Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

LUẬN VĂN: Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.9 KB, 31 trang )










LUẬN VĂN:

Vai trò kinh tế của nhà nước
trong nền KTTT định hướng XHCN ở
nước ta hiện nay











Đặt vấn đề

Cách đây khoảng 20 năm (trước cải cách kinh tế) người ta còn khá mơ hồ về
kinh tế thị trường (KTTT) và khái niệm này dường như không được nói đến nhiều và bị
tẩy chay trong xã hội. Những năm gần, từ sau cải cách kinh tế 1986, đây nhờ chính sách
của Đảng và nhà nước nhằm truyền bá sâu rộng đường lối phát triển KTTT định hướng


XHCN, nên nó không còn là vấn đề quá cao sang và ngày nay việc sinh viên nghiên cứu
về vấn đề này đã trở thành phổ biến và cần thiết để tạo nền tảng về tư tưởng chính trị
cho thế hệ sau này.
KTTT là sản phẩm, thành tựu chung của nền văn minh nhân loại chứ không của
một chế độ xã hội nào. Ngay từ khi ra đời nó đã thể hiện ưu điểm của mình, nhưng cái
gì cũng có mặt tốt và sấu của nó, KTTT cũng có những khuyết tật. Trước kia các nước
đi theo con đường CNXH cho rằng KTTT là nền kinh tế của CNTB. Từ đại hội Đảng
VI Đảng ta đã khẳng định :”Nhà nước chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đó chính là nền KTTT định hướng
XHCN” nhằm tận dụng ưu thế của cơ chế kinh tế này và khắc phục nhưng nhược điểm
của nó, sử dụng nó như một công cụ kinh tế để tiến lên CNXH. Phương hướng này tiếp
tục được triển khai đến các đại hội sau này.
Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện
nay là vô cùng quan trọng. Làm thế nào để hiểu và giúp đỡ nhà nước trong quản lý kinh
tế không phải là vấn đề của riêng các cơ quan hay các cấp chính quyền nào.Bài viết này
không có tham vọng trìng bầy toàn bộ những vấn đề liên quan và hoàn toàn đầy đủ về
vai trò kinh tế của nhà nước trong nền KTTT, nhưng em hy vọng rằng nó nói nên hiểu
biết của mình về vai trò kinh tế của nhà nước và từ đó có những bài học cho bản thân.
Rất mong có sự góp ý của thầy để hoàn thiện bài viết cũng như tăng tầm hiểu biết về
vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
hiện nay.






Phần 4 : Giải pháp nâng cao vai trò kinh tế của nhà nước đối với nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN.

1) Thực trạng vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế của nhà nước ở nước ta 20
2) Giải pháp đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước 22
Kết luận 24
Tài liệu tham khảo 25
Nội dung cơ bản.
Phần 1: Tính tất yếu khách quan,vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền
kinh tế.
1) Tính tất yếu chuyển sang KTTT.
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã tích góp những xu hướng tiêu cực, làm nảy sinh
sự trì trệ, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế _ xã hội. Cơ chế này chỉ hợp
với nền kinh tế còn thấp kém sau chiến tranh, càng ngày nó càng thể hiện sự không phù
hợp với sự phát triển kinh tế của đất nước. Như chúng ta đã biết tính tự cung tự cấp của
nền kinh tế ở nước ta nếu không có một cơ chế thay đổi thì không thể có dư thừa sản
phẩm để trao đổi và phát triển. Mặt khác nền kinh tế kế hoạch hoá mà chúng ta đang áp
dụng thực tế đưa nước ta vào tình trạng nghiêm trọng, cung không đủ cầu thậm chí
chúng ta phải nhập khẩu lương thực (thứ hàng hoá thế mạnh của một nước nông nghiệp)
từ nước ngoài.Lúc này nền kinh tế của các nước XHCN vận hành theo cơ chế cũ liên
tiếp tan vỡ. Các nước này phải chuyển sang cơ chế thị trường. Trên thực tế các nhân tố
thị trường đã có ở nước ta tuy nhiên còn nhiều ý kiến khác nhau về sự tồn tại của nó.
KTTT hình thành do phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu khác
nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Đối chiếu hai điều kiện đó ở nước ta
hiện nay ta thấy :
Thứ nhất : Sự phân công lao động xã hội không những không mất đi mà còn tồn
tại và phát triển ở nước ta cả về chiều rộng và chiều sâu. ở nước ta ngày càng có nhiều
ngành nghề mới ra đời và phát triển, thêm vào đó trong nội bộ từng ngành và địa
phương phân công lao động ngày càng rõ rệt và chi tiết hơn.Cuối thập kỷ 70 đầu thập
kỷ 80 một loạt các hình thức phân công lao động ra đời như xí nghiệp đánh cá Vũng




Tàu Côn Đảo thực hiện khoán cho từng con tàu đánh cá. Trong nông nghiệp nhiều địa
phương thực hiện khoán đến từng hộ gia đình. Năm 1981 theo chỉ thị 100 của ban bí thư
thực hiện khoán sản phẩm cho hộ gia đình được khuyến khích mở rộng phổ biến. Việc
mua bán nông sản và vật tư nông nghiệp được nới lỏng theo xu hướng tự do trên thị
trường là cơ sở cho trao đổi vẫn còn tồn tại và tạo diều kiện tự do cạnh tranh, tự do
kinh doanh. Sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động đã vượt khỏi phạm vi quốc gia
và trỏ thành phân công lao động trên phạm vi quốc tế.
Thứ hai : Toàn bộ nền kinh tế quốc dân xét về mặt cơ cấu vẫn tồn tại nhiều thành
phần kinh tế khác nhau trong đó có thành phần kinh tế tư hữu dẫn đến còn nhiều chủ sở
hữu khác nhau và giữa họ có tính độc lập tương đối về kinh tế.Hơn nữa trình độ xã hội
hoá giữa các ngành và các đơn vị sản xuất trong cùng một thành phần kinh tế không đều
nhau. Do vậy việc hoạch toán kinh doanh và phân phối, trao đổi sản phẩm lao động tất
yếu phải thông qua hình thái hàng hoá - tiền tệ. Khi nghị quyết 10 của bộ chính trị ra đời
thì kinh tế hộ gia đình được coi là đơn vị kinh tế tự chủ bên cạnh thành phần kinh tế
quốc doanh và hợp tác xã.Bên cạnh đó hàng loạt các biến đổi về kinh tế xã hội to lớn
trong nông thôn làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta theo chiều hướng mới. Trong
đó các chủ sở hữu muốn sử dụng sản phẩm của nhau không thể tiến hành trực tiếp mà
gián tiếp thông qua trao đổi dưới hình thái hàng hoá. Vì thế kinh tế hàng hoá hay KTTT
tồn tại ở nước ta là một tất yếu khách quan.
8 Năm 1986 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự đổi mới nền kinh tế của
nước ta. Từ đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định “ Tiếp tục xoá bỏ cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước”. Ta thấy chủ chương chuyển sang KTTT là hợp với
quy luật khách quan và xu thế của thời đại.
2) Ưu thế và khuyết tật của KTTT.
*KTTT : Là cách tổ chức nền kinh tế xã hội của các cá nhân, các doanh nghiệp đều
biểu hiện qua mua bán hàng hoá dịch vụ trên thị trường và thái độ cư xử của từng thành
viên chủ thể kinh tế là hướng vào việc tìm kiếm lợi ích của chính mình theo sự dẫn dắt
của giá cả thị trưòng.( Tìm hiểu về KTTT_nhà xuất bản chính trị Quốc gia ).KTTT là
kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao khi tất cả các quan hệ kinh tế trong quá trình




tái sản xuất đều được tiền tệ hoá.(Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế _ xã hội
mà trong đó hình thái phổ biến của sản xuất là sản xuất ra sản phẩm để bán, để trao đổi
trên thị trường. Giáo trình Kinh tế chính trị )
*Ưu thế.
Kinh tế hàng hoá có những ưu thế như :
_ Thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất nhanh chóng, làm cho sự phân công lao
động, chuyên môn hoá sản xuất ngày càng sâu ssắc, hình thành các mối quan hệ kinh tế
và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doang nghiệp và người sản xuất. tạo tiền đề cho hợp
tác lao động ngày càng chặt chẽ.
_ Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
_ Thúc đẩy quá trình tích tụ tập chung sản xuất. Mở rộng giao lưu kinh tế trong
nước và hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
_ Giải phóng các mối quan hệ kinh tế ra khỏi sự ràng buộc của nền sản xuất khép
kín đã từng chói buộc và kìm hãm sự phát triển.
Kinh tế hàng hoá đã góp phần tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội và nâng cao
mức sống của nhân dân. Nó đảm bảo cho nền kinh tế có năng suất, chất lượng và hiệu
quả cao, dịch vụ được mở rộng, khoa học kỹ thuật được cải tiến.
*Khuyết tật.
Tuy nhiên nền kinh tế thị trường có những khuyết tật của nó như : Chỉ chú ý đến
các nhu cầu cơ bản có khả năng thanh toán, không chú ý các nhu cầu cơ bản khác của
xa hội do đó phúc lợi xã hội không phát triển. Đặt lợi nhuận lên hàng đầu và làm đủ mọi
cách để đạt được lợi nhuận nên làm tha hoá đạo đức kinh doanh. Tạo ra tình trạng thất
nghiệp, phân hoá giầu nghèo Kinh tế thị trường cùng với sự mở của của nó còn tạo đà
du nhập những luồng gió độc vào nền kinh tế _ xã hôị trong nước. Sự phát triển của sản
xuất còn kéo theo sự khan hiếm tài nguyên do khai thác không khoa học, sự ô nhiễm
nguồn nước, không khí và môi trường. Do tính tự phát vốn có của KTTT nên khó kiểm
soát khủng hoảng kinh tế, hoạt động đầu cơ trên thị trường. Ngoài ra khủng hoảng theo

chu kỳ cũng là một khuyết tật vốn có của nó.
3) Tính tất yếu khách quan có sự quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh
tế.



Ngày nay bất cứ nền kinh tế của quốc gia nào cũng đều chịu sự quản lý, chi phối,
điều tiết của nhà nước. Không có nhà nước nào đứng ngoài hoạt động kinh tế của đất
nước dù rằng mức độ quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế khác nhau là khác nhau. Tính tất
yếu khách quan có sự quản lý vĩ mô của nhà nước thể hiện :
3.1 Quản lý vĩ mô nền kinh tế là đòi hỏi khách quan của sự phát triển LLSX và
phân công lao động xã hội.
LLSX phát triển đến quy mô ngày càng rộng lớn, cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng
cao đòi hỏi một sự điều khiển, định hướng của một chủ thể kinh tế năng động, kịp thời
với sự thay đổi đó, đó là nhà nước. Mặt khác quá trình phát triển sản xuất luôn gắn với
chuyên môn hoá, tập trung hoá sản xuất dẫn đến phải tăng cường vai trò quản lý vĩ mô
nền kinh tế của nhà nước để dưa guồng máy sản xuất đi đúng quỹ đạo của mình.
Trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta mặc dù LLSX và
phân công lao động xã hội phát triển chưa cao nhưng nhu cầu và điều kiện kinh tế _ xã
hội (theo định hướng XHCN) trong điều kiện trong nước và quốc tế khó khăn, phức tạp
đòi hỏi thường xuyên đổi mới và hoàn thiện không ngừng vai trò quản lý vĩ mô của nhà
nước. Mục tiêu đặt ra là chuyển nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển sang nền xản suất
lớn. Mặt khác hiệu quả của quản lý vĩ mô là thúc đẩy LLSX và phân công lao động phát
triển. Do đó đổi mới và hoàn thiện quản lý vĩ mô của nhà nước là đòi hỏi khách quan để
phát triển kinh tế và dây dựng XHCN.
3.2 Quản lý vĩ mô nền kinh tế để đảm bảo phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng XHCN, khắc phục có hiệu quả những hạn chế, khuyết tật
của KTTT.
Kinh tế hàng hoá tất yếu được vận hành theo cơ chế thị trường với những quy luật
kinh tế khách quan vốn có của nó. Trong nền kinh tế hàng hoá, mọi chủ thể sản xuất

kinh doanh đều phải hướng vào thị trường, chịu sự điều khiển, chi phối của thị trường
và giá cả thị trường. Quan hệ giữa người sản xuất và người tiêu dùng là mối quan hệ
hữu cơ, tác động qua lại phong phú đa dạng và phức tạp. Bên cạnh những mặt tích cực,
cơ chế thị trường cũng có những hạn chế khuyết tật mà tự nó không thể khắc phục như
đã nói ở phần trên. KTTT với tính tự phát của nó không thể đáp ứng được các mục tiêu
xã hội. Vì vậy cần phải có sự quản lý vĩ mô nền kinh tế để triển khai những mặt tích cực



và hạn chế các khuyết tật của nó. Sự can thiệp của nhà nước ở các cấp độ khác nhau và
các công cụ, biện pháp khác nhau nhằm hướng hoạt động sản xuất kinh doanh đi theo sự
định hướng của nhà nước, ở đây là định hướng XHCN.Nhờ có sự tác động đó, nhà nước
có thể hướng các doanh nghiệp vì lợi ích của mình mà đi theo định hướng của nhà nước.
Vì vậy sự can thiệp của nhà nước vào quản lý vĩ mô nền kinh tế là tất yếu.
Thống nhất hiệu quả kinh tế _ xã hội trong sự phát triển của đất nước là một nhiệm
vụ chủ yếu, nặng nề và hết sức khó khăn của quản lý nhà nước. Chíng vì vậy, muốn đạt
hiệu quả kinh tế xã hội đáp ứng sự phát triển của đất nước, nhất thiết phải không ngừng
đổi mới, hoàn thiện quản lý vĩ mô nền kinh tế của nhà nước.
3.3 Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, sự điều tiết quản lý vĩ mô là nhân tố đảm bảo
cho nền kinh tế phát triển có hiệu quả và theo định hướng XHCN.
Trong cơ chế quản lý hai nhân tố khách quan trực tiếp bảo đảm tính định hướng
XHCN của nền kinh tế là : Vai trò chủ đạo của khu vực quốc doanh và vai trò quản lý vĩ
mô của nhà nước. Tính định hướng XHCN xét dưới góc độ kinh tế chính là : phát huy
mọi nguồn lực, tiềm năng, đẩy nhanh sự phát triển của LLSX, khoa học kỹ thuật và
công nghệ trên cơ sở đó xây dựng củng cố và hoàn thiện QHSX XHCN nhằm mục đích
cuối cùng là đem lại hạnh phúc, ấm no, tự do và dân chủ thực sự cho mọi thành viên
trong xã hội. Để làm được điều đó, không thể thiếu vai trò quản lý, điều tiết vĩ mô về
kinh tế của nhà nước.
Tăng cường vai trò quản lý kinh tế của nhà nước lại càng đặc biệt quan trọng
trong bối cảnh chung của nền kinh tế thế giới ngày nay và cuộc đấu tranh giai cấp và

dân tộc gay go, quyết liệt, phức tạp đang diễn ra ở nước ta trên mọi mặt của đời sống xã
hội, kể cả trên lĩnh vực sản xuất và lưu thông.
Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ của rnhững tìm tòi thử nghiệm. Những sai sót,
yếu kém bên cạnh những thắng lợi, thành công là điều không thể tránh khỏi.Do vậy cần
tăng cường và đổi mới vai trò quản lý vĩ mô, kịp thời khắc phục những sai lầm, thiếu
sót, điều chỉnh bổ sung phát triển những chủ trương chính sách, biện pháp cần thiết để
những tìm tòi, thử nghiệm ấy đem lại hiệu quả cao và thành công vững chắc bảo đảm
xây dựng kinh tế, xây dựng đất nước theo đúng cương lĩnh, chiến lược của Đảng.



Những thành công đó lại tạo kinh nghiệm, cơ sở để củng cố, hoàn thiện và nâng cao vai
trò quản lý vĩ mô của nhà nước.
4) Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Vai trò kinh tế đó là : tổ chức và quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở tầm kinh
tế vĩ mô lẫn kinh tế vi mô, trong đó quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước là chủ yếu.
Sở dĩ nhà nước có vai trò kinh tế nói trên vì :
_ Nhà nước với tư cách là người đại diện cho toàn xã hội, có nhiệm vụ quản lý đất
nước về hành chính và kinh tế.
_ Nhà nước là người đại diện cho sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất
( TLSX ), có nhiệm vụ quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước.
_ Trong nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường bên cạnh mặt tích
cực chủ yếu của nó, không chánh khỏi những khuyết tật vốn có do đó vai trò quản lý
kinh tế của nhà nước góp phần giải quyết, khắc phục những khuyết tật đó và phát huy
những ưu thế của KTTT là tất yếu.
Vai trò của nhà nước trong nền KTTT được thể hiện qua các chức năng kinh tế
của nó như :
*Đảm bảo sự ổn định chính trị, xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp để tạo ra
những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế. Về nhiều mặt, chức năng này vượt ra
ngoài lĩnh vực kinh tế đơn thuần. Nhà nước tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động kinh

tế bằng cách đặt ra những quy định chi tiết cho sự hoạt động của thị trường, đặt ra
những quy định chi tiết cho sự hoạt động của doanh nghiệp trong khuôn khổ pháp luật
mà nhà nước cần thiết lập có tác dụng sâu sắc đến hành vi kinh tế của con người và cả
bản thân chính phủ phải noi theo.
ở Việt Nam Nhà nước ta luôn chú trọng tạo ra điều kiện chính trị thuận lợi cho hoạt
động kinh tế. Vai trò này được thể hiện qua các chính sách về sở hữu và sử dụng đất đai
được áp dụng mềm dẻo rồi nhà nước dần từ bỏ việc quản lý hành chính sang quản lý
dựa trên pháp luật như : Năm 1988 đưa ra luật đầu tư nước ngoài. Năm 1989 cải các
thuế. Năm 1991 Luật doanh nghiệp thương mại. Năm 1992 Luật đất đai. Năm 1993 thuế
VAT Nhưng thực trạng còn tồn tại ở Việt Nam là hành lang pháp luật này còn quá



nhiều khe hở, không thực sự an toàn và phát huy hết tác dụng cũng như vai trò của nhà
nước.
*Điều tiết kinh tế đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, Nhà nước cố gắng
làm dịu những giao động lên xuống của chu kỳ kinh doanh bằng chính sách tài chính _
tiền tệ làm ổn định nền kinh tế.
ở Việt Nam hệ thống giá cả đã được tự do hoá và do cơ chế cung _ cầu quyết
định.Những sự đổi mới trong chính sách tài chính tiền tệ với những công cụ như lãi
suất, tỷ giá hối đoái, thuế đã cải thiện đáng kể ngân sách nhà nước (NSNN), những cơn
sốt lạm phạt giảm dần. Từ năm 1987 ta bắt đầu thả nổi một phần giá cả, đến năm 1988
phần lớn giá cả được thả nổi và đến năm 1989 chương trình cải cách được thực hiện
bằng cách phối hợp chính sách tự do hoá thương mại, phá giá đồng tiền, nâng lãi suất
và thay đôi tỷ giá hối đoái làm tỷ lệ lạm phát giảm xuống 2 con số.
Tuy nhiên những chính sách này còn cứng nhắc (như thay đổi trong tỷ lệ lãi
suất,trong 12 năm từ 1976 đến 1988 mà lãi suất chỉ thay đổi có 5 lần ) đôi khi còn chậm
thay đổi trước những tác động của thị trường. Nhà nước không kiểm soát hết tình hình
tiền tệ trôi nổi trên thị trường. Còn nhiều khái niệm của KTTT chưa được áp dụng do
khong có đủ cơ sở hạ tầng về pháp luật

* Đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tính kém hiệu quả trong hoạt động thị
trường là những tác động mà các nhà kinh tế học gọi là tác động bên ngoài. Các doanh
nghiệp vì lợi ích tối đa của mình có thể lạm dụng tài nguyên, xã hôi, gây ô nhiễm môi
trường mà xã hội phải gánh chịu. Chính phủ có thể buộc các doanh nghiệp đó phải trả
tiền cho những thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra. Sự can thiệp đó nhằm ngăn chặn
những tác động bên ngoài nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội.
Một nguyên nhân khác nữa dẫn đến tính kém hiệu quả của hoạt động thị trường là
sự xuất hiện độc quyền. Một nền kinh tế được thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ đạt
hiệu quả cao nhưng cạnh tranh hạn chế khả năng đạt lợi nhuận độc quyền nên các doanh
nghiệp có xu hướng giảm cạnh tranh. Do đó nhà nước có nhiệm vụ bảo vệ cạnh tranh
chống lại độc quyền, nâng cao hiệu quả của thị trường.



ở Việt Nam nhà nước ta đã nâng cao tính cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị
trường như các hình thức bao cấp thông qua trợ giá, lãi xuất tín dụng ưu đãi, bao cấp
tiền lương dần dần bị xoá bỏ,đưa các xí nghiệp quốc doanh sang chế độ tự hoạch toán
và nâng cao dần sức cạnh tranh trên thị trường. Các công ty độc quyền trước đây như
bưu điện, xăng dầu, máy móc , do sự sâm nhập của một số công ty nước ngoài hay
trong nước mà cũng nâng cao dần sức cạnh tranh trên thị trường.Tuy nhiên nước ta còn
chịu ảnh hưởng của các nhân tố bên ngoài và độc quyền trong các ngành then chốt vẫn
còn tồn tại. Nhà nước tuy đã có những chính sách hạn chế độc quyền và ảnh hưởng bên
ngoài nhưng chưa phát huy hết tác dụng.
* Đồng thời để đảm bảo tính hiệu quả thì nhà nước phải xản suất ra hàng hoá
công cộng đảm bảo xây dựng kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế, thực hiện công bằng xã
hội. Sự hoạt động của cơ chế thị trường có thể làm cho nền kinh tế đạt hiệu qủa cao,
nhưng cơ chế thị trường phi nhân tính, nó không tính đến các khía cạnh nhân đạo vào xã
hội, không mang lại những kết quả mà xã hội cố gắng vươn tới. Việc phân phối sản xuất
và sử dụng tối ưu các nguồn lực không tự động mang lại sự phân phối thu nhập tối ưu.

Sự can thiệp của nhà nước nhằm phân phối thu nhập công bằng, bảo vệ các thành
viên của xã hội chống lại những khó khăn về kinh tế, nâng cao mức sống của các nhóm
dân cư thông qua chính sách phân phối, bảo hiểm xã hội và phúc lợi xã hội.
Nước ta đã áp dụng chế độ phân phối theo lao động kết hợp với phúc lợi xã hội và
chính sách này cũng đã có tác dụng thiết lập sự công bằng trong phân phối mà không
làm giảm các công trình phúc lợi xã hội.
Phần 2: Đặc trưng cơ bản của KTTT định hướng XHCN ở nước ta.
Nét tổng quát về KTTT định hướng XHCN mà nước ta đang xây dựng là: Thể chế
kinh tế mà trong đó thị trường và các quan hệ thị trường ngày càng đóng vai trò quyết
định đối với sản xuất kinh doanh và phân phối tài nguyên quốc gia dưới sự quản lý vĩ
mô của nhà nước, nền kinh tế nhiều thành phần thông qua cạnh tranh, liên kết, hợp tác
có trình độ xã hội hoá cao, thúc đẩy sự hài hoà giữa sản xuất và nhu cầu. Nền kinh tế
vận hành theo các quy luật kinh tế khách quan và các chính sách kinh tế phù hợp đảm
bảo thị trường thống nhất, mở rộng, phù hợp các mục tiêu tăng trưởng, hiệu quả cân
bằng và ổn định. Nhà nước dùng luật pháp, và chính sách kinh tế dẫn dắt thị trường phát



triển lành mạnh, dùng chính sách phân phối và điều tiết để đảm bảo phúc lợi cho toàn
dân và công bằng xã hội.( Cơ chế thị trường và sự đổi mới kinh tế ở nước ta)
Các đặc trưng cơ bản mà KTTT định hướng XHCN nước ta đang hướng tới là.
1) Nền kinh tế thị trường mà chúng ta đang xây dựng đi từ một nền kinh tế
hàng hoá mang nặng tính tụ cấp tự túc từng bước đi lên KTTT dựa trên lực lượng
sản xuất phát triển cao hay tương đối hiện đại nhằm mục tiêu dân giầu nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh và CNXH.
Sau khi hoà bình lập lại nhà nước ta chủ trương xây dựng CNXH bỏ qua CNTB
nên nước ta có một xuất phát điểm rất thấp đó là sự thiếu thốn về cơ sở vật chất kỹ thuật
của một nền kinh tế phát triển cao. Công nghệ mà chúng ta có được là do chính quyền
cũ để lại do đó nó lạc hậu và hỏng hóc nhiều. Ngoài ra kiểu quản lý nền kinh tế chỉ huy
đã làm xơ cứng các mối quan hệ kinh tế như :

_ Các phạm trù của kinh tế hàng hoá như giá trị, giá cả, lợi tức, lợi nhuận vốn
mềm dẻo bị hình thức hoá đến cao độ, không còn nội dung kinh tế hàng hoá nữa.
_ Quy luật phát triển kinh tế có kế hoạch và cân đối biến thành nền kinh tế thực tế là
kinh tế chỉ huy.
_ Các quy luật kinh tế hàng hoá bị thu hẹp phạm vi hoạt động, xem như không hợp
pháp hoặc có thừa nhận thì cũng có vai trò hết sức yếu trong nền kinh tế.
_ Các doanh nghiệp hoạt động không vì mục đích lợi nhuận mà tuân thủ một cách
nghiêm ngặt hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh được phát ra từ một trung tâm.
Những quan điểm ấu trĩ trên là vi phạm quy luật khách quan, quy luật quan hệ sản
xuất ( QHSX) phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX.Do đó nhu cầu cấp
bách cần đổi mới để phù hợp với nhu cầu khách quan của thời đại là chuyển sang
KTTT.
Nền kinh tế từ chỗ mang nặng tính tự cấp tự túc chuyển sang KTTT đã tạo môi
trường và điều kiện thuận lợi phát triển nền kinh tế hàng hoá, hình thành các loại thị
trường như : Thị trường lao động, thị trường các yếu tố sản xuất, thị trường vốn ngày
càng hoàn chỉnh. Các phạm trù quy luật kinh tế được áp dụng như : quy luật giá trị, quy
luật cung cầu, quy luât cạnh tranh làm cho nền kinh tế vận động một cách linh hoạt
hơn. Hình thành nhiều hình thức tổ chức kinh tế, mọi công dân được tự do kinh doanh



theo pháp luật Do áp dụng những tiến bộ về khoa học kỹ thật làm cho tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất phát triển. Sự điều tiết của nhà nước ở tầm vĩ mô được
xác định nhằm mục đích phát triển LLSX, dân chủ hoá đời sống kinh tế, mở rộng phân
công lao động xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH.
2) KTTT lấy nền kinh tế nhiều thành phần làm cơ sở kinh tế trong đó lấy kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Ngay từ Đại hội VI chúng ta đã chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần,
đa sở hữu, các doanh nghiệp không phân biệt quanh hệ sở hữu đều tự chủ trong kinh
doanh và cạnh tranh bình đẳng.Cơ sở khách quan tồn tại nhiều thành phần kinh tế là do

còn nhiều hình thức sở hữu khác nhau về TLSX. Cho đến nay các thành phần kinh tế từ
đại hội VI cơ bản vẫn còn tồn tại tuy nhiên có sự thay đôỉ trong cách nhìn nhận và có
thêm vào một số thành phần cho phù hợp và đến đại hội IX Đảng ta khẳng định các
thành phần kinh tế tồn tại khách quan tương ứng với tính chất trình độ phát triển của
LLSX trong giai đoạn lịch sử hiện nay là : Kinh tế nhà nước (KTNN), Kinh tế tập thể,
Kinh tế cá thể tiểu chủ, Kinh tế tư bản tư nhân,Kinh tế tư bản nhà nước, Kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài.( Văn kiện đại hội Đảng IX )
2.1 Kinh tế nhà nước.
Là thành phần kinh tế dựa trên cơ sở sở hữu nhà nước về TLSX. Quyền sử dụng
TLSX để sản xuất kinh doanh được giao cho tập thể người trong từng đơn vị để sản xuất
kinh doanh nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu vật chất của xã hội.
Là thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo, là công cụ để nhà nước định hướng và
điều tiết vĩ mô nền kinh tế. KTNN trước hết bao gồm các doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp cổ phần, tài sản thuộc sở hữu của nhà nước. Theo chủ trương của Đảng ta
KTTT tập trung vào những ngành lĩnh vực như cơ sở hạ tầng xã hội, thương mại, dịch
vụ quan trọng để đảm bảo những cân đối lớn, chủ yếu của nền kinh tế và thực hiện vai
trò chủ đạo trong nền KTTT.Vai trò đó thể hiện ở chỗ nó mở đường hỗ chợ cho các
thành phần kinh tế khác phát triển. Được nhà nước bảo trợ nên có lượng vốn nhiều,
trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến, nắm giữ trong những ngành then chốt trong nền
kinh tế, nên nó là cơ sở quan trọng, có khả năng chi phối nền kinh tế, là công cụ có sức
mạnh để nhà nước điều tiết và hướng dẫn nền KTTT theo định hướng XHCN.



Tuy nhiên KTNN do ỉ lại vào sự bảo hộ của nhà nước mà mất tính cạnh tranh, tự
chủ trong sản xuất kinh daonh. Do đó nhà nước phải chăm lo giúp đỡ cho các doanh
nghiệp nhà nước phát triển có hiệu quả nhưng cũng nên giảm bớt những doanh nghiệp
làm ăn thua lỗ, củng cố và mở rộng những doanh nghiệp cần thiết.
2.2 Kinh tế tập thể.
Là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất. ở nước ta kinh tế

tập thể là thành phần kinh tế được tổ chức dựa trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, cùng
có lợi, phân phối theo lao động. Kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở
thành nền tảng của nền kinh tế và vai trò định hướng XHCN trong cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần của nước ta.Kinh tế tập thể phát triển dưới nhiều hình thức, trong đó hợp tác
xã là nòng cốt. Hiện nay ở nước ta hợp tác xã phát triển rất đa dạng và phong phú. Vì
vai trò không nhỏ đó mà nhà nước phải quan tâm, tạo điều kiện cho thành phần kinh tế
này phát triển.
2.3 Kinh tế cá thể tiểu chủ.
Là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và sức lao động
của bản thân hoặc của gia đình.ở nước ta thành phần kinh tế này có vị trí quan trọng
trong nhiều ngành nghề ở cả thành thị và nông thôn góp phần tích cực trong việc huy
động vốn giải quyết việc làm, phát triển ngành nghề truyền thống, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng CNH_HĐH.Tuy nhiên trình độ công nghệ của thành phần kinh tế
này còn kém, sản xuất phân tán, manh múm, mục đích sản xuất chỉ để nuôi sống mình.
Do đó nhà nước tạo điều kiện giúp đỡ về vốn, kỹ thuật, công nghệ, tài chính, tiêu thụ
để khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện làm vệ tinh cho các doanh
nghiệp hoặc phát triển lớn hơn.
2.4 Kinh tế tư bản tư nhân.
Là thành phần kinh tế dựa trên sở hưu tư nhân tư bản chủ nghĩa về TLSX và bóc lột
lao động làm thuê. Là đơn vị kinh tế tự quản, tự bỏ vốn ra để sản xuất kinh doanh và tự
chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh tế trên cơ sở tuân theo pháp luật của nhà nước.
Từ năm 1991 sau khi có luật doanh nghiệp tư nhân ở nước ta thành phần kinh tế này
phát triển mạnh và đóng góp nhất định vào phát triển kinh tế _ xã hội. Các hình thức
chủ yếu của nó như : Doanh nghiệp tư nhân, cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, cty



cổ phần Do đó kinh tế tư bản tư nhân được thừa nhận là có vai trò tích cực và được
khuyến khích phát triển trong những ngành nghề, lĩnh vực sinh lợi cho xã hội mà pháp
luật cho phép.

2.5 Kinh tế tư bản nhà nước.
Là loại hình kinh tế hỗn hợp giữa nhà nước XHCN với tư bản tư nhân cả trong
nước và ngoài nước. Là sản phẩm của sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động của các
tổ chức, đơn vị kinh tế tư bản trong và ngoài nước. ở nước ta thành phần kinh tế này
phát triển mạnh mẽ dưới nhiều hình thức liên doanh, liên kết nhằm dử dụng khai thác,
phát huy thế mạnh của mỗi bên tham gia, đặt dưới sự kiểm soát, giúp đỡ của nhà nước.
Tuy nhiên tỷ lệ vốn của Việt Nam còn nhỏ, người lao động bị đối sử không công
bằng , 8 nhà nước cần khắc phục những hạn chế trên.
2.6 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Là thành phần kinh tế mới được nghi nhận trong nghị quyết đại hội Đảng IX. Nó
là thành phần kinh tế 100% vốn đầu tư nước ngoài hướng vào sản xuất những mặt hàng
công nghệ cao để xuất khẩu, thu hút lao động, khắc phục tình trạng thiếu việc làm Tuy
nó cũng góp phần thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển nhưng còn nhiều hạn chế như :
nhà nước không kiểm soát hết hoạt động của họ, không bảo vệ quyền lợi người lao
động
8Nền kinh tế nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trường ở nươc ta
là nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền kinh tế vượt khỏi tình trạng thấp kém, ngân
sách nhà nước hạn hẹp. Nó phản ánh tính đa dạng, phong phú trong đáp ứng nhu cầu xã
hội, vừa phản ánh tính chất phức tạp trong quản lý của nhà nước.
3) KTTT định hướng XHCN dựa trên cơ cấu kinh tế mở cửa chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực dựa trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền
và định hướng XHCN.
Sự ra đời và phát triển của KTTT đã phá vỡ các mối quan hệ kinh tế truyền thống
của nền kinh tế khép kín, kéo theo đó là sự mở của, chủ động hội nhập với kinh tế quốc
tế. Chính sự thay đổi đó dẫn đến sự phát triển kinh tế nhanh chóng. Mở rộng quan hệ
hợp tác với nước ngoài là tất yếu vì : KTTT mang đến sự phát triển về trình độ cũng
như QHSX dẫn đến hàng hoá sản xuất ra nhiều. Sản xuất và trao đổi hàng hoá tất yếu




vượt ra khỏi phạm vi quốc gia, mang tính chất quốc tế.Đồng thời đó cúng là tất yếu của
sự phát triển nhu cầu. Khi mà nhu cầu trong nước không đáp ứng đủ thì nhu cầu đó phải
vượt ra khỏi biên giới quốc gia.Mặt khác sự biệt lập về kinh tế là nguyên nhân dẫn đến
đói nghèo, lạc hậu và trình độ sản xuất không phát triển.
Ơ nước ta kinh tế phong kiến với tư tưởng “bế quan toả cảng” rồi đến kinh tế chỉ
huy là “tự cung, tự cấp” đã làm cho nền kinh tế ngày một đi xuống. Mở của, chủ động
hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực theo mức độ và thời gian thích hợp với
từng giai đoạn trên nguyên tắc vừa bảo vệ độc lập dân tộc vừa tận dụng sức mạnh của
nền kinh tế thế giới và sự hợp tác quốc tế là một tất yếu khách quan trong sự phát triển
kinh tế hiện nay. Thông qua mở rộng quan hệ với nước ngoài để tiếp thu những khoa
học kỹ thuật hiện đại, tạo đà phát huy nội lực, mở của để hàng hoá Việt Nam có cơ hội
có mặt trên các thị trường khác.
Từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài 12/1987 đến giữa năm 1993 đã có trên 40
nước đầu tư 685 dự án với số vốn đầu tư hơn 6,3 tỷ $.Năm 1995 đánh dấu bước quan
trọng trong hợp tác kinh tế của ta và ASEAN bằng việc VIẹt Nam là thành viên thứ 7
của ASEAN và xúc tiến ra nhập AFTA.Từ một nước nhập siêu thì đến năm 1992 có
tháng chúng ta đã suất siêu và danh mục mặt hàng suất khẩu ngày càng dài.
Tuy nhiên do thế và lực kinh tế trong nước còn yếu kém và thực tế chúng ta chưa
vượt khỏi những bước đi mò mẫm vừa làm vừa rút kinh nghiệm nên còn lúng túng trong
việc hoạch định cơ chế chính sách và tổ chức chỉ đạo thực hiện.Do đó sức cạnh tranh
và hiệu quả kinh tế nòn thấp, dễ rơi vào tình trạng phụ thuộc, bị động, phát sinh nợ nần
chồng chất và dễ chịu sự tác động của những cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính trên
thế giới.
4) KTTT dựa trên cơ chế phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế,
phân phối thông qua phúc lợi xã hội và phân phối theo vốn, theo tài sản trong đó
lấy phân phối theo lao động và phúc lợi xã hội làm chủ đạo.
Phân phối là một khâu không thể thiếu được của quá trình sản xuất, nó phản ánh
mối quan hệ giữa lợi ích của mỗi thành viên và lợi ích của toàn xã hội. Tính chất của
quan hệ phân phối do quan hệ sản xuất về TLSX quyết định. Bản thân phân phối là sản




phẩm của nền sản xuất không chỉ về nội dung mà còn về hình thức bởi vì phương thức
tham gia vào sản xuất của con người quyết định hình thức đặc thù của phân phối.
Ơ nước ta tồn tại một số hình thức phân phối như : phân phối theo lao động, phân
phối ngoài thù lao lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã hội, phân phối theo tài
sản, vốn và những đóng góp khác. Trong các hình thức cơ bản đó phân phối theo lao
động và phúc lợi xã hội làm chủ đạo nhưng phân phối ngoài thù lao lao động ngày càng
trở nên quan trọng trong phát triển xã hội. Hai cách phân phối này kết hợp với nhau, bổ
sung cho nhau và dựa vào nhau để giải quyết những yêu cầu chung của xã hội. Đồng
thời phân phối theo tài sản, vốn cũng ngày một khẳng định vai trò của nó trong hệ thống
phân phối lợi ích ở nước ta.
Phân phối theo lao động là hình thức chủ đạo vì : Đặc trưng của CNXH là chế độ
công hữu về TLSX và chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ, quyền làm chủ về kinh tế
của người lao động được xác lập. Lao động trở thành cơ sở quyết định địa vị xã hội và
phúc lợi xã hội của mỗi người. Trên nguyên tắc phải trả công bằng cho lao động ngang
nhau và trả khác nhau cho lao động khác nhau, không phân biệt giới tính, tôn giáo, tuổi
tác, dân tộc Tuy nhiên nguyên tắc phân phối theo lao động phả đảm bảo nhu cầu vật
chất, tinh thần cho người lao động. Phân phối theo lao động đáp ứng đòi hỏi cấp bách
của sự công bằng xã hội. Nó kết hợp chặt chẽ lợi ích của người tiêu dùng và xã hội,
khuyến khích học tập nâng cao trình độ phát triển đất nước.
Sự bổ sung cần thiết và quan trọng trong nguyên tắc phân phối theo lao động là :
Phân phối theo tài sản, vốn và những đóng góp khác thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển,
đưa vốn nhàn rỗi trong dân cư vào chu chuyển. Phân phối ngoài thù lao lao động thông
qua các quỹ phúc lợi xã hội góp phần tạo lập sự công bằng giữa mọi thành viên trong xã
hội nhằm phát triển xã hội nước ta hiện nay.
5) Kết hợp văn hoá dân tộc và văn hoá hiện đại có chọn lọc trong đó lấy văn
hoá dân tộc làm gốc.
Kinh tế, văn hoá, chính trị có mối quan hệ khăng khít với nhau. Kinh tế muốn phát
triển nhanh,lành mạnh không chỉ dựa vào các động lực kinh tế thuần tuý mà còn phải

dựa vào môi trường văn hoá xã hội. Do đó nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta phải
tìm mục tiêu, động lực phát triển trong các yếu tố văn hoá, xã hội. Phát triển kinh tế



không tách rời việc xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội, xây dựng nền tảng tinh thần vững
mạnh của dân tộc và của chế độ xã hội. Chúng ta chủ trương xây dựng nền KTTT mở,
trong đó nhân tố nội sinh có vai trò quyết định tính độc lập tự chủ trong sự phát triển
kinh tế. Nhân tố nội sinh hàng đầu đó là bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam, phải làm
sao để hoà nhập với thị trường thế giới Việt Nam không đánh mất bản sắc văn hoá dân
tộc vừa kết hợp hài hoà giữa văn hoá hiện đại và văn hoá dân tộc. Mặt khác KTTT mà
tách rời khỏi cội nguồn văn hoá dân tộc sẽ dễ bị tha hoá.
6) Lấy cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước làm cơ chế vận hành,
song nhà nước phải là nhà nước XHCN mang bản chất là nhà nước của dân, do
dân và vì dân.
Sự vân động của kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường không thể nào giải quyết
được hết những vấn đề do chính cơ chế đó và bản thân đời sống kinh tế xã hội đặt ra.
Đó là tình trạng thất nghiêp, lam phát, khủng hoảng, phân biệt giầu nghèo, bất bình
đẳng, ô nhiễm môi trường Vì vậy sự tác động của nhà nước, một chủ thể có khả năng
nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan vào nền kinh tế là một tất yếu.
Ơ nước ta nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế để cơ chế thị
trường tự điều chỉnh thì việc điều hành nền kinh tế không có hiệu quả. Nhà nước sử
dụng những công cụ như luật pháp, chính sách vĩ mô khác làm cho nền kinh tế lành
mạnh hơn, khắc phục khuyết tật, thúc đẩy LLSX phát triển. Do đó cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước là một sự vận động hợp lý. Do mục tiêu của CNXH ở nước ta
là dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh nên sự can hiệp của nhà
nước chỉ có thể thực hiện đối với một nhà nước của dân, do dân và vì dân, nhà nước
XHCN.
Nhà nước với các chức năng của mình sẽ góp phần tích cực tạo lập, nuôi dưỡng và
quản lý nền kinh tế. Sự can tiệp đó phải được thể hiện bằng hệ thống pháp luật, phân

phối lợi ích kinh tế, công bằng xã hội.
8 Sáu đặc trưng trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình xây dựng
KTTT định hướng XHCN ở nước ta. Nói chung “bàn tay hữu hình” của nhà nước có
mặt ở mọi đặc trưng này để làm tốt vai trò và chức năng quản lý của mình. Các chức



năng này do nhà nước đặt ra và phấn đấu thực hiện đưa nước ta phát triển thành nước
XHCN như các vị tiền bối mong đợi.
Phần 3 : Mục tiêu và chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước
1) Chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế của nhà nước.
Chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế của nhà nước thể hiện quan những mặt sau.
1.1 Định hướng sự phát triển của nền kinh tế.
Dù cho hoàn cảnh thế giới thay đổi bằng sự sụp đổ hàng loạt của hệ thống CNXH
nhưng nước ta một số nước khác trên thế giới vẫn kiên định với con đường CNXH. Để
phù hợp với quy luật khách quan và xu thế của thời đại nước ta chủ trương phát triển
KTTT định hướng XHCN. Để đạt được điều đó nhà nước ta phải phát huy vai trò to lớn
là định hướng nền kinh tế theo những đặc trưng của KTTT định hướng XHCN như phần
trên đã nêu. Nhà nước phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát huy mọi tiềm năng, thế
mạnh, dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực phát triển của mọi thành phần kinh tế, mọi đối
tượng dân cư, mọi doanh nghiệp trong nước.
Chức năng này thể hiện ở các hướng sau : trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực then
chốt để dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo (như : năng lượng, giao thông vận tải, thông
tin liên lạc ). ổn định môi trường kinh tế vĩ mô như chống lạm phát, chống khủng
hoảng, ngăn ngừa những đột biến xấu trong nền kinh tế để đạt dược hiệu quả tăng
trưởng cao và đảm bảo định hướng XHCN.
Xây dựng và củng cố khu vực KTNN để thành phần kinh tế này thực hiện vai trò
định hướng trong nền kinh tế trong sản xuất.KTNN phải thực sự là tấm gương dẫn dắt
các thành phần kinh tế khác hoạt động có hiệu quả và đúng hướng.Điều chỉnh kế hoạch,
chính sách kinh tế đúng đắn, hợp lý, ổn định và thường xuyên hoàn thiện, đổi mới. Khai

thông các quan hệ kinh tế quốc tế theo định hướng để hướng các doanh nghiệp hợp tác
với các đối tác này. Phát huy nguồn lưc,tiềm năng, đẩy nhanh sự phát triển của LLSX,
khoa học kỹ thuật và công nghệ trên cơ sở đó xây dựng củng cố QHSX XHCN.
1.2 Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế
Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế như sự ổn định về
chính trị, xã hội, thiết lập khuôn khổ luật pháp thống nhất, có hệ thống chính sách nhất
quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn có hiệu quả.



Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước phối hợp cùng với sức mạnh của các lực
lưọng, các đoàn thể, tổ chức quần chúng nhân dân, lực lượng vũ trang giữ vững ổn
định về chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc vùng đất, vùng trời của tổ
quốc tạo điều kiện cho mọi đơn vị, tổ chức kinh tế yên tâm đầu tư sản xuất kinh doanh.
ổn định về chính trị _ xã hội và kinh tế là điều kiện quan trọng cho việc mở rộng quan
hệ đối ngoại về chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật Chức năng của nhà nước
là đổi mới, hoàn thiện,củng cố hệ thống pháp luật, duy trì trật tự an toàn xã hội, thi hành
nhất quán các chính sách và thể chế kinh tế theo phương hướng đổi mới.
Xây dựng kết cấu hạ tầng như giao thông, thông tin liên lạc, điện, nước hệ thống
pháp luật, cơ sở hạ tầng văn hoá _xã hội, giáo dục_đào tạo, nghiên cứu công nghệ, khoa
học, y tế, môi trường Tranh thủ vốn, kỹ thuật công nghệ của nước ngoài để xây dựng
và củng cố hạ tầng vật chất. Tạo môi trường kinh tế vĩ mô về thuế lãi suất, tài chính
_tiền tệ, kinh tế đối ngoại đảm bảo cho các thành phần kinh tế trong nước tự do phát
triển theo định hướng của nhà nước và trong khuôn khổ của pháp luật.
Vạch hành lang về luật pháp, trật tự kỷ cương, làm cơ sở cho sự hoạt động của
các chủ thể kinh tế trong các thành phần kinh tế. Với việc thường xuyên bổ sung và sửa
đổi luật, cộng với ban hành các văn bản dưới luật nhà nước đang dần dần từng bước tạo
lập một hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể kinh doanh trong và ngoài nước.Với
một môi trường lành mạnh như vậy kinh tế nước ta sẽ phát triển đồng thời còn có thể
vươn ra nước ngoài.

1.3 Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế _xã hội đảm bảo yêu cầu của phát triển kinh
tế.
Hiệu quả kinh tế _ xã hội là mục tiêu cao nhất, là thước đo cuối cùng của sự tăng
trưởng và phát triển kinh tế của một quốc gia. Hiệu quả kinh tế _xã hội là điều kiện đảm
bảo cho sự phát triển ổn định của một nền kinh tế. Nó còn thể hện tính ưu việt của nền
kinh tế định hướng XHCN. Chức năng của nhà nước là xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế _xã hội để đạt hiệu quả kinh tế _xã hội đảm bảo yêu cầu phát triển kinh tế.
Nhà nước phải kịp thời hoạch định và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chính
sách xã hội trong đó đặc biệt lưu ý các chính sách có tầm quan trọng to lớn và tầm ảnh
hưởng sâu rộng đối với xã hội và nền kinh tế như :



_ Chính sách việc làm.
_ Chính sách tiền lương và phân phối thu nhập.
_ Chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình.
_ Chính sách bảo hiểm xã hội.
_ Chính sách bảo vệ môi trường.
_ Chính sách đối với nông thôn, nông nghiệp và nông dân.
_ Chính sách dân tộc tôn giáo
Phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng bình đẳng về quyền lợi
và nghĩa vụ công dân. Kết hợp tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội, đời sống vật chất
và tinh thần, lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể Chính sách xã hội tác động trực tiếp và
hình thành một cộng đồng văn minh như giáo dục, y tế, văn hoá _xã hội, những yếu tố
này phát triển sẽ tạo điều kiện cho kinh tế phát triển.
1.4 Quản lý tài sản công cộng và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế,
xã hội. Thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu
tài sản công của nhà nước. Các cán bộ và các cấp chính quyền không can thiệp vào
chức năng quản trị kinh doanh và quyền tự chủ của các doanh nghiệp
Với tư chách là người chủ sở hữu toàn dân mà nhà nước là đại biểu, nhà nước có

đủ tư cách quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế quốc doanh. Song nhà nước chỉ
là người sở hữu đại biểu, chứ không phải là người sở hữu thực. Sự phân biệt như vậy có
tác dụng góp phần phát huy quyền tự chủ về mọi tài sản đều có chủ và góp phần phát
huy quyền tự chủ về các mặt của xí nghiệp trên cơ sở xác định đúng chức năng quản lý
sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở. Với tư cách là người sở hữu đại biểu
nhà nước chỉ quản lý gián tiếp qua các khía cạnh sau :
Ban hành các chính sách cần thiết có tính pháp lệnh đối với doanh nghiệp. Kiểm
tra thực hiện các chinh sách của nhà nước tại các doanh nghiệp. Quyết định hướng kinh
doanh của doanh nghiệp theo hướng có lợi cho nhà nước.
Đối với tài sản công của nhà nước phải có kế hoạch cụ thể, toàn diện tiến hành
thăm dò, khảo sát, và hoạch định việc quản lý sử dụng, khai thác tài sản quốc gia trong
phạm vi cả nước. Thể chế hoá luật pháp việc phân cấp quản lý, sử dụng và khai thác các



tài sản đó, đặc biệt đối với đất đai, rừng, biển, thềm lục địa, tài nguyên và tài sản của
các đơn vị kinh tế quốc doanh
Trên cơ sở một chế độ sở hữu đa dạng, đan xen, nhà nước đòi hỏi các chủ thể
kinh tế phải sử dụng và khai thác có hiệu quả tài sản quốc gia, đảm bảo sự phát triển ổn
định lâu dài của nền kinh tế. Bên cạnh việc phân cấp trong quản lý sử dụng, khai thác
nhà nước thường xuyên tiến hành việc kiểm tra, giám sát việc sử dụng những tài sản
quốc gia nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả và ngăn chặn, giảm tới mức thấp nhất
thất thoát, lãng phí, những tiêu cực xã hội.
1.5 Khắc phục hạn chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, phân phối thu nhập
quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống
nhân dân, với tiến bộ công bằng xã hội.
Nhà nước có đầy đủ công cụ pháp lý để điều tiết thị trường cũng như hạn chế tiêu
cực của KTTT. Nhà nước đề ra những chính sách như tài chính tiền tệ, lãi suất, thuế để
điều tiết thị trường nhằm khắc phục lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng kinh tế, những
khuyết tật của kinh tế thị trường.

Nhà nước áp dụng chính sách phân phối theo thu nhập là chủ yếu, bên cạnh những
cách phân phối khác nhằm phát huy các hình thức kinh doanh phát triển và thực hiện
công bằng xã hội. Bên cạnh đó nhà nước tập trung xây dựng những công trình phúc lợi
xã hội nhằm nâng cao đời sống nhân dân
8 Các chức năng này của nước có quan hệ mật thiết và được phối hợp với nhau
trong quá trình thực thi vai trò lãnh đạo của mình. Các chức năng này đang dần được
nhà nước hoàn thiện để nâng cao hơn nữa vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế của mình.
2 ) Mục tiêu quản lý vĩ mô nền kinh tế.
Trong nền KTTT định hướng XHCN tất yếu phải có sự quản lý vĩ mô của nhà
nước về kinh tế (như đã trình bày ở trên). Sự quản lý đó nhằm một số mục tiêu sau.
Mục tiêu phát triển LLSX, trên cơ sở đó phát triển QHSX cho tương xứng với
trình độ phát triển của LLSX từng bước CNH_HĐH đất nước. Xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ,đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp và thoát khỏi tình trạng kém
phát triển.Nâng cao rõ rệt chất lượng, sức cạnh tranh và hiệu quả phát triển kinh tế.
Phân phối công bằng và hiệu quả lợi ích kinh tế _ xã hội



Nâng cao đời sống vật chất tinh thần và chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Tăng trưởng kinh tế gắn với đảm bảo tiến bộ và công bằng trong xã hội. Tốc độ tăng
trưởng GDP cao và ổn định, GDP trên đầu người tăng dần. GDP là chỉ số phản ánh khá
chi tiết sự phát triển của nền kinh tế nền mục tiêu cụ thể là tăng trưởng GDP phản ánh
sự tăng trưởng về kinh tế cũng như đời sống của nhân dân.
Tăng chỗ làm việc và giảm thất nghiệp. (Tăng việc là, hạn chế thất nghiệp nhằm
hạn chế tệ nạn xã hội, tăng mức thu nhập cho người dân ). Giải quyết hiệu quả vấn đề
việc làm, xoá đói giảm nghèo và đẩy lùi các tệ nạn xã hội đặc biệt là ma tuý. Nâng cao
chất lượng giáo dục _ đào tạo, khoa học _công nghệ, phát huy nhân tố con người.
Điều chính chỉ số giá cả và lạm phát. Với mục tiêu này giá cả trong nước có
phần mềm dẻo hơn do đó tránh nguy cơ lạm phát và khủng hoảng kinh tế. Mục tiêu
giảm lạm phát và chỉ số giá cả hợp lý kích thích tiêu dùng, từ đó kích thích sản xuất

phát triển.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại,quan hệ hợp tác với các nước
trong hoà bình hữu nghị, không can thiệp vào hoạt động của nhau, giúp đỡ nhau cùng
phát triển. Cán cân thanh toán trong nước và quốc tế cân đối. Mục tiêu cân đối giữa
nhập và xuất để phát huy mọi mặt của nền kinh tế. Cán cân ngân sách, số dư hay bội
chi không quá 5% ngân sách nhà nước.

Mục tiêu chung của CNXH ở nước ta là : Dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng
dân chủ, văn minh. Mục tiêu quản lý vĩ mô nền kinh tế của nhà nước là cụ thể hoá mục
tiêu này nhằm đạt được sự phát triển trong mọi mặt của đời sống xã hội. Các mục tiêu
này được nhà nước thường xuyên bổ sung và thay đổi cho phù hợp với mục tiêu của
từng thời kỳ, giai đoạn phát triển của đất nước. Tuy nhiên một số mục tiêu quan trọng
thì được thống nhất định hướng trong quản lý của nhà nước như trên. Ta thấy các mục
tiêu đều nhằm tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển con người cũng như các nhân tố
liên quan.
3) Các công cụ quản lý vĩ mô.



Các công cụ quản lý vĩ mô chủ yếu của nhà nước là : Pháp luật, kế hoạch, các chín
sách tài chính, tiền tệ, tín dụng, giá cả, tiền lương Với điều kiện có hạn chỉ xin nêu
những chính sách chủ yếu và vắn tắt như sau.
3.1 Quản lý vĩ mô bằng pháp luật.
Pháp luật tạo hành lang an toàn cho các hoạt động kinh tế từ việc lập quyền sở hữu
tư liệu sản xuất, đến việc bỏ vốn đầu tư sản xuất kinh doanh và điều tiết thu nhập. Nó
thiết lập một trật tự quản lý đủ sức bao qoát, điều chỉnh mọi lĩnh vực kinh tế xã hội,
thúc đẩy sản xuất phát triển,, khắc phục mọi tình trạng lừa đảo, trốn thuế, chiếm dụng
vốn, lạm dụng chức quyền tham nhũng
Công cụ pháp luật bao gồm các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp từng
bước được hoàn chỉnh, vừa quản lý chặt chẽ nền kinh tế, vừa góp phần xây dựng nhà

nước pháp quyền ở Việt Nam.
3.2 Quản lý kinh tế bằng công cụ kế hoạch ở tầm vĩ mô.
Kế hoạch vĩ mô chủ yếu mang tính chất định hướng. Kế hoạch vĩ mô có vai trò đặc
biệt quan trọng thông qua việc thực hiện các chức năng nhủ yếu như :
_Cụ thể hoá đường lối, gắn với dự báo, định hướng phát triển
_Huy động, khai thác các nguồn lực, giải phóng mọi tiềm năng để phát triển kinh
tế.
_Xây dựng các cân đối thu _ chi, tích luỹ_tiêu dùng, hàng_tiền nhằm đảm bảo
tính ổn định của sự phát triển knh tế.
_ Điều tiết có hiệu lực hoạt động của các đơn vị kinh tế ở mọi thành phần khác
nhau
3.3 Quản lý vĩ mô thông qua việc sử dụng các công cụ đòn bẩy tài chính, tiền tệ,
tín dụng, ngân hàng, tiền lương và giá cả.
Các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng, ngân hàng phải có vai trò, phạm vi tác động
có hiệu quả trong điều kiện chuyển sang nền KTTT. Với sự thu hẹp các chỉ tiêu kế
hoạch pháp lệnh thì sự điều tiết ở tầm vĩ mô của nhà nước đối với sản xuất và lưu thông
cũng chủ yếu là thông qua các phương pháp và biện pháp tài chính, tiền tệ, giá cả, tiền
lương là chủ yếu.



Phướng hướng chủ yếu : ổn định và lành mạnh hóa nền tài chính _ tiền tệ, kiểm soát
lạm phát là nhiệm vụ hàng đầu của các chính sách kinh tế vĩ mô. Đổi mới hoạt động của
hệ thống ngân hàng, tín dụng. Cải cách chính sách giá cả tiền lương và thu
nhập Chuyển qua cơ chế thị trường không hề phủ định các chính sách kinh tế vĩ mô về
giá cả, tiền lương và thu nhập cũng như vai trò quản lý và điều tiết của nhà nước đối với
các lĩnh vực này.
Ngoài ra còn có một số công cụ như các chính sách xã hội (đã trình bầy ở phần
trên ), chính sách ưu đãi, khuyến khích phát triển, các thực lực kinh tế như : lực lượng
dự trữ quốc gia, các doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức nước ngoài ở Việt Nam hoạt

động dưới sự kiểm soát của nhà nước Các công cụ này phục vụ đắc lực cho việc quản
lý vĩ mô của nhà nước một cách có hiệu quả.
Phần 4 : Giải pháp nâng cao vai trò kinh tế của nhà nước đối với nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN.
1) Thực trạng vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế của nhà nước ở nước ta.
Bước vào công cuộc đổi mới, sự hình thành các quan hệ kinh tế hàng hoá, KTTT,
sự phát triển của các thành phần kinh tế và quá trình chuyển đổi từ cơ chế quản lý cũ,
quan liêu bao cấp sang cơ chế mới, cơ chế thị trường đã làm xuất hiện những đặc điểm
mới ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động quản lý của nhà nước. Vai trò quản lý của nhà
nước tuy có nhiều chuyển biến tích cực trong hoạt động kinh tế song không tránh khỏi
những mặt hạn chế,đó là :
_ Xây dựng hệ thống dự báo và thông tin kinh tế phục vụ điều tiết vĩ mô.Như cung
cấp dịch vụ internet, xây dựng mạng lưới truyền thông rộng khắp Tuy nhiên hệ thống
thông tin này còn chưa được cập nhật thường xuyên và chưa thực sự đi vào lòng dân.
_ Xây dựng lực lượng dự trữ quốc gia trung ương và địa phương đủ mạnh về các
loại hàng hoá thiết yếu ( vàng, ngoại tệ mạnh )để tạo điều kiện bình ổn giá cả trên thị
trường. Tích luỹ nội bộ của nền kinh tế tăng đến năm 2000 là 27% GDP trong khi năm
1996 tích luỹ nội bộ là 10% GDP.(văn kiện ĐH IX). Nhưng tích luỹ còn chưa phát huy
hết vai trò của mình, một số cán bộ lợi dụng đầu cơ, làm nền kinh tế không ổn định nhất
là sau khủng hoảng và sự kiện 11/9.



_ Tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh và quản lý nhà nước có
chuyên môn và trình độ. Tổ chức xắp xếp lại hệ thống hành chính như các cơ quan,
đoàn thể, hiệp hội phù hợp với nền KTTT. Đổi mới phong cách làm việc và bộ máy
điều hành thông thoáng hơn,tốn ít thời gian và tiền của của nhân dân.Tuy nhiên căn
bệnh quan liêu, hách dịch và tham nhũng còn tồn tại làm cơ chế quản lý kém hiệu quả
và mất lòng tin trong nhân dân
_ QHSX đã có bước đổi mới phù hợp hơn với trình độ phát triển của LLSX và thúc

đẩy hình thành nền KTTT định hướng XHCN. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế, doanh nghiệp nhà nước được xắp xếp lại một bước, thích nghi dần với
cơ chế mới, hình thành những cty lớn trên nhiều lĩnh vực then chốt. Các thành phần
kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Cơ chế quản lý và phân phối có nhiều đổi mới,
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế _xã hội.
Mặt khác QHSX có mặt chưa phù hợp, hạn chế việc giả phóng và phát triển
LLSX. Chưa có chuyển biến đáng kể trong việc đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà
nước. Kinh tế tập thể chậm phát triển. Các thành phần kinh tế chưa thực sự bình đẳng,
chưa phát huy hết năng lực của mình.
_ Các chính sách kinh tế vĩ mô như các chính sách tài chính _tiền tệ, chính sách thu
nhập, chính sách kinh tế đối ngoại, chính sách chống lạm phát đã có sự thành công
trong thực hiện. Chính sách tài chính tiền tệ đã sử dụng có hiệu quả các công cụ lãi suất,
dự trữ ngoại tệ, ổn định tăng trưởng và chống lạm phát hữu hiệu, kết quả lạm phát giảm
từ 67% năm 1991 xuống 45% năm 1993.Chính sách kinh tế đối ngoại đã khơi dậy khả
năng xuất khẩu và kêu gọi đầu tư nước ngoài
Tuy nhiên kinh tế vĩ mô còn những yếu tố thiếu vững chắc. Hệ thống tài chính,
ngân hàng, kế hoạch đổi mới chậm, chất lượng hoạt động hạn chế.Nhà nước chưa thực
sự tạo môi trường đầu tư hiệu quả do chính sách pháp luật và thuế
_ Một số tồn tại bên cạnh những mặt trên như :
+ Hệ thống pháp luật kinh tế ở nước ta còn quá yếu đã gây những tổn thất nặng
nề như buôn lậu, tham nhũng, hàng giả
+ Sự chỉ đạo còn chưa nghiêm, kém hiệu lực, thiếu sự nhanh nhạy, chưa thất
chủ động tranh thủ thời cơ.

×