết quả thống kê như sau:
Năm học
2017 - 2018
2018 - 2019 2019 - 2020
Tổng số học sinh
185
195
197
SL
53
64
86
Loại A
TL

28,6%
32,8%
43,7%
SL
53
57
40
Kết quả
Loại B
TL
28,6%
29,2%
20,3%
xếp loại
chữ viết
SL
64
61
59
Loại C
cấp trường
TL
34,6%
31,3%
29,9%
SL
15
13
12
Loại D

TL
8,1%
6,7%
6,1%
Nguyên nhân của kết quả trên là:
+ Công tác quản lí, chỉ đạo của nhà trường chưa thực sự chặt chẽ, chưa
thường xuyên. Nhà trường chỉ đi sâu vào cơng tác chỉ đạo chất lượng văn hóa
cịn cơng tác thi đua giữ vở sạch, viết chữ đẹp chưa được quan tâm đúng mức.
+ Giáo viên chưa chu đáo, chưa kèm cặp, giáo dục học sinh ý thức giữ
gìn sách vở và trình bày vở ngay ngắn khoa học; cơng tác chấm vở sạch, viết
chữ đẹp chưa được giáo viên quan tâm đúng mức.

skkn


7
+ Học sinh chưa chăm chỉ học tập và ý thức rèn luyện chữ viết, giữ vở
sạch chưa cao.
+ Phụ huynh học sinh xem nhẹ vấn đề chữ viết chỉ quan tâm đến việc con
mình học Tốn, học Tiếng Việt như thế nào chứ chưa chú ý đến chữ viết của con em.
+ Trong đánh giá thi đua việc thực hiện rèn chữ viết cho học sinh còn bị xem
nhẹ, chưa kịp thời. Việc thưởng cho những cá nhân giáo viên, học sinh có thành
tích trong chữ viết rất ít chưa khích lệ được sự cố gắng của giáo viên, học sinh.
Trên cơ sở lý luận, cơ sở thực tế và thực trạng về chất lượng chữ viết
trong nhà trường, để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện trong
nhà trường thì việc nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh cũng hết sức
quan trọng. Chính vì vậy tơi đã mạnh dạn tìm ra những giải pháp, áp dụng
những biện pháp chỉ đạo nâng cao chữ viết cho học sinh trong q trình quản
lý cơng tác chun mơn của mình.
2.3. Các giải pháp chỉ đạo khắc phục, cũng cố và nâng cao chất

lượng chữ viết cho giáo viên và học sinh
Giải pháp thứ nhất: Nâng cao nhận thức cho giáo viên, học sinh và phụ
huynh về vai trò, tác dụng của việc nâng cao chất lượng chữ viết .
Nâng cao nhận thức cho CBGV, học sinh và các lực lượng xã hội về vai
trò, tác dụng của việc nâng cao chất lượng chữ viết nhằm phát triển ý thức tự
giác, tính kiên trì, khéo léo, tinh thần trách nhiệm của cá nhân và cộng đồng.
Thông qua việc rèn chữ viết để hình thành nhân cách cho học sinh. Đây là
giải pháp tiền đề đề nâng cao chất lượng chữ viết trong nhà trường.
Đây là khâu quan trọng có ảnh hưởng rất lớn đến việc luyện chữ viết
cho học sinh. Thực tế cho thấy chúng ta đang sống trong một thời đại mới,
thời đại của công nghệ thông tin. Mọi người thường ngồi với chiếc máy vi
tính để soạn thảo một văn bản thay vì cầm bút viết trên giấy. Vì vậy khơng ít
phụ huynh học sinh cho rằng chỉ cần học giỏi cịn chữ viết thì đã có máy vi
tính nên chưa thực sự quan tâm đúng mức đến chất lượng chữ viết của con
mình.
Vì vậy chúng tôi đã tổ chức quán triệt và nâng cao nhận thức cho giáo
viên, học sinh và cha mẹ các em về vai trị của chữ viết, vị trí, tầm quan trọng
của việc rèn chữ đối với việc hình thành nhân cách, tính kỉ luật, chịu khó của
các em trong q trình học tập. Chữ viết đẹp sẽ tạo hứng thú cho học sinh
trong việc học các môn học khác.
Vào đầu năm học, trong các kì họp phụ huynh, cùng với việc triển khai
các nội dung khác chúng tôi luôn dành một thời gian để tuyên truyền cho phụ
huynh việc cần phải quan tâm rèn chữ viết cho học sinh, xoá bỏ quan điểm
không cần rèn chữ viết khi nền khoa học và công nghệ ngày càng hiện đại.
Yêu cầu phụ huynh mua sắm đủ các loại đồ dùng học tập cho học sinh như:
bút, vở, mực, thước kẻ…Hướng dẫn phụ huynh mua các loại bút phù hợp cho
con em, dựa vào mẫu chữ ở vở tập viết để kiểm tra và thường xuyên đồng
thời quan tâm hơn đến việc sửa chữa các sai sót của con em mình.
Với giáo viên, chúng tôi tổ chức quán triệt về tầm quan trọng của phân
mơn Tập viết, Chính tả, Tập làm văn trong mơn Tiếng Việt, để giáo viên có ý

thức, trách nhiệm và quan tâm đúng mức khi dạy các phân môn này. Đồng

skkn


8
thời giúp cho giáo viên nắm vững về yêu cầu của công tác viết chữ đẹp. Viết
chữ đẹp, trước hết là viết đúng mẫu chữ, rõ ràng, rành mạch và đúng tốc độ,
các nét chữ mềm mại, thanh thoát, uyển chuyển. Học sinh khơng chỉ viết chữ
đẹp mà cịn phải biết giữ vở sạch. Giữ vở sạch là vở được giữ đúng quy định,
phẳng phiu, không quăn mép, không để bẩn, khơng tẩy xố, sách vở đủ trang,
khơng bị xé… Từ đó, mỗi giáo viên thấy được tầm quan trọng của việc rèn
luyện chữ viết cho học sinh đối với chất lượng các môn học khác để hàng
ngày giáo viên thường xuyên có ý thức quan tâm rèn chữ viết cho học sinh.
Thông qua công tác chủ nhiệm lớp, các hoạt động Đội, Sao nhi đồng…
chúng tôi tuyên truyền cho học sinh tác dụng của việc rèn chữ viết đẹp, sự
ảnh hưởng của chữ viết đẹp đối với các môn học khác và việc hình thành
nhân cách của các em sau này. Phát động phong trào học tập gương rèn luyện
chữ viết của các danh nhân nước ta như: Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu…để
từ đó khơi dậy trong các em lòng say mê và ý thức luyện chữ đẹp.
Giải pháp thứ hai: Sắp xếp, phân công giáo viên hợp lý, phát huy tối
đa năng lực, sở trường, năng khiếu của giáo viên.
Việc sắp xếp, phân công lao động hợp lý nhằm phát huy tối đa năng
lực, sở trường, năng khiếu của giáo viên là rất cần thiết; lựa chọn những giáo
viên viết chữ đều, đẹp, cẩn thận để dạy các lớp đầu cấp. Đây là khâu nền tảng
để nâng cao chất lượng chữ viết.
Giáo viên có vai trị rất quan trọng trong việc rèn chữ viết cho học sinh.
Giáo viên viết chữ ngay ngắn, đúng mẫu chính là trực quan sinh động nhất
giúp học sinh học tập nét chữ, cách trình bày của thầy, cơ. Đặc biệt với học
sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1, lớp 2 nói riêng thì thầy cơ ln

được xem như là một tấm gương phản chiếu để các em soi rọi. Thầy, cơ viết
như thế nào thì các em viết như thế, các em ln “bắt chước” và làm theo
thầy cơ.
Vì vậy, ngay vào đầu năm học, ban giám hiệu nhà trường đã họp bàn,
lấy ý kiến của các thành viên trong hội đồng nhà trường để phân công chuyên
môn cho giáo viên thật sự hợp lí. Lựa chọn những giáo viên viết chữ đều,
đẹp, cẩn thận dạy các lớp đầu cấp (lớp 1, lớp 2). Những giáo viên có năng lực
chuyên môn, chuyên sâu kiến thức được phân công dạy các lớp cuối cấp (Lớp
4,5). Việc phân công trên đã phát huy tối đa năng lực, sở trường của từng
giáo viên, đồng thời cũng giúp giáo viên khắc phục được những hạn chế của
bản thân.
Giải pháp thứ ba: Chỉ đạo cán bộ, giáo viên và học sinh thực hiện
nghiêm các quy định về chuyên môn, chú ý hơn đến nội dung rèn chữ viết cho
học sinh.
Ban giám hiệu nhà trường đã chỉ đạo cán bộ giáo viên và học sinh thực
hiện nghiêm túc các quy định về chuyên môn, chú ý tập trung rèn chữ viết
cho học sinh. Tăng cường công tác kiểm tra về chất lượng chữ viết của giáo
viên cũng như của học sinh, việc chấm chữa bài trong vở cho học sinh của
giáo viên…Đây là khâu quan trọng, quyết định trong việc nâng cao chất
lượng chữ viết của học sinh toàn trường.

skkn


9
Bước 1: Xây dựng kế hoạch cụ thể, sát thực.
Để nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh, ngay vào đầu năm học, cùng
với việc xây dựng kế hoạch chuyên môn tổng thể chúng tôi đã xây dựng riêng kế
hoạch luyện viết một cách cụ thể, rõ ràng đến từng tổ, từng giáo viên. Thành lập
Ban chỉ đạo, phân công trách nhiệm cho từng bộ phận, từng thành viên. Để các bộ

phận có trách nhiệm thường xun đơn đốc, giám sát, kiểm tra và đánh giá rút
kinh nghiệm kịp thời khắc phục những hạn chế yếu kém.
Sau khi giáo viên nhận lớp, chúng tôi đã ra đề để khảo sát chất lượng
đầu năm, chỉ đạo cho giáo viên kết hợp phân loại học sinh theo từng đối
tượng(cả về chất lượng văn hóa và chất lượng chữ viết). Bên cạch đó yêu cầu
giáo viên phân loại chữ viết của các em thành các loại như: viết đúng mẫu
chữ theo quy định, đều đẹp; viết đúng mẫu chữ theo quy định nhưng chưa đều
đẹp, viết chưa đúng mẫu chữ quy định, viết cịn sai nhiều lỗi chính tả. Thơng
qua đó giáo viên cần nắm vững, cụ thể trong lớp mình những em nào viết cịn
thiếu nét, gãy nét, sai lỗi chính tả, chưa biết cách trình bày để phân loại học
sinh thành các nhóm cụ thể…Thơng qua khảo sát, giáo viên tổng hợp lập
danh sách báo cáo với Ban giám hiệu. Trên cơ sở thực tế, Ban giám hiệu tổ
chức họp Ban chỉ đạo và các thành viên cốt cán để bàn bạc đề ra những biện
pháp cụ thể trong tổ chức dạy học và rèn chữ viết cho học sinh như: rèn luyện
cho học sinh viết đúng theo mẫu chữ quy định, viết đúng cỡ chữ, đảm bảo
chiều cao, độ rộng, khoảng cách; giúp cho học sinh nắm được chính âm chính
tả để tránh viết sai do phát âm khơng chuẩn.
Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, khi thao giảng, dự giờ chúng tơi
ln quan tâm góp ý cho giáo viên về chữ viết, cách trình bày của giáo viên
và đôn đốc nhắc nhở giáo viên tăng cường kiểm tra, kèm cặp cho học sinh rèn
luyện chữ viết đi đôi với trau dồi kiến thức.
Bước 2: Chỉ đạo các tổ chuyên môn, giáo viên tổ chức dạy tốt các phân
môn Tập viết, Chính tả.
Trước hết để giúp giáo viên tổ chức dạy học tốt phân mơn Tập viết, Chính
tả, chúng tôi đã đi sâu triển khai chuyên đề về đổi mới phương pháp dạy học phân
mơn Tập viết, Chính tả. Qua chuyên đề cũng cố cho giáo viên về các biện pháp
chủ yếu trong giờ tập viết, chính tả. Đó là phải có các biện pháp kĩ thuật phù hợp
để hướng dẫn cho học sinh viết chữ cái, chữ, câu, đoạn bài; cách viết liền mạch,
cách đặt dấu thanh…. Chấm chữa bài tập viết, chính tả cho học sinh một cách cụ
thể, giúp các em tự rút ra ưu nhược điểm của mình để khắc phục, sửa chữa. Kịp

thời động viên những cố gắng nổ lực của từng học sinh trong quá trình viết chữ.
Trong các giờ học yêu cầu giáo viên tổ chức dạy học đúng, đủ quy trình
và các bước. Chú ý đặc trưng của mơn học, tích cực rèn luyện kĩ năng cho
học sinh, tránh học lí thuyết dài dịng, nói nhiều. Tập trung kèm cặp, nhắc
nhở học sinh tư thế ngồi viết, cách cầm bút, kĩ năng viết. Chữ mẫu của giáo
viên trên bảng phải đúng mẫu, đều và đẹp vì chữ mẫu của cơ có vai trò quan
trọng trong việc giáo dục học sinh ý thức rèn chữ viết.
Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm thực hiện nghiên túc công tác chấm chữa
bài, đặc biệt là trong các giờ Tập viết, Chính tả và Tập làm văn. Giáo viên khi
chấm bài phải sửa lỗi cụ thể cho học sinh, ghi nhận xét cụ thể rõ ràng để học

skkn


10
sinh kịp thời sửa chữa, khắc phục những sai sót đồng thời động viên, khích lệ
tính thi đua của các em.
Ngồi ra, nhà trường cịn tổ chức cho giáo viên sử dụng tối đa và có
hiệu quả bộ đồ dùng dạy học của phân môn tập viết. Trong các giờ dạy tập
viết giáo viên phải chuẩn bị chữ mẫu in sẵn (mẫu chữ to) treo trên bảng, gợi ý
học sinh phân tích cấu tạo của chữ, hình dáng, kích thước của các nét để học
sinh nắm được cấu tạo từng chữ cái, cách nối nét các con chữ, điểm đặt bút,
điểm dừng bút; hoặc có thể sử dụng cách hướng dẫn tập viết trên mạng
intenet thông qua việc sử dụng máy chiếu(CNTT) một cách khoa học, hiệu
quả, không lạm dụng……từ đó mà viết cho đúng mẫu.
Trong các lớp học, yêu cầu giáo viên treo các bảng chữ mẫu(cả chữ
thường và chữ hoa) trên tường lớp học nhằm giúp các em có những trực quan
chính xác nhất, ghi nhớ các mẫu chữ này lâu hơn, chính xác hơn, từ đó các
em có cảm nhận và viết theo đúng chữ mẫu.
Biện pháp 4: Tổ chức bồi dưỡng kĩ thuật viết chữ cho giáo viên và học sinh.

a. Đối với giáo viên
Muốn học sinh viết đúng, viết đẹp người giáo viên phải tích cực, kiên
trì, chịu khó, có phương pháp khoa học và kinh nghiệm được đúc rút trong
quá trình rèn học sinh. Muốn dạy cho học sinh kĩ năng viết chữ đúng yêu cầu,
luyện cho học sinh viết chữ ngày càng đẹp ngoài việc nắm vững nội dung
phương pháp dạy học, giáo viên cần có năng lực thẩm mĩ để cảm nhận được
vẻ đẹp của chữ viết, có khả năng viết chữ đẹp để học sinh noi theo. Vì thế,
trong năm học, chúng tôi đã mở các chuyên đề, hội thảo về phương pháp dạy
– học mơn Tập viết, Chính tả, tổ chức các tiết thao giảng để giáo viên có điều
kiện trao đổi và tìm ra những biện pháp tối ưu nhất giúp đỡ học sinh viết
đúng, viết đẹp.
Để làm gương cho học sinh, ngoài việc yêu cầu giáo viên phải viết
đúng, viết đẹp bất kì mọi lúc, mọi nơi, chúng tơi đã chỉ đạo thống nhất cách
trình bày bảng của giáo viên ở từng phân môn và thể loại bài dạy. Các trình
bày bảng của giáo viên cũng là cách trình bày trong vở của học sinh. Đây là
vấn đề có tính quyết định, là nền tảng cho việc thực hiện phong trào vở sạch
chữ đẹp của nhà trường. Việc ghi và trình bày bảng ln địi hỏi những u
cầu về tính khoa học, tính sư phạm và tính thẩm mĩ. Muốn thực hiện tốt
những yêu cầu trên, người giáo viên cần thường xuyên có ý thức luyện tập,
rút kinh nghiệm trong viết chữ và trình bày bảng sao cho đạt hiệu quả cao
nhất.
Mục đích quan trọng của việc dạy viết là học sinh viết đúng mẫu chữ
quy định, có kĩ năng viết nhanh, viết đẹp và biết trình bày một bài viết sạch
sẽ. Do vậy, trong qua trình bồi dưỡng giáo viên chúng tôi đã chú trọng bồi
dưỡng cho giáo viên nắm chắc các yêu cầu sau:
Yêu cầu 1: Tên gọi các nét cơ bản trong khi hướng dẫn học sinh:
Nét thẳng (thẳng đứng, thẳng ngang, thẳng xiên);
Nét cong (cong kín, cong hở, cong phải, cong trái);
Nét móc (móc trên, móc dưới, móc hai đầu);
Nét khuyết (khuyết trên, khuyết dưới) và nét thắt.


skkn


11
Yêu cầu 2:Nắm chắc các nhóm chữ viết để rèn luyện dứt điểm, đúng
trọng tâm (từ dễ đến khó theo từng nhóm chữ):
- Đối với chữ viết thường có thể chia thành các nhóm:
+ Nhóm có nét cong và có dấu mũ: a, ă, â, o, ô, ơ, e, ê
+ Nhóm có nét móc: n, m, i, u, ư, v, r, t.
+ Nhóm có nét khuyết: l, b, h, k, g, y
+ Nhóm các chữ ghép: nh, ch, kh, tr, g h, ngh, ng, ph
- Đối với chữ hoa cùng tiến hành theo cấu tạo các nét giống nhau với
mức độ từ dễ đến khó, giáo viên phải lựa chọn phương pháp cho phù hợp.
Ví dụ: Nhóm chữ: A, Ă, Â, M, N. Đây là nhóm chữ học chủ yếu tạo bởi
nét cong và sự phối hợp hay biến điệu của những nét cong. Vì vậy khi dạy
cần luyện kĩ cách điều khiển đầu bút để tạo nét cong cho đúng mẫu.
Đặc biệt chúng tôi bồi dưỡng cho giáo viên cách chấm, chữa bài trong
vở cho học sinh. Việc chấm chữa bài trong vở tập viết, giáo viên phải căn cứ
vào mục đích, yêu cầu đặt ra ở từng bài học, phải bắt kĩ lỗi các nét cơ bản
trong từng bài, gạch chân, đánh dấu để học sinh biết. Ở bài chính tả, ngồi
việc bắt các lỗi trên, giáo viên phải bắt kĩ hơn quy trình nối nét, cách đánh
dấu thanh, các dấu phụ.
Bên cạnh việc chấm, bắt lỗi quy trình, nối nét, cách đánh dấu thanh,
dấu phụ, giáo viên phải chú ý kết hợp chữa lỗi và đồng thời ghi lời nhận xét
trong những yêu cầu nghiêm ngặt của nhà trường buộc giáo viên phải thực
hiện.
b. Đối với học sinh
Khi viết đòi hỏi học sinh đồng thời sử dụng cả năng lực trí tuệ và hoạt
động cơ bắp: Mắt, tay, miệng, tai…. Vì vậy giáo viên phải hướng dẫn học

sinh kĩ về kĩ thuật, tư thế ngồi viết…để tránh những di chứng cho học sinh
(cận thị, cong vẹo cột sống, ảnh hưởng phổi, lưng gù…) do ngồi viết không
đúng tư thế.
Muốn vậy, chúng tôi yêu cầu giáo viên thường xuyên quan tâm hướng
dẫn, nhắc nhở các em thực hiện đúng theo các bước sau đây:
Bước 1. Chuẩn bị và sử dụng đồ dùng học tập.
- Hoạt động chủ đạo của học sinh trong giờ học tập viết, chính tả là
thực hành luyện tập nhằm mục đích hình thành kỹ năng viết chữ ngày càng
thành thạo. Do vậy, để thực hành luyện viết đạt kết quả tốt, học sinh cần có ý
thức chuẩn bị đồ dùng học tập thiết yếu: Bảng con, phấn trắng, khăn lau đúng
quy định.
+ Bảng con có dịng kẻ (đồng dạng với dịng kẻ li trong vở tập viết).
+ Phấn viết có độ dài vừa phải.
+ Khăn lau sạch (Bằng vải bơng mềm hoặc mút có độ ướt vừa phải).
+ Vở Tập viết có đủ 2 tập.
+ Vở Chính tả 2 tập
+ Vở ơ li để ghi Toán, ghi đầu bài
+ Bút nên cho học sinh sử dụng bút máy, bút chữ A. Hay có thể cho các
em viết bút mực có nét thanh đậm.

skkn


12
Bước 2. Thực hiện đúng quy định khi viết chữ:
Quá trình hình thành kỹ năng viết chữ nói chung thường trải qua hai
giai đoạn chủ yếu:
- Giai đoạn nhận biết, hiểu biết về chữ viết (Xây dựng biểu tượng) .
- Giai đoạn điều khiển vận động: Giai đoạn này thường có hiện tượng
“lan toả” dễ ảnh hưởng tới một số bộ phận khác trong cơ thể (Ví dụ: miệng

méo, vai lệch, gù lưng, …). Nhận thức rõ điều đó, giáo viên phải chú ý nhắc
nhở các em cần thực hiện đúng một số quy định khi viết chữ như:
+ Tư thế ngồi viết: Học sinh cần ngồi với tư thế thẳng lưng, không tỳ
ngực vào bàn, đầu hơi cúi, mắt cách vở từ 25 đến 30cm, cầm bút tay phải, tay
trái tỳ nhẹ lên mép vở để trang viết không bị xê dịch, hai chân để song song,
thoải mái.

+ Cách cầm bút: Hướng dẫn các em cầm bút bằng ba ngón tay (ngón
cái, ngón trỏ và ngón giữa) với độ chắc vừa phải (không cầm bút lỏng hay
chặt quá). Khi viết dùng ba ngón tay di chuyển một cách nhẹ nhàng từ trái
sang phải. Chú ý không nhấn mạnh đầu bút xuống mặt giấy, cán bút nghiêng
về bên phải, cổ tay, khuỷu tay và cánh tay cử động theo mềm mại.
+ Cách để vở xê dịch khi viết: Khi viết chữ đứng, nhắc các em cần để
vở ngay ngắn trước mặt. nếu viết chữ nghiêng (tự chọn) cần để vở hơi
nghiêng sao cho mép vở phía dưới cùng với bàn tạo thành một góc khoảng
15o. Khi viết chữ về bên phải quá xa lề vở, cần xê dịch vở sang bên trái để
mắt nhìn thẳng nét chữ, tránh nhồi người về bên phải để viết tiếp.
- Cách trình bày bài: Học sinh nhìn và viết theo đúng mẫu trong vở Tập
viết lớp 2, vở chính tả, chữ mẫu của giáo viên, viết theo yêu cầu giáo viên
hướng dẫn, tránh viết dở dang chữ ghi tiếng hoặc viết chòi ra mép vở khơng
có dịng kẻ li.

skkn


13
Khi viết đặt vở nghiêng so với mép bàn một góc khoảng 30 0 nghiêng về
bên phải.
Khi viết sai chữ khơng khơng được tẩy xố mà cần để cách ra một
khoảng ngắn rồi viết lại.

Trong mỗi giờ học giáo viên phải quan sát nhắc nhở kịp thời những em
có tư thế ngồi viết chưa đúng, có cách cầm bút sai, giáo viên cần kiên trì
hướng dẫn, uốn nắm các em trong mỗi giờ học tập viết cũng như các giờ học
khác để các em kịp thời sửa chữa.
Giải pháp thứ năm: Rèn kỹ năng viết chữ đúng, đẹp thông qua tiết tập
viết và qua phân mơn Chính tả:
1. Rèn kỹ năng viết chữ đúng, đẹp thông qua tiết tập viết
Chúng ta biết rằng muốn viết đẹp thì trước tiên là phải viết đúng mẫu chữ,
kích cỡ, độ cao, tốc độ viết đảm bảo. Vì thế trong các giờ tập viết, chính tả trên
lớp, giáo viên cần cung cấp cho học sinh những khái niệm cơ bản về đường kẻ,
toạ độ viết chữ, tên gọi các nét chữ, cấu tạo chữ cái, vị trí dấu thanh, dấu phụ,
các khái niệm liên kết nét chữ hoặc liên kết chữ cái… Từ đó, hình thành ở các
em những biểu tượng về hình dáng, độ cao, sự cân đối, tính thẩm mĩ của chữ
viết. Bên cạnh đó, giáo viên cần dạy học sinh các thao tác viết chữ từ đơn giản
đến phức tạp, bao gồm các kỹ năng viết nét, liên kết nét tạo các chữ cái và liên
kết chữ cái tạo thành chữ ghi tiếng. Đồng thời giúp các em xác định khoảng
cách, vị trí cỡ chữ trên vở kẻ ơ li để hình thành kỹ năng viết đúng mẫu, rõ ràng và
cao hơn là viết nhanh và đẹp.
- Hướng dẫn thêm về kỹ thuật viết như: Lia bút, rê bút hay viết liền mạch
cho các em.
- Giáo viên phải chuẩn bị đầy đủ phương tiện phục vụ giảng dạy như:
bảng phụ có kẻ sẵn dòng kẻ để viết chữ cái, từ ứng dụng và câu ứng dụng. Để
không mất thời gian chuẩn bị bảng phụ thì giáo viên cần làm sẵn ba bảng phụ
tương ứng với viết chữ cái, từ, câu ứng dụng làm bằng giấy ru ki sơn xanh và kẻ
sẵn dịng kẻ ngang bằng mực xóa màu trắng cố định để khi viết mẫu có sai giáo
viên xóa thì cũng khơng mất dịng kẻ. Đằng sau có gắn sẵn nam châm hít từ để
sử dụng cho thuận tiện.
- Khi viết chữ mẫu giáo viên phải vừa viết vừa phân tích chữ thu hút sự
chú ý của toàn bộ học sinh cho học sinh thấy được tay giáo viên khi viết chữ từ
điểm đặt bút, cách rê và lia bút, điểm dừng bút. Có như vậy học sinh mới xác

định được cách viết chữ.
- Không được bỏ qua khâu thực hành viết bảng con.
- Giáo viên cần hướng dẫn kĩ khi học sinh thực hành viết vở tập viết:
Điểm bắt đầu, điểm kết thúc độ cao khoảng cách phải chú ý theo mẫu trong vở.
Sau mỗi tiết tập viết giáo viên cần chấm bài và sửa lỗi ngay tại lớp trực tiếp chỉ
chỗ sai cho học sinh để học sinh kịp thời sửa chữa. Khen ngợi biểu dương học
sinh viết đúng, đẹp, học sinh viết chữ có tiến bộ để khích lệ và khơi gợi niềm
hứng thú viết chữ hướng tới viết đẹp cho học sinh.
- Quan tâm đặc biệt đến cách ngồi viết, cầm bút của học sinh theo quy
định học đường để có được tư thế viết chữ đạt hiệu quả cao nhất.
2. Rèn kỹ năng viết chữ đúng, đẹp qua phân mơn Chính tả:

skkn


14
Đối với phân mơn chính tả trơng q trình dạy tôi áp dụng nhiều biện
pháp khác nhau để học sinh luôn viết đúng viết đẹp. Tôi đặc biệt chú trọng
đến các biện pháp sau:
a. Tích cực luyện phát âm đúng
Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải là người phát âm rõ
tiếng, đúng chuẩn, đồng thời chú ý luyện phát âm cho học sinh để phân biệt
các thanh, các âm đầu, âm cuối. Việc rèn phát âm bắt đầu phải được thực hiện
trong tiết Tập đọc và được thực hiện thường xuyên, liên tục, lâu dài trong tất
cả các tiết học như Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn..
b. Phân biệt chính tả bằng phân tích, so sánh
Song song với việc phát âm, giáo viên có thể áp dụng biện pháp phân
tích cấu tạo tiếng, so sánh với những tiếng dễ lẫn lộn, phát hiện những điểm
khác nhau để học sinh lưu ý và ghi nhớ.
Ví dụ: Khi viết tiếng “đàn” học sinh dễ lẫn lộn với tiếng “làn”, giáo

viên yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này:
- đàn = đ + an + thanh huyền
- làn = l + an + thanh huyền.
So sánh để thấy sự khác nhau: Tiếng “đàn” có âm đầu là “đ”, tiếng
“làn” có âm đầu là “l”. Học sinh ghi nhớ điều này, khi viết, các em sẽ không
viết sai.
c. Phân biệt bằng nghĩa từ
Một biện pháp khác để khắc phục lỗi chính tả cho học sinh là giúp học
sinh hiểu nghĩa chính xác của từ. Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện
trong tiết Tập đọc, Luyện từ và câu…nhưng trong tiết Chính tả cũng là một
biện pháp tích cực, khi học sinh khơng thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm
hoặc phân tích cấu tạo tiếng.
Ví dụ: Phân biệt Vàng và bàng (trong từ đơn): Vàng = màu vàng –
bàng = cây bàng hoặc phân biệt Bác và bát: bác=anh của ba, Bác Hồ - bát =
đồ dùng ăn cơm (bát đũa)
Với những từ nhiều tiếng, từ nhiều nghĩa giáo viên phải đặt từ đó trong
văn cảnh cụ thể để gợi lại nghĩa từ hoặc giúp học sinh giải nghĩa từ.
d. Ghi nhớ một số mẹo luật chính tả
Luật chính tả ghi âm đệm: âm (cờ) đứng trước âm đệm phải viết bằng
con chữ q ( cu), âm đệm viết bằng chữ u; Ví dụ: quả, quế, quanh…
+ Luật chính tả về âm đơi: âm đơi và ươ đều có hai cách viết. Khi
kết hợp với âm cuối thì hai âm đơi này thể hiện ngun hình của nó. Trong
những vần khơng có âm cuối thì cả hai âm đơi này đều bị biến âm.
Cụ thể như sau:
* Âm đơi :
- Có âm cuối viết bằng ; ví dụ: ln, muốn, chng, khng, nng,
muốt…
- Khơng có âm cuối viết bằng ua; ví dụ: mua, lúa, chua, khua, tua tủa,…
* Âm đơi ươ:
- Có âm cuối viết bằng ươ; ví dụ: lướt thướt, thương, lương, mườn

mượt, sườn sượt,…

skkn


15
- Khơng có âm cuối viết bằng ưa; ví dụ: mưa, trưa, lưa thưa, cưa, xưa,…
* Âm đơi iê có 2 cách viêt:
- Viết bằng: iê khi vần khơng có âm đệm, có âm cuối (giữ ngun hình
của nó); ví dụ : liên miên, tiên tiến,…
- Viết bằng yê khi vần có âm đệm có âm cuối; ví dụ: tun truyền,
khun, luyến, chuyến,…
* Âm đơi ia có 2 cách viêt:
- Viết bằng ya khi vần có âm đệm, khơng có âm cuối; ví dụ: khuya, luya…
- Viết bằng ia: khi vần khơng có âm đệm, khơng có âm cuối; ví dụ:
mía, bia, tia, đĩa, nghĩa,… Để viết đúng luật chính tả học sinh cần nắm vững
bản chất ngữ âm tiếng Việt, phân biệt vị trí các âm để viết cho đúng.
Chẳng hạn phân biệt: của/quả: của và quả đều có phụ âm đầu là âm
(cờ) nhưng chữ (của) âm đầu viết bằng con chữ (cờ) vì chữ u trong vần ua
khơng phải là âm đệm mà nó kết hợp với a để tạo thành âm đơi ua. Chữ quả
thì âm đầu phải viết bằng con chữ q vì chữ u trong trường hợp này nó là âm
đệm. Chính vì vậy mà ta phải biết phân biệt cho đúng để viết các trường hợp
dễ bị lẫn: Ví dụ: của chua - quả chua; cua bể - qua bể.
Phân biệt bản chất của các chữ (a); (ă) trong các trường hợp: hai- hay;
sai- say; khai - khay. Bản chất của chữ a trong các chữ: hay, say, khay… là
chữ (ă). Vì âm (ă) kết hợp với âm i thì chữ (ă) khơng viết dấu phụ mà viết
như chữ a. Còn âm i thì khi viết thể hiện bằng chữ y chính vì vậy mà ta viết
các vần đó là: ai - ay. Khi viết chữ tơi cịn hướng dẫn các em ghi dấu thanh
cho đúng vị trí (dấu thanh phải ghi ở trên hoặc dưới âm chính); Ví dụ: học
hành… Học sinh nắm vững luật chính tả thì vận dụng vào viết bài rất tốt trẻ

tự tin vào mình. Bài viết chính tả của lớp tơi các em viết rất ít sai lỗi. Vì sao?
Trước hết giáo viên phải phát âm thật chuẩn. Giọng đọc rõ ràng, dứt khoát.
Học sinh nghe rõ phân tích tiếng thành các phần, chọn con chữ để viết và viết
đúng luật. Tôi thường hướng dẫn học sinh cách tự kiểm tra bài viết của mình
bằng cách: mỗi lần viết xong một cụm từ, một câu (do cô đọc). Các em đưa
mắt nhìn lại chữ đã viết. Như vậy học sinh dễ dàng nhận ra sự sai sót của
mình. Chẳng hạn khi viết thiếu dấu thanh là các em có thể thêm được ngay.
Hay trong một chữ ghi tiếng nào đó mà bị sai một con chữ thì các em dùng
bút gạch đúng vào con chữ viết sai đó rồi viết sang bên cạnh. Thực tế tơi thấy
có những giáo viên để cho học sinh chữa đè lên chữ viết sai. Nét bút di đi di
lại làm cho vở bẩn hay gạch một nét dài nhìn rất xấu.
Một số hiện tượng chính tả mang tính quy luật đối với hàng loạt từ có
thể giúp cho học sinh khắc phục lỗi chính tả một cách rất hữu hiệu. Ngay từ
lớp 1, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như: các âm đầu k,
gh, ngh chỉ kết hợp với các nguyên âm i, e, ê, iê, ie.
Luật bổng - trầm: Qui luật về dấu hỏi, ngã trong các từ láy (mát mẻ,
vui vẻ, sạch sẽ...) Trong các từ láy điệp âm đầu, thanh (hay dấu) của 2 yếu tố
ở cùng một hệ bổng (ngang/sắc/hỏi) hoặc trầm (huyền/ngã/nặng). Để nhớ
được 2 nhóm này, giáo viên chỉ cần dạy cho học sinh thuộc nguyên tắc :
Ngang- sắc - hỏi/ Huyền- nặng - ngã

skkn


16
Nghĩa là đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh
huyền, nặng, ngã thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngã, nếu yếu tố đứng
trước mang thanh ngang, sắc, hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi (hoặc
ngược lại).
Ví dụ:

Ngang + hỏi: Nhỏ nhoi, trẻ trung, vui vẻ…
Sắc + hỏi: Mát mẻ, sắc sảo, vắng vẻ…
Hỏi + hỏi: Thỏ thẻ, hổn hển, rủ rỉ…
Huyền + ngã: Mỡ màng, lững lờ, vồn vã
Nặng + ngã: Đẹp đẽ, mạnh mẽ, vật vã…
Ngã + ngã: Dễ dãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo…
Ngồi ra, giáo viên có thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật
khác như:
+ Để phân biệt âm đầu tr/ch: Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên
con vật đều bắt đầu bằng ch, ví dụ: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén,
chum, chạn, chõ, chĩnh, chuông, chiêng, choé,… chồn, chí, chuột, chó, chuồn
chuồn, châu chấu, chào mào, chiền chiện, chẫu chàng, chèo bẻo, chìa vơi …
+ Để phân biệt âm đầu s/x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều
bắt đầu bằng s: Sả, si, sồi, sứ, sung, sắn, sim, sao, su su, sầu đâu, sa nhân, sơn
trà, sặt, sậy, sấu, sến, săng lẻ, sầu riêng, so đũa… sam, sán, sáo, sâu, sên, sếu,
sò, sóc, sói, sứa, sáo sậu, săn sắt, sư tử, sơn dương, san hô…
+ Để phân biệt các vần dễ lẫn lộn:
Đa số từ chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc có vần ênh: Gập
ghềnh, khấp khểnh, chơng chênh, lênh đênh, bập bềnh, chếnh choáng, chệnh
choạng, lênh khênh, bấp bênh, công kênh…
Hầu hết các từ tận cùng là ng hoặc nh là từ tượng thanh: oang oang,
đùng đoàng, loảng xoảng, đoàng đoàng, sang sảng, rổn rảng, ùng oàng, quang
quác, pằng pằng, eng éc, beng beng, chập cheng, leng keng, lẻng kẻng, đùng
đùng, thùng thùng, bình bịch, thình thịch, rập rình, xập xình, huỳnh huỵch…
Vần uyu chỉ xuất hiện trong các từ tượng hình: khuỷu tay, khúc khuỷu,
ngã khuỵu, khuỵu chân; vần oeo chỉ xuất hiện trong các từ ngoằn ngoèo,
khoèo chân
e. Vận dụng củng cố bằng các bài tập chính tả
Giáo viên nên cho học sinh thực hiện các dạng bài tập chính tả khác
nhau để giúp học sinh tập vận dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc

sử dụng từ trong văn cảnh cụ thể. Sau mỗi bài tập, giáo viên giúp học sinh rút
ra các quy tắc chính tả để các em ghi nhớ.
Giải pháp thứ sáu: Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá về chất
lượng chữ viết.
Thông qua việc kiểm tra chất lượng chúng tôi nắm được thật cụ
thể chất lượng chữ viết của từng em học sinh, chất lượng của từng lớp. Vì
chất lượng chữ viết của học sinh nó phản ánh chất lượng của giáo viên.
Ngay đầu năm học, chúng tôi đã quy định chung về hồ sơ sổ sách của
giáo viên và học sinh. Trong đó, mỗi giáo viên và học sinh đều phải có vở
luyện viết chữ đẹp. Theo kế hoạch đã đề ra, hàng tháng mỗi học sinh cũng

skkn


17
như giáo viên luyện viết hai bài (bài thứ nhất là luyện viết chữ hoa và câu ứng
dụng, bài thứ hai là luyện viết một đoạn văn hoặc đoạn thơ).
Nhằm duy trì và phát huy cơng tác rèn luyện chữ viết trong giáo viên
và học sinh, chúng tôi đã quy định cho giáo viên chấm chữa bài theo đúng
quy định của nhà trường. Với các bài học của học sinh, giáo viên phải chấm
bài tối thiểu là 50% số bài. Riêng các giờ tập viết, chính tả, luyện viết giáo
viên phải chấm tối thiểu 70% số bài đã viết. Trong khi chấm giáo viên cần
chú ý nhận xét về chữ viết của các em đã đúng mẫu chưa? khoảng cách giữa
các chữ có đúng quy định khơng? … các lỗi sai của học sinh giáo viên phải
gạch bằng mực đỏ.
Hàng tháng, nhà trường đều tổ chức chấm vở sạch, chữ đẹp (mỗi tháng
chấm một loại vở) và chấm vở luyện viết của giáo viên và học sinh. Trong khi
chấm chúng tôi đi sâu kiểm tra việc chấm chữa bài của giáo viên thực hiện có
đúng quy định khơng, có thường xun khơng, đã đánh giá chính xác và
khách quan chưa, kết quả chữ viết của học sinh có tiến bộ khơng,…Ngồi ra

chúng tơi cịn tổ chức kiểm tra đột xuất nhằm kiểm tra việc thực hiện công tác
chuyên môn của giáo viên.
Sau khi kiểm tra, chúng tơi góp ý cụ thể cho từng đồng chí giáo viên để
mỗi giáo viên đề rút được kinh nghiệm và chấn chỉnh kịp thời.
Kết quả kiểm tra vở sạch, chữ đẹp hàng tháng là một trong các tiêu chí
xếp loại thi đua của tháng đó cho lớp và cho cả giáo viên.
Giải pháp thứ bảy: Phát động và duy trì phong trào thi đua “Giữ vở sạch
– Viết chữ đẹp”
Trong ba năm học 2017-2018 đến 2019-2020 nhà trường luôn phát
động phong trào “ Viết chữ đẹp, giữ vở sạch” trong toàn thể cán bộ, giáo viên
và học sinh. Thường xuyên tổ chức chấm vở sạch chữ đẹp cho học sinh. Tổ
chức Hội thi Viết chữ đẹp trong nhà trường. Gắn kết quả rèn chữ viết với
công tác thi đua. Tổ chức Hội thảo, trao đổi kinh nghiệm về việc rèn viết chữ
đẹp cho học sinh.
Kinh nghiệm cho thấy, nếu chỉ dạy chữ qua các giờ học chính khố thì
mới dừng lại ở mức độ rèn học sinh viết đúng. Muốn học sinh có chữ đẹp,
giáo viên cần phải sử dụng thời gian ngoài giờ lên lớp để tổ chức cho học
sinh tự rèn luyện chữ viết của mình. Đồng thời phải xây dựng được phong
trào thi đua Viết chữ đẹp trong tồn trường. Chính vì vậy, ngay đầu năm học
nhà trường đã phối kết hợp với Liên đội tổ chức phát động phong trào thi đua
“Giữ vở sạch – Viết chữ đẹp” trong toàn trường. Phong trào được duy trì
trong suốt năm học. Tổ chức kiểm tra theo đợt kiểm tra định kì và đột xuất.
Hàng tháng thông qua các buổi chào cờ, sinh hoạt tập thể, hội họp,…
nhà trường, Đồn - Đội ln có những nhận xét đánh giá cụ thể về phong trào
luyện viết chữ đẹp trong giáo viên và học sinh. Đồng thời tuyên dương những
cá nhân xuất sắc.
Những bài học sinh, giáo viên viết đẹp được lưu lại trưng bày trong
phòng truyền thống nhà trường và photo gửi về các lớp để các em có điều
kiện tham khảo, học tập chữ viết của bạn.


skkn


18
Giải pháp thứ tám: Phối kết hợp đồng bộ giữa “Nhà trường, gia đình
và xã hội” để rèn luyện và nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh.
Nhà trường đã và đang làm tốt cơng tác xã hội hố giáo dục. Phối kết
hợp đồng bộ giữa ba môi trường giáo dục “Nhà trường, gia đình và xã hội” để
chất lượng chữ viết trong nhà trường đạt hiệu quả cao hơn.
Rèn luyện chữ viết cho học sinh toàn trường là việc làm cần có sự phối
hợp của nhiều lực lượng giáo dục. Trước hết phải phối kết hợp tốt ba lực
lượng giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội để giúp đỡ, tạo điều kiện cho
học sinh được rèn luyện, uốn nắn ở mọi lúc mọi nơi: ở trường, ở nhà. Có như
vậy mới nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh được. Thông qua phụ
huynh học sinh, giáo viên nắm rõ về việc học tập và rèn luyện chữ viết của
các em ở nhà. Từ đó giáo viên nhắc nhở đôn đốc học sinh học tập. Thông qua
cơ giáo giúp phụ huynh biết được tình hình học tập của các em ở lớp nhằm
khắc phục những hạn chế, phát huy những khả năng giúp các em rèn luyện ý
thức trong học tập và rèn luyện đạt hiệu quả tốt hơn.
Nhà trường có chủ trương tạo điều kiện cho giáo viên trao đổi tình hình
học tập của các em thơng qua nhiều hình thức như: họp phụ huynh học sinh
vào đầu năm học, giữa năm học, cuối năm học; liên lạc qua sổ liên lạc; ngồi
ra cịn liên lạc qua số điện thoại gia đình nhằm giúp giáo viên và phụ huynh
học sinh nắm bắt tình học học tập của các học sinh vững hơn, đồng thời tạo
điều kiện, giúp đỡ cho các em học tập tốt hơn.
Hàng tháng, thành viên trong Ban chỉ đạo Viết chữ đẹp của trường sẽ
đi kiểm tra đột xuất việc học ở nhà, góc học tập của học sinh trong đó chú
trọng việc luyện viết chữ của học sinh. Từ đó động viên, khen thưởng hoặc
nhắc nhở kịp thời và tư vấn cho phụ phuynh học sinh cách sắp xếp góc học
tập và hướng dẫn học sinh ôn bài ở nhà. Từ đó phụ huynh thấy được sự cần

thiết về chất lượng chữ viết của học sinh và chú trọng đến việc rèn luyện chữ
viết cho con em mình.
Nhà trường tham mưu với Hội khuyến học, Hội phụ huynh học sinh để
động viên, khen thưởng kịp thời cho những cá nhân học sinh, giáo viên có
thành tích trong cơng tác luyện viết chữ đẹp. Việc động viên, khen thưởng kịp
thời của Hội khuyến học và nhà trường đã khích lệ rất lớn giáo viên, học sinh
trong công tác luyện viết chữ đẹp cũng như công tác dạy và học.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua việc áp dụng các biện pháp nâng cao chất lượng chữ viết mà tơi
vừa trình bày ở trên, chất lượng chữ viết của học sinh trường tôi trong những
năm qua được nâng lên rõ rệt. Không những thế chúng tơi đã tạo được khơng
khí thi đua giữ vở sạch – viết chữ đẹp rất sôi nổi trong trường. Số lượng học
sinh được xếp vở loại A tăng lên rõ rệt, số lượng vở loại C đã được giảm
nhiều. Trường hợp học sinh bị xếp vở loại D khơng cịn.

skkn


19
Kết quả như sau: (Kết quả thi VCĐ cấp trường tháng 3 năm 2021)
Năm học: 2020 - 2021
Tháng 9/2020
Tháng 3/2021
Tổng số học sinh
200
200
SL
35
88
Loại A

TL
17,5%
44,0%
SL
37
50
Loại B
TL
18,%
25,0%
Kết quả xếp loại
chữ viết
SL
103
55
Loại C
TL
51,5%
27.5%
SL
25
7
Loại D
TL
12,5%
3,5%
Một số hình ảnh về chữ viết của giáo viên và học sinh.

Bài viết bảng của giáo viên chủ nhiệm lớp 3A


Bài luyện viết chữ đẹp của giáo viên

skkn



×