Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Giải pháp vượt rào cản thương mại đối với hàng xuất khẩu thủy sản việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.72 KB, 26 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Tồn cầu hóa và khu vực hóa đã trở thành xu hướng phát triển chung của thế
giới. Việt Nam khơng thể đứng ngồi xu hướng này mà phải nắm bắt cơ hội để đưa
đất nước nhanh chóng hội nhập với khu vực và thế giới một cách chủ động, tích
cực, đạt hiệu quả cao. Thực hiện chủ trương đó, trong những năm qua Việt Nam đã
tích cực tham gia vào quá trình này,hiện Việt Nam đã là thành viên của ASEAN,
APEC, ASEM, đã ký kết hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ và trong năm
2006 Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO và chính thức trở
thành thành viên thứ 150 của WTO.
Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng có khơng ít thách
thức cho các quốc gia đang phát triển. Bởi vì, Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm tới
đích là tự do hóa thương mại, điều này cũng đồng nghĩa với việc phải dỡ bỏ những
rào cản do các nước lập nên nhằm làm cho hàng hóa giữa các nước được di chuyển
thuận lợi hơn trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng. Lợi ích lớn nhất của tự do hóa
thương mại là thúc đẩy ngày càng nhiều nước tham gia buôn bán trao đổi hàng hóa
từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tranh thủ được vốn, khoa học – công nghệ,
nguyên liệu, thị trường …, người tiêu dùng có nhiều cơ hội lựa chọn hàng hóa tốt
hơn với giá rẻ hơn. Tuy nhiên khơng phải ngẫu nhiên mà các nước lại dựng lên
những rào cản làm ảnh hưởng đến sự lưu thơng hàng hóa. Lý do mà các nước làm
việc này là để nhằm bảo hộ sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh của hàng hóa
bên ngồi. Điều này có ý nghĩa lớn vì sản xuất trong nước mà bị suy giảm sẽ ảnh
hưởng lớn đến công ăn việc làm, ảnh hưởng đến ổn định xã hội; ảnh hưởng nguồn
thu cho ngân sách nhà nước; ảnh hưởng đến cán cân thanh toán, nguy cơ bệnh tật
gia tăng do ảnh hưởng của hàng nhập khẩu … Tự do hóa thương mại ở những mức
độ khác nhau sẽ làm yếu đi hoặc mất dần các hàng rào nói trên và như thế sẽ làm
ảnh hưởng đến mục đích đặt ra khi thiết lập hàng rào.
Đối với nước ta, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ giúp cho Việt Nam có thêm cơ
hội giao lưu kinh tế với nhiều nền kinh tế, có thêm nhiều đối tác kinh doanh, mở

1



rộng thị trường, thu hút thêm nguồn vốn đầu tư nước ngồi. Từ đó có thể tận dụng
được những nguồn lực từ bên ngoài để rút ngắn khoảng cách với các nước phát
triển. Tuy nhiên, Việt Nam cũng gặp không ít các rào cản thương mại do các nước
phát triển đặt ra để ngăn cản hàng hóa của Việt Nam nhập khẩu vào các nước.
Xuất phát từ nhận thức trên đây, em đã chọn đề tài “ Giải pháp vượt rào cản
thương mại đối với hàng xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế” để viết đề án môn học chuyên ngành. Việc nghiên cứu đề tài này
có ý nghĩa rất lớn đối với bản thân em nhằm nhận thức sâu sắc hơn những khó khăn
mà nền kinh tế đang gặp phải trong quá trình hội nhập, củng cố những kiến thức đã
học. Phương pháp nghiên cứu mà em sử dụng trong quá trình xây dựng đề án này là
kết hợp những kiến thức đã tích lũy trong q trình học tập với sự tổng hợp tài liệu
sách báo, tạp chí để phân tích vấn đề đặt ra.
Kết cấu đề án gồm có 3 chương:
Chương I: Quan niệm về rào cản thương mại
Chương II: Thực trạng rào cản thương mại đối với hàng xuất khẩu thủy
sản Việt Nam
Chương III: Phương hướng, giải pháp vượt qua rào cản thương mại đối
với hàng thủy sản
Hà Nội, ngày 22 tháng 11 năm 2010.

2


CHƯƠNG I
QUAN NIỆM VỀ RÀO CẢN THƯƠNG MẠI
1.1 Khái niệm “rào cản thương mại”
Một trong những nội dung cơ bản của tồn cầu hóa kinh tế là sự phát triển
nhanh chóng các quan hệ kinh tế thương mại, xu hướng tự do hóa kinh tế song song
với xu hướng bảo hộ mậu dịch và sự gia tăng các rào cản thương mại. Rào cản

thương mại có thể hiểu là biện pháp hay hành động gây cản trở đối với thương mại
quốc tế. Rào cản thương mại quốc tế rất đa dạng, phức tạp và được quy định bởi cả
hệ thống pháp luật quốc tế, cũng như luật pháp của từng quốc gia, được sử dụng
không giống nhau ở các quốc gia và vùng lãnh thổ.
Trong thực tế, các nhà khoa học có rất nhiều định nghĩa khác nhau về rào cản
thương mại. Song, nhìn chung lại thì rào cản thương mại được hiểu là các luật lệ,
chính sách, quy định hay tập qn của Chính phủ mỗi nước trong khn khổ pháp
lý chung nhằm hạn chế hay ngăn cản hoạt động thương mại hàng hóa hay dịch vụ
của nước ngồi.
Ngày nay trên thế giới đang diễn ra xu hướng toàn cầu hóa và hoạt động
thương mại tự do được coi là một kênh chủ yếu, là chiếc cầu khổng lồ nối vòng tay
lớn và đồng thuận giữa các nước trên thế giới. Và các rào cản thương mại chính là
những quy định thống nhất, tạo sự bình đẳng, cơng khai được Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) xây dựng lên nhằm tạo ra sự đồng thuận vận hành suôn sẻ, theo đó
giám sát việc thực hiện của các thành viên.

1.2. Các loại rào cản thương mại
1.2.1. Hàng rào thuế quan
Thuế quan được áp dụng trước hết là nhằm mục đích tăng nguồn thu ngân
sách cho Chính phủ, sau đó là vì những mục đích khác như ngăn chặn hàng nhập
khẩu và bảo vệ hàng trong nước, trả đũa một quốc gia khác, bảo vệ một ngành sản
xuất quan trọng hay cịn non trẻ của nước mình. Một số rào cản thuế quan thường
được áp dụng như: thuế phần trăm, thuế quan đặc thù như hạn ngạch thuế quan,
thuế đối kháng, thuế chống bán phá giá, thuế thời vụ, thuế bổ sung.

3


Thuế quan là biện pháp mà Tổ chức Thương mại thế giới cho phép sử dụng
để bảo hộ thị trường trong nước nhưng phải cam kết ràng buộc với mức thuế trần

nhất định và có lịch trình cắt giảm, do vậy xu hướng ngày càng giảm đi. Sự tự do
hóa biểu hiện thơng qua các chính sách về quy chế tối huệ quốc (MFN), chế độ thuế
quan ưu đãi phổ cập (GFP), Hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung của các
khối liên kết kinh tế như EU, NAFTA, AFTA, APEC…
Thơng qua các vịng đàm phán, WTO ln hướng mục tiêu cắt giảm thuế
quan. Các nước thành viên không được phép tăng thuế lên trên mức trần đã cam kết
trong biểu.
1.2.2. Hàng rào phi thuế quan
Hàng rào phi thuế quan:
Đó là những quy định hành chính phân biệt đối xử nhằm chống lại hàng hóa
nước ngồi và ủng hộ sản xuất nội địa. Nhà nước tuyên truyền quảng cáo khuyên
người tiêu dùng hoặc ra lệnh cho các viên chức dùng hàng hóa nội địa. Các nước
cơng nghiệp phát triển thường đưa ra lý do là nhằm bảo vệ sự an tồn và lợi ích của
người tiêu dùng, bảo vệ môi trường trong nước đã áp dụng các biện pháp phi thuế
quan để giảm thiểu lượng hàng hóa nhập khẩu.
Hàng rào phi thuế quan là những khác biệt trong những quy định hoặc tập
quán của các quốc gia làm cản trở sự lưu thơng tự do của hàng hóa, dịch vụ và các
yếu tố sản xuất với các nước. Biện pháp hạn chế xuất khẩu tự nguyện cũng là một
trong những hình thức của hàng rào mậu dịch phi thuế quan. Thực chất đây là
những cuộc thương lượng mậu dịch giữa các bên để hạn chế bớt sự xâm nhập của
hàng ngoại, tạo công ăn việc làm cho thị trường trong nước. Ví dụ, các cuộc thương
lượng mậu dịch giữa Nhật và Mỹ về việc hạn chế sự xâm nhập xe hơi của Nhật vào
thị trường Mỹ. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện mang tính miễn cưỡng và gắn với
những thị trường nhất định. Hình thức này thường được áp dụng cho các nước có
khối lượng xuất khẩu quá lớn về một mặt hàng nào đó, nhất là những mặt hàng có
sức cạnh tranh cao và có xu hướng mở rộng nhanh thị phần trên thị trường của nước
bị thâm nhập.

4



Các hàng rào này bao gồm: hạn ngạch, cấp phép, định giá hải quan, quy định
về xuất xứ, các quy định về kỹ thuật, vệ sinh, nhãn mác, trợ cấp, chống bán phá giá,
sở hữu trí tuệ … Trong đó, các biện pháp đang được sử dụng rộng rãi là:
Các biện pháp cấm: Trong số các biện pháp cấm được sử dụng trong thực
tiễn thương mại quốc tế có các biện pháp như: Cấm vận toàn diện, cấm vận từng
phần, cấm xuất khẩu hoặc nhập khẩu với một số hàng hóa nào đó …
Hạn chế định lượng (quota):
Đó là hạn ngạch về số lượng hoặc giá trị được phép xuất khẩu, nhập khẩu
trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm), hạn ngạch này có thể do nước
nhập khẩu hoặc xuất khẩu tự áp đặt một cách đơn phương nhưng cũng có loại hạn
ngạch được áp đặt trên cơ sở tự nguyện của bên thứ hai (hạn ngạch xuất khẩu tự
nguyện). Hạn ngạch bao gồm: hạn ngạch toàn cầu, hạn ngạch song phương, hạn
ngạch theo mùa, hạn ngạch liên quan đến thực hiện xuất khẩu, hạn ngạch liên quan
đến bán hàng hóa nội địa, hạn ngạch của các hạn mục nhạy cảm.
Hạn ngạch là một công cụ kinh tế và là một công cụ phổ biến của hàng rào
phi thuế quan phục vụ cho công tác điều tiết, quản lý Nhà nước về xuất nhập khẩu,
vừa nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, bảo vệ tài nguyên, vừa cải thiện cán cân
thanh toán. Hạn ngạch được hiểu là quy định của Nhà nước về số lượng (hoặc giá
trị) của một mặt hàng hoặc một nhóm mặt hàng được phép xuất khẩu sang hoặc
nhập khẩu từ một thị trường nhất định trong một thời gian nhất định, thơng qua hình
thức cấp giấy phép (quota xuất, nhập khẩu). Hạn ngạch nhập khẩu là công cụ quan
trọng để thực hiện chiến lược sản xuất thay thế nhập khẩu, bảo vệ sản xuất nội địa.
Để quản lý xuất khẩu, các nước cũng áp dụng hạn ngạch xuất khẩu. Hạn ngạch xuất
khẩu được quy định theo mặt hàng, theo nước và theo thời gian. Hạn ngạch xuất
khẩu mang tính chủ động và thường là biện pháp tự bảo vệ thị trường trong nước
hoặc tài nguyên trong nước.
Hạn chế định lượng đang được coi là có tác dụng bảo hộ mạnh hơn các biện
pháp thuế quan và dễ bóp méo thương mại. Cho nên, điều XI của Hiệp định GATT
không cho phép các nước thành viên áp dụng các biện pháp hạn chế số lượng nhập


5


khẩu hoặc xuất khẩu hàng hóa. Tuy nhiên, Hiệp định GATT cũng đưa ra một số
ngoại lệ cho phép các nước thành viên được áp dụng các biện pháp hạn chế định
lượng theo những điều kiện nghiêm ngặt. Ví dụ như để đối phó với tình trạng thiếu
lương thực trầm trọng, bảo vệ cán cân thanh toán, bảo vệ sức khỏe con người, động
thực vật, bảo vệ an ninh quốc gia …
Cấp phép xuất khẩu:
Phải tuân thủ Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu của WTO, tức là đáp
ứng các tiêu chí như đơn giản, minh bạch và dễ dự đốn. Trình tự, thủ tục xin cấp
phép cũng như lý do áp dụng giấy phép phải được thông báo rõ ràng, nhất là đối với
các loại giấy phép không tự động.
Các thủ tục hải quan:
Nếu các thủ tục hải quan đơn giản, nhanh chóng, đây chỉ là biện pháp quản
lý thông thường, nhưng nếu thủ tục quá chậm chạp, phức tạp có thể trở thành hàng
rào phi thuế quan. Sử dụng các quy định về kiểm tra trước khi xếp hàng, quy định
về cửa khẩu thông quan, quy định về giá trị tính thuế hải quan … cũng sẽ trở thành
rào cản khi mà nó chưa hoặc khơng phù hợp quy định về hài hòa thủ tục hải quan.
Định giá hải quan để tính thuế cũng có thể trở thành một rào cản lớn với hoạt động
thương mại. Ví dụ như quy định về áp giá tối thiểu để tính thuế nhập khẩu. Chính vì
vậy, Hiệp định về định giá hải quan của WTO đã quy định các nguyên tắc cụ thể
trong việc xác định giá trị tính thuế của hàng hóa, bắt buộc các thành viên phải thực
thi đúng và minh bạch.
Về trợ cấp:
Đây là một công cụ chính sách được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở hầu hết
các nước nhằm đạt các mục tiêu của Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội, ổn
định chính trị … Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về trợ cấp, nhưng theo WTO,
trợ cấp là một khoản đóng góp về tài chính do Chính phủ hoặc một tổ chức Nhà

nước cung cấp, hoặc là một khoản hỗ trợ về thu nhập, hoặc hỗ trợ giá và mang lại
lợi ích cho đối tượng nhận trợ cấp.

6


Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO được chia ra làm
ba cấp độ rõ rệt là đèn đỏ, đèn vàng và đèn xanh. Với “đèn đỏ” cấm hoàn toàn, bao
gồm các khoản trợ cấp căn cứ vào thành tích xuất khẩu hay khuyến khích sử dụng
hàng trong nước; “đèn vàng” tức là các loại trợ cấp được phép sử dụng, song cũng
có thể bị kiện hoặc áp dụng biện pháp đối kháng; cuối cùng là cấp “đèn xanh” là
những trợ cấp chung được thả nổi hồn tồn, bởi ít bóp méo hoạt động thương mại
như phổ biến và hỗ trợ nghiên cứu phát triển, hỗ trợ vùng khó khăn, hỗ trợ cải tiến
trang thiết bị đang sử dụng để đáp ứng các quy định mới về môi trường …
Rào cản về chống bán phá giá:
Đây là hành vi bán hàng hóa tại thị trường nước nhập khẩu thấp hơn giá bán
tại thì trường nội địa của nước xuất khẩu nhằm chiếm lĩnh thị trường, hay cạnh
tranh giành thị phần. Việc làm này bị coi là một hành vi cạnh tranh khơng lành
mạnh vì khơng dựa trên những tiêu chí thương mại chung, gây ảnh hưởng tới ngành
công nghiệp nước nhập khẩu.
Việc áp dụng thuế chống bán phá giá là để làm tăng giá hàng hóa nhập khẩu ,
khắc phục tác động xấu của hành vi bán phá giá. Hiệp định về chống bán phá giá
của WTO đã quy định cụ thể về các tiêu chí để xác định hành vi phá giá và biện
pháp khắc phục.
Trong thực tế, việc bán phá giá không chỉ xảy ra ở các nước đang phát triển
mà diễn ra gay cả ở các nước công nghiệp phát triển như EU, Canada, Hoa Kỳ… Theo
số liệu của Ban thư ký WTO, từ năm 1995 đến tháng 6 năm 2005, các nước thành viên
WTO đã tiến hành điều tra 2.741 vụ kiện bán phá giá, nhiều nhất là Ấn Độ 412 vụ, kế
đến là Mỹ 358 vụ, EU 318 vụ …Rốt cuộc, chỉ có 63% số vụ bị áp thuế bán phá giá, cao
nhất là Trung Quốc, tiếp đến Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Thái Lan …

Các quy định về kỹ thuật, vệ sinh, nhãn mác …:
Cùng với những nỗ lực giảm thuế và điều chỉnh các biện pháp phi thuế
truyền thống trong WTO, ngày càng xuất hiện nhiều hình thức rào cản thương mại
mang tính kỹ thuật như các quy định về vệ sinh, kỹ thuật, môi trường, nhãn mác sản
phẩm. Đây là phạm vi chứa đựng nhiều quy định khá phức tạp và hết sức chặt chẽ.

7


Hiện nay, trong WTO, Hiệp định SPS điều chỉnh việc áp dụng các biện pháp
vệ sinh, kiểm dịch động, thực vật và Hiệp định TBT điều chỉnh việc áp dụng các
quy định liên quan đến tiêu chuẩn sản phẩm, dán nhãn, chứng nhận và công nhận
hợp chuẩn. Mục tiêu của hai hiệp định này là cho phép các nước hành viên một mặt
duy trì các biện pháp vệ sinh và kỹ thuật vì các lý do chính đáng, mặt khác hạn chế
khả năng lạm dụng các biện pháp này để bóp méo hoạt động thương mại tồn cầu.
Các quy định về thương mại dịch vụ:
Các quy định như quy định về lập cơng ty, chi nhánh và văn phịng của nước
ngoài tại nước sở tại, quy định về xây dựng và phát triển hệ thống phân phối hàng
hóa, quy định về quyền được tiếp cận các dịch vụ công một cách bình đẳng, quy
định về thanh tốn và kiểm sốt ngoại tệ, quy định về quảng cáo và xúc tiến thương
mại … đều trở thành các rào cản trong thương mại quốc tế nếu các quy định này
không minh bạch và có sự thiên vị, phân biệt đối xử.
Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại:
Ví dụ như các quy định yêu cầu các nhà đầu tư phải sử dụng nguyên liệu
trong nước, quy định tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm hay hạn chế nguồn ngoại tệ dùng để
thanh tốn hàng nhập khẩu của cơng ty … Các biện pháp này thường được các nước
đang phát triển sử dụng rộng rãi để hạn chế nhập khẩu và phát triển ngành cơng
nghiệp trong nước.
Để khắc phục tình trạng này, Hiệp định TRIMS đã đưa ra một danh mục các
biện pháp đầu tư bị coi là không phù hợp với các quy định về tự do hóa thương mại

của WTO và u cầu các nước thành viên khơng duy trì những biện pháp này.
Rào cản về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ:
Việc thực thi khơng đầy đủ quyền sở hữu trí tuệ cũng được coi là một rào
cản lớn với hoạt động thương mại quốc tế, vì hàng nhái, hàng giả, hàng vi phạm bản
quyền với giá rẻ sẽ hạn chế khả năng tiếp cận thị trường của sản phẩm đích thực.
Vấn đề này thực sự trở nên nghiêm trọng với những quốc gia mà việc thực thi
quyền sở hữu trí tuệ khơng nghiêm ngặt, ví dụ như Trung Quốc.

8


Trên thực tế, trong quan hệ thương mại Mỹ - Trung, vấn đề thực thi quyền
trở hữu trí tuệ đã khơng ít lần trở thành một đề tài căng thẳng. Hiệp định TRIPS của
WTO điều chỉnh các vấn đề về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại, gồm
các quyền chính như quyền tác giả, nhãn hiệu hàng hóa, chỉ dẫn địa lý, thiết kế cơng
nghiệp, các bí mật thương mại.
Ngoài những biên pháp chủ yếu kể trên, trong hoạt động thương mại quốc tế
còn tồn tại rất nhiều hình thức rào cản thương mại khác. Ví dụ, như mua sắm của
Chính phủ, doanh nghiệp nhà nước, quy tắc xuất xứ, các quy định về kiểm định
hàng hóa trước khi xuống tàu …
Cùng với sự phát triển của hoạt động thương mại và xu hướng điều tiết các
rào cản truyền thống, ngày càng xuất hiện nhiều hình thức rào cản trá hình và tinh
vi hơn, thường là liên quan tới các tiêu chuẩn về kỹ thuật, môi trường, lao động, với
mục đích cuối cùng là đạt được nhiều giá trị thặng dư cho doanh nghiệp mình, đất
nước mình trong sân chơi chung toàn cầu.
Thương mại tự do là một trong những động lực to lớn phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia. Vì vậy, trong quá trình hội nhập sâu vào hệ thống thương mại đa
phương, việc đầu tư nguồn lực và thời gian để nghiên cứu, hiểu rõ để phòng tránh
hiệu quả những rào cản này là vơ cùng cần thiết.
Theo đó, các biện pháp đấu tranh phịng tránh các rào cản khơng cơng bằng

để bảo vệ lợi ích cho mình là một vấn đề lớn khơng chỉ đối với các nhà quản lý vĩ
mô, hoạch định chính sách, xây dựng luật pháp mà cịn là một nhiệm vụ quan trọng
số một đối với cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.
1.2.3. Rào cản kỹ thuật TBT (Technological Barier to Trade)
Đây là hàng rào quy định về hệ thống quản trị chất lượng, môi trường, đạo
đức kinh doanh, điểm kiểm soát tới hạn, … đối với các doan nghiệp khi thâm nhập
vào thị trường. Hệ thống TBT gồm có:
Hệ thống quản trị chất lượng ISO 9001 :2000
Hệ thống này đã được trên 140 quốc gia áp dụng. ISO 9001:2000 đề cập chủ
yếu đến các lĩnh vực về chất lượng, theo Tổ chức Phát triển Công nghiệp của Liên

9


Hợp Quốc (UNIDO) các doanh nghiệp áp dụng hệ thống này sẽ đáp ứng được yêu
cầu của khách hàng trong và ngoài nước, nâng cao tinh thần làm việc của nhân viên
trong doanh nghiệp, vượt qua rào cản trong thương mại quốc tế, gia tăng thị phần,
diện tích, lợi nhuận và phát triển bền vững.
Trong thực tế, sản phẩm cảu doanh nghiệp nào được cấp giấy chứng nhận phù
hợp với ISO 9001:2000 sẽ dễ dàng thâm nhập vào thị trường các nước phát triển.
Hệ thống quản trị môi trường ISO 14000:2000
Hệ thống này xem xét khía cạnh bảo vệ mơi trường của tổ chức và của sản
phẩm. Thị trường thế giới hiện nay rất chú trọng đến vấn đề môi trường, tổ chức
Môi trường thế giới đã khuyến cáo các doanh nghiệp nên cung ứng những sản phẩm
“xanh và sạch”. Mức độ ảnh hưởng tới môi trường của một sản phẩm có vai trị lớn
tới sức cạnh tranh của sản phẩm đó trên thị trường.
Hệ thống thực hành sản xuất tốt GMP (Good manufacturing Practices):
Đây là một hệ thống đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, đặc biệt
là dược phẩm. Các nước lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Australia, … đều yêu cầu các
sản phẩm thực phẩm và dược phẩm khi nhập vào thị trường nước họ phải được

cơng nhận đã áp dụng GMP.
Hệ thống phân tích mối nguy và điểm kiểm soát tới hạn HACCP (Hzard
Analysis Critical Control Point):
Đây là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp chế biến hàng thủy sản
nếu muốn thâm nhập vào thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản, Australia, Canada, … Bộ
thủy sản Việt Nam quy định các doanh nghiệp chế biến hàng thủy sản phải áp dụng
HACCP kể từ năm 2000.
Tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội SA 8000:
Đây là tiêu chuẩn quốc tế dựa trên công ước Quốc tế về Lao động của tổ
chức Lao động Quốc tế (ILO) của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em và nhân quyền.
Các nước Mỹ, EU, Nhật Bản, Canada, … quy định cấm nhập khẩu hàng hóa mà
trong q trình sản xuất có sử dụng lao động trẻ em, lao động cưỡng bức, phân biệt
đối xử, bắt người lao động làm việc qua thời hạn cho phép của luật lao động.

10


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG RÀO CẢN THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI HÀNG XUẤT
KHẨU VIỆT NAM
2.1. Tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào các thị
trường
Tình hình sản xuất và khả năng chế biến của ngành Thủy sản.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê và Bộ Thủy sản, sản lượng thủy sản của
Việt Nam mặc dù trước năm 1985 có sự sa sút, yếu kém nhưng từ năm 1985 trở lại
đây liên tục phát triển qua các năm. Năm 1986, tổng sản lượng thủy sản chỉ đạt
830.500 tấn; năm 1990 là 1.019.000 tấn; đến năm 2000 đa đạt 2.003.000 tấn; năm
2004 đạt 3.073.600 tấn. Trong đó khai thác hải sản đạt tương ứng là 587.000
tấn; 709.000 tấn; 1.280.000 tấn; 1.230.500 tấn và nuôi trồng thủy sản là 243.500
tấn; 310.000 tấn; 723.000 tấn; 1.150.100 tấn.

Ngành công nghiệp chế biến thủy sản ở nước ta đa có bước phát triển nhanh
về năng lực chế biến. Năm 1996 cả nước có hơn 40 doanh nghiệp chế biến thủy sản.
Đến năm2004, cả nước đa có 405 doanh nghiệp. Trong đó có 153 doanh nghiệp chế
biến thủy sản trong Danh sách 1 xuất khẩu vào thị trường EU, 237 doanh nghiệp đủ
tiêu chuẩn xuất khẩu vào Hàn Quốc và 295 doanh nghiệp đủ điều kiện xuất khẩu
vào Trung Quốc.
Tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
- Về kim ngạch xuất khẩu: Từ năm 1986 đến nay kim ngạch xuất khẩu thủy
sản của Việt Nam đa không ngừng tăng lên qua các năm. Năm 1986 giá trị kim
ngạch xuất khẩu mới đạt 0,102 tỷ USD. Do tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính - tiền tệ (1997) đa làm ảnh hưởng đến xuất khẩu thủy sản nước ta. Đến năm
2000 xuất khẩu thủy sản đa có bước nhảy vọt đạt mức 1,402 tỷ USD, tăng 44,38%
so với năm 1999. Trong năm 2002, mặc dù có những khó khăn về thị trường nhưng
lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam vượt qua con số 2 tỷ USD
(2,014 tỷ)USD). Năm 2003 sản xuất, xuất khẩu thủy sản gặp nhiều khó khăn do

11


ảnh hưởng của Irắc, dịch bệnh SARS, thiên tai, dịch bệnh tôm, các rào cản từ thị
trường nhập khẩu như việc kiểm soát ngặt nghèo về dư lượng kháng sinh ở EU và
hậu quả của vụ kiện cá tra, cá ba sa, tôm của Mỹ. Mặc dù vậyngành thủy sản đa đạt
kim ngạch xuất khẩu năm 2003 là 2,3 tỷ USD. Năm 2004 giá trị kim ngạch xuất
khẩu đạt 2,397 tỷ USD.
- Về cơ cấu sản phẩm thủy sản xuất khẩu: Trong tất cả các mặt hàng thủy sản
xuất khẩu từ trước đến nay, tôm đông lạnh luôn chiếm tỷ trọng cao. Trước những
năm 1990 kim ngạch xuất khẩu tôm luôn chiếm 70% giá trị xuất khẩu thủy sản hàng
năm. Từ răm 2000 trở lại đăm, tơm chỉ cịn chiếm tỷ lệ tương đối trên 50% kim
ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Năm 2003, lần đầu tiên vượt mức 1 tỷ
USD, chiếm 49% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước và chiếm 10% kim ngạch xuất

khẩu tôm trên tồn cầu. Năm 2004 giá trị xuất khẩu tơm chiếm 52%, tăng 17,3% về
giá trị, tăng 11,8% về khối lượng; Giá trị xuất khẩu từ cá chiếm 22,8%, tăng
16,2% về giá trị, tăng 35,5% về khối lượng so với cùng kỳ. Riêng cá tra, cá ba sa
chiếm 12,51% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của toàn Ngành và bằng 53,3%
nhóm sản phẩm cá. Sản lượng cá tra, ba sa tăng 55%, giá trị tăng 53,75% so cùng
kỳ; Mặt hàng mực và bạch tuộc sản lượng khai thác đạt thấp, giá trị xuất khẩu
chiếm 6,7%, tăng 40,2% về giá trị, tăng 32,1% về khối lượng so với cùng kỳ; Sản
phẩm thủy sản khô chiếm 4,2%, tăng 32,2% về giá trị, tăng 52,4% vê khối lượng
so với cùng kỳ; Các sản phẩm thủy sản khác giảm cả về lượng (-34,2%) và giảm cả
về giá trị (-35,4%).
- Về thị trường xuất khẩu: Đến nay sản phẩm thủy sản Việt Nam đa có mặt
tại 80 nước và vùng lanh thổ. Trong đó Mỹ, Nhật Bản vẫn là thị trường lớn.
Thị trường Mỹ: các năm 2001- 2003 thủy sản xuất khẩu vào Mỹ chiếm tỷ
trọng lớn nhất, nhưng năm 2004 do tác động tiêu cực của vụ kiện bán phá giá tôm
vào thị trường Mỹnên giá trị xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào Mỹ đã lùi xuống vị
trí thứ hai (24,1%). Khối lượng và giá trị kim ngạch thủy sản xuất khẩu giảm so
với cùng kỳ năm 2003, khối lượng đạt 79.265 tấn (giảm 30%), giá trị đạt
522.542.000 USD (giảm 27,7%).

12


Thị trường Nhật Bản: có tỷ trọng cao nhất, chiếm 31,4% giá trị kim ngạch
xuất khẩu của toàn Ngành, khối lượng đạt 106.610 tấn (tăng 21,6%), giá trị đạt
680.064.000 USD (tăng 31,2%). Khi có khó khăn do vụ kiện tơm, nhiều nước bị
kiện khác (Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ...) đa chuyển hướng sang thị trường
Nhật nhưng thủy sản Việt Nam vẫn tăng được khối lượng và giá trị kim ngạch xuất
khẩu tại Nhật Bản. Đây là hiện tượng đáng mừng về năng lực tiếp thị của các doanh
nghiệp chế biển xuất khẩu thủy sản và tín nhiệm về chất lượng hàng thủy sản Việt
Nam trên thị trường này.

Thị trường xuất khẩu thủy sản Việt Nam năm 2004
Thị trường

Khối

lượng

Giá trị (USD)

Tỷ trọng (%)

680064000
522542000
214978000
116974000
152953000
125671000

31,4
24,1
9,9

(tấn)
Nhật Bản
Mỹ
EU
Trung Quốc
ASEAN
Hàn Quốc


106610
79265
67251
42999
38322
63386

Thị trường EU: đây là thị trường phản ánh yêu cầu cao của chất lượng sản
phẩm, khối lượng thủy sản xuất khẩu đạt 67.251 tấn (tăng 84,6%), giá trị đạt
214.978.000 USD (tăng 88,1%), đưa tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường này đạt
khoảng 9,9% năm 2004.
Thị trường Trung Quốc, Hong Kong: trong các tháng đầu năm xuất khẩu
thủy sản vào thị trường này giảm mạnh, nhưng các tháng cuối năm tình hình có
thay đổi, khối lượng thủy sản xuất khẩu tăng nhưng giá trị lại giảm. Tổng khối
lượng thủy sản xuất vào thị trường này năm 2004 đạt 42.999 tấn (tăng 11%), giá trị
đạt 116.974.000 USD (giảm 14,6%). Thị trường Trung Quốc, Hong Kong lớn, có
tiềm năng song cạnh tranh ngày càng phức tạp, giá sản phẩm có xu hướng giảm
và khả năng tăng hiệu quả là khó khăn.
Thị trường ASEAN: tổng khối lượng thủy sản xuất vào thị trường này năm
2004 đạt 38.322 tấn (tăng 47,3%), giá trị đạt 152.953.000 USD (tăng 28,3%).

13


Thị trường Hàn Quốc: tổng khối lượng thủy sản xuất vào thị trường này năm
2004 đạt 63.386.000 tấn (tăng 47,3%), giá trị đạt 125.671.000 USD (tăng 29,3%).
Từ thực trạng xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong thời gian qua, chúng ta
thấy xuất khẩu thủy sản đa có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần ổn định và phát
triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, xuất khẩu thủy sản Việt Nam vẫn cịn tồn tại
nhiều hạn chế, khó khăn nhất định.

Những hạn chế, khó khăn trong xuất khẩu thủy sản Việt Nam:
- Nguồn nguyên liệu thủy sản cho chế biến xuất khẩu cịn nhiều bất cập. Việc
ni trồng thủy sản đang phát triển một cách tự phát, thiếu quy hoạch, không có sự
đồng bộ trongphát triển ni trồng thư: thủy lợi, giống, thức ăn, phòng và chữa
bệnh nên nhiều dịch bệnh xảy ra: Vấn đề kiểm tra tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh của
nguyên liệu nhập khẩu cũng như kiểm soát việc đưa ra các tạp chất vào nguyên liệu
của một số vùng trong nước chưa chặt chẽ dẫn tới dư lượng kháng sinh trong hàng
thủy sản xuất khẩu còn cao, đặc biệt là mặt hàng tôm, làm ảnh hưởng đến hoạt động
xuất khẩu trên thị trường.
- Chủng loại thủy sản xuất khẩu còn nghèo nàn, chưa phong phú, chủ yếu là
tôm, mực đông lạnh, cá tra, cá ba sa dưới dạng thô chưa qua chế biến nên giá trị
xuất khẩu thấp. Do đó tính cạnh tranh sản phẩm thủy sản xuất khẩu của ta khơng
cao.
- Trình độ cơng nghệ và kỹ thuật sản xuất, chế biến và bảo quản tuy có được
cải tiến thưng vẫn ở mức thấp so với các nước như Thái Lan, Trung Quốc,
Indonesia. Cán bộ quản lu doanh nghiệp còn hạn chế về năng lực, kiến thức và kinh
nghiệm. Chính điều đó làm cho lợi thế so sánh trong xuất khẩu thủy sản của Việt
Nam bị giảm sút.
- Chưa có kế hoạch và chương trình tổng thể xúc tiến hàng thủy sản Việt
Nam ở nước ngoài. Mới chỉ thực hiện được kênh thông tin cho doanh nghiệp và cơ
quan quản lí cịn kênh thơng tin rất quan trọng là thơng tin cho tiêu dùng thì chưa
biết làm và chưa có cơ chế để huy động nguồn lực thực hiện.

2.2. Rào cản thương mại đối với hàng thủy sản

14


Thủy sản là một trong những thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam do có
những điều kiện thuận lợi về điều kiện nuôi trồng tự nhiên cũng như về nhân cơng.

Chính vì thế hàng thủy sản đơng lạnh xuất khẩu Việt Nam được đánh giá là có khả
năng cạnh cao trên thị trường và có mức tăng trưởng khá ấn tượng. Đây cũng chính
là nguyên nhân dẫn đến hai vụ kiện bán phá giá lớn nhất đối với hàng xuất khẩu
Việt Nam liên quan đến cá basa và tôm vào Hoa Kỳ. Kể từ sau khi Mỹ áp thuế
chống bán phá giá cao nhất đối với các sản phẩm cá tra, cá basa có nguồn gốc từ
Việt Nam vào năm 2002, có thể nói năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 là
khoảng thời gian Việt Nam phải đối mặt với nhiều rào cản nhất, cả về kỹ thuật lẫn
phi kỹ thuật, không chỉ đối với cá tra, cá basa mà cịn đối với cả tơm. Hầu hết các
rào cản này đều xuất phát từ vấn đề chất lượng. Từ những động thái bảo hộ ngành
sản xuất trong nước một cách quyết liệt, kiên trì và liên tục của các nhà sản xuất
thủy sản nói chung và các nhà sản xuất tơm, cá Hoa Kỳ nói riêng, ta có thể thấy rõ
hơn những động thái bảo hộ thương mại của Hoa Kỳ mạnh mẽ và lợi hại như thế
nào. Mặc dù nhiều mặt hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ đã được
giảm thuế nhập khẩu nhưng vẫn còn một số mặt hàng phải chịu thuế này khi vào thị
trường Mỹ. Dưới đây là bảng thuế nhập khẩu thủy sản vào Mỹ:

Mặt hàng
Cá biển
Cá bạc má
Cá chẻm
Cá nục
Cá ngân
Cá ngừ
Cá thát lát
Cá thu

Loại III

+/Loại I
Nghìn vnđ/kg


27
40
18
26
18
50
55

+8%
0%
0%
+8.33%
+5.88%
0%
0%

Cá nước ngọt
Cá điêu hồng
Cá đú
Cá kèo
Cá lóc ni
Cá rơ
Cá sặc

37
55
28
34
27

65
70

+/+5.71%
0%
+3.7%
+6.25%
+8%
0%
0%

Nghìn vnđ/kg
22
26
55
25
42
50

0%
0%
0%
0%
0%
0%

15

31
32

70
34
55
60

0%
0%
0%
-2.86%
0%
0%


Cá trê phi
Cá tra

16
9

0%
0%

Thủy hải sản khác
Cua
Ghẹ
Mực ống
Mực lá
Tép bạc
Tôm đất
Tơm sú ống

(Bến Tre)

20
16

0%
0%

Nghìn vnđ/kg
80
60
50
65
48
46

0%
0%
-9.09%
0%
0%
0%

130
0
70
85
60
80


0%
0%
0%
0%
0%
0%

75

+15.38%

120

0%

Nguồn từ Bình Điển Market
Chất lượng mặt hàng thủy sản xuất khẩu những năm qua tuy ngày càng được
cải thiện theo hướng tích cực, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, quảng bá uy tín,
thương hiệu của hàng thủy hải sản Việt Nam trên thị trường quốc tế, song vấn đề dư
lượng kháng sinh và tình trạng nhiễm khuẩn do tiêm tạp chất và ngâm hóa chất vẫn
đang tiềm ẩn, có thể gây rủi ro, thiệt hại cho xuất khẩu. Hiện nay hàng thủy sản Việt
Nam không bị EU áp dụng biện pháp kiểm tra 100% các lơ hàng xuất khẩu, song
vẫn có thể bị áp dụng trở lại nếu Việt Nam kiểm tra giám sát an tồn vệ sinh thực
phẩm khơng chặt chẽ; các lơ hàng thủy sản của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường
Nhật Bản chịu sự kiểm tra nghiêm ngặt về vấn đề an toàn thực phẩm.
Xuất khẩu cá tra, basa của Việt Nam vào thị trường Mỹ sẽ phải đương đầu
với những khó khăn khi Mỹ đưa ra những đạo luật làm rào cản các sản phẩm xuất
khẩu của Việt Nam ở thị trường Bắc Mỹ này.
Theo Bộ Luật Liên bang Mỹ 21 CFR, chỉ có các doanh nghiệp nước ngồi
nào đã thực hiện chương trình HACCP có hiệu quả mới được xuất khẩu thủy sản

vào thị trường Mỹ. Đây là một hệ thống quản lý chất lượng mang tính phịng ngừa
nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm và chất lượng thực phẩm thơng qua việc phân
tích những mối nguy và thực hiện các biện pháp kiểm soát tại các điểm kiểm sốt
tới hạn. HACCP nhấn mạnh tính nhất thiết phải kiểm sốt dây chuyền cơng nghệ
sản xuất để đảm bảo an tồn, vệ sinh cho sản phẩm thay vì kiểm sốt sản phẩm cuối
cùng. Để được phép đưa hàng thủy sản vòa Mỹ, doanh nghiệp phải gửi kế hoạch,

16


chương trình HACCP cho Cục thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA). FDA xem
xét kế hoạch, chương trình HACCP, khi cần thì kiểm tra. Nếu FDA kết luận là đạt
u cầu thì cấp phép cho doanh nghiệp đó. FDA kiểm tra từng lơ hàng nhập khẩu.
Nếu phát hiện có lơ hàng nhập khẩu khơng đảm bảo an tồn,, vệ sinh thực phẩm
hoặc có các vi phạm khác, lơ hàng sẽ bị FDA từ chối nhập khẩu, bị gửi trả về nước
hoặc tiêu hủy tại chỗ với chi phí do doanh nghiệp chịu, đồng thời, tên doanh nghiệp
sẽ bị đưa lên mạng Internet ở chế độ “cảnh báo nhanh”. Năm lô hàng tiếp theo của
doanh nghiệp này sẽ bị tự động giữ ở cảng nhập để kiểm tra theo chế độ tự động.
Chỉ sau khi cả năm lơ hàng đó đều đảm bảo an toàn, vệ sinh và doanh nghiệp làm
đơn đề nghị, FDA mới xóa tên doanh nghiệp ra khỏi danh sách “cảnh báo nhanh”.
Năm 2009, sau những đợt kiểm tra, rà sốt hoạt động ni trồng, chế biến cá
tra, cá basa của Việt Nam, Bộ Thương Mại Hoa Kỳ đã công bố những kết quả
chứng minh thời gian qua Việt Nam không bán phá giá cá basa. Thế nhưng, Lệnh
áp thuế chống bán phá giá đối với mặt hàng cá tra, cá basa xuất khẩu của Việt Nam
vào thị trường Mỹ vẫn sẽ tiếp tục được áp dụng trong 5 năm nữa vì Ủy ban Thương
Mại Quốc tế Hoa Kỳ (ITC) lo ngại rằng, nếu hủy bỏ lệnh áp thuế đối với Việt Nam
sẽ gây thiệt hại lớn cho ngành sản xuất nội địa Mỹ. Việc ITC ra quyết định tiếp tục
áp thuế chống bán phá giá đối với các sản phẩm phi lê cá tra, cá basa Việt Nam
đồng nghĩa với việc là sẽ tiếp tục có những khó khăn cho những sản phẩm có ưu thế
của Việt Nam trên thị trường Mỹ. Và cùng với quyết định giữ nguyên mức thuế

chống bán phá giá, Mỹ đang hồn tất Luật Nơng nghiệp (hay cịn gọi là Luật Farm
Bill), dự kiến có hiệu lực từ ngày 1/1/2010. Trong Luật Nơng nghiệp của Mỹ có
một điều khoản ngặt nghèo gọi là “chính sách tương đương”, nghĩa là cá tra Việt
Nam bị đưa vào nhóm catfish và sẽ bị quản lý tương đương cả về luật pháp và điều
kiện an tồn vệ sinh thực phẩm.
Nếu bị xếp vào nhóm catfish như dự Luật Nơng nghiệp Mỹ thì cá tra, basa sẽ
thuộc vào diện quản lý của Bộ Nông nghiệp Mỹ, thay vì Cục Quản lý Thực phẩm
và Dược phẩm Hoa Kỳ. Khi các quy định này được áp dụng, thì sản phẩm cá tra
Việt Nam sẽ bị quản lý chặt chẽ tương tự như các sản phẩm thịt nhập khẩu vào Mỹ.

17


Điều này sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào
thị trường này bởi yêu cầu khắt khe trong công tác kiểm định. Hiện chỉ có 34 quốc
gia đạt tiêu chuẩn xuất khẩu thịt vào Mỹ và đều là các quốc gia phát triển. Và không
chỉ các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng cá tra, basa bị ảnh hưởng nặng nề bởi
đạo luật này mà những người nuôi trồng ở Việt Nam cũng bị ảnh hưởng trực tiếp.
Các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản cũng đang gặp khó bởi Luật IUU
(những quy định về hạn chế các hoạt động đánh bắt bất hợp pháp khơng có báo cáo
và khơng theo quy định ), được EU áp dụng từ ngày 1/1/2010. Theo đó, tất cả lơ hàng
hải sản khai thác phải có chứng nhận tên tàu khai thác, vùng biển khai thác …, nếu
thiếu sẽ không được phép xuất vào EU. Đây là yêu cầu khó đáp ứng được trong thời
gian cịn lại của năm 2009 khi EU là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam.
Theo các chuyên gia thủy sản, EU có hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn
vệ sinh thực phẩm vào loại nghiêm ngặt nhất thế giới. Hàng thủy sản của các nước
đang phát triển đưa vào EU phải tuân thủ theo các quy định sau đây: Thứ nhất, quy
định về vệ sinh: các nước muốn đưa hàng thủy sản vào EU phải nằm trong danh
sách các nước được xuất khẩu vào EU. Thứ hai, quy định về chất lượng và an toàn
thực phẩm: theo các quy chế 91/492/EEC, các sản phẩm phải đáp ứng tiêu chuẩn cụ

thể về vệ sinh gồm độ tươi, độ sạch, mức nhiễm vi sinh tối đa, dư lượng hóa chất,
chất độc, độc tố sinh học biển và ký sinh trùng. Thứ ba, quy định về giám sát: Quyết
định 94/356/EEC yêu cầu nhà sản xuất có hàng thủy sản xuất khẩu sang EU phải tôe
chức giám sát hoạt động sản xuất và chế biến của mình phù hợp với HACCP. Tiêu
chuẩn HACCP là điều kiện quan trọng của doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản vào EU.
Tại các thị trường xuất khẩu thủy sản chủ lực như Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ và
cả thị trường truyền thống như Nga đã dựng lên các rào cản về vệ sinh an toàn thực
phẩm đối với hàng thủy sản nhập khẩu. Các doanh nghiệp chế biến thủy sản nước ta
vẫn chưa đáp ứng tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm tại các thị trường này.
Đến cuối tháng 6/2009, nước ta đã xuất khẩu sang Nhật Bản khoảng 6000 lơ hàng
thủy sản, nhưng có đến 94 lô bị phát hiện dư lượng kháng sinh cấm (chiếm tỷ lệ
1,6%). Các mặt hàng bị nhiễm như: Seafoodmix (19 lô), tôm PUD (22 lô), tôm tấm

18


bột (11 lô), mực khô (3 lô), mực sushi (3 lơ) …Các hóa chất, kháng sinh bị phát
hiện trong hàng thủy sản xuất khẩu như Chloramphenicol (CAP) có 55 lơ, AOZ (17
lô), SEM (6 lô) … Gần đây nhất, cơ quan chức năng của Nhật Bản đã cảnh báo 14
doang nghiệp xuất khẩu thủy sản nước ta có lơ hàng thủy sản nhiễm chất kháng sinh
cấm. Điều này dẫn đến Nhật Bản áp dụng việc kiểm tra tất cả các lô hàng thủy sản
nhập khẩu từ Việt Nam. Danh sách các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản sang Nhật
Bản bị phát hiện nhiễm chất kháng sinh trong các lô hàng thủy sản ngày một dài ra.
Một số lô hàng thủy sản bị trả về, nhưng một số doanh nghiệp vì lợi nhuận đã không sử
lý triệt để. Điều này ảnh hưởng rất xấu đến uy tín của hàng thủy sản Việt Nam. Không
giống với các thị trường như EU, Hàn Quốc, việc kiểm tra chất lượng các lô hàng thủy
sản trước khi xuất khẩu sang Nhật Bản trước đây là khơng bắt buộc. Việc kiểm tra chất
kháng sinh, hóa chất cấm chỉ xảy ra khi doanh nghiệp có yêu cầu và doanh nghiệp
hoàn toàn chịu trách nhiệm về chất lượng thủy sản xuất khẩu.
Bộ Công thương cho biết: mặc dù Nhật Bản là một thị trường lớn, đầy tiềm

năng nhưng rất khó tiếp cận bởi nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa nắm bắt
được đặc trưng, văn hóa của thị trường và thị hiếu của người dân nước này. Vì vậy,
bộ Công thương khuyến cáo, trong kinh doanh người Nhật lấy chữ tín làm đầu và
ln có sự cải tiến, đổi mới về kỹ thuật. Hơn nữa, người tiêu dùng Nhật Bản yêu
cầu khắt khe về chất lượng, đọ bền, độ tin cậy, sự tiện dụng của sản phẩm và sẵn
sàng trả giá cao hơn cho những sản phẩm có chất lượng tốt, đồng thời cũng chú ý
tới các dịch vụ hậu mãi, phương thức phân phối của các nhà sản xuất. Những vụ
việc như doanh nghiệp bắn đinh thép vào đầu tôm để cho nặng cân hơn hoặc vấn đề
dư lượng kháng sinh quá cao trong thủy sản Việt Nam đã trở thành “tiền sự” đối với
người tiêu dùng Nhật Bản và để xóa đi ấn tượng xấu này cần khá nhiều thời gian.
Do gặp khó khăn về hàng rào vệ sinh an toàn thực phẩm, cho nên tổng sản lượng
thủy sản xuất khẩu sang Nhật Bản chỉ đạt hơn 39 nghìn tấn ( giảm gần 8% so với
cùng kỳ năm 2008), kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 240 triệu USD (giảm gần 10% so
với cùng kỳ năm trước).

19


Chương III:
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP VƯỢT QUA RÀO CẢN
THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI HÀNG THỦY SẢN
3.1. Định hướng chung
Trong thời điểm nhạy cảm hiện nay, để giảm thiểu rủi ro, các DN cần đa
dạng hóa thị trường xuất khẩu, tránh tình trạng “bỏ trứng vào một giỏ” như một số
ngành hàng hiện nay. Một thói quen rất có lợi cho các DN là trước khi muốn thâm
nhập vào một thị trường nào đó, cần tìm hiểu kỹ hệ thống pháp luật của đối tác. Cần
tham vấn pháp luật trong mọi trường hợp để đề phòng bất trắc chúng ta sẽ ứng xử
nhanh nhằm làm giảm thiệt hại ở mức tối thiểu. DN cần xây dựng tính cộng đồng
DN VN cao hơn nữa để tương trợ lẫn nhau.
Đặc biệt, với hệ thống cảnh báo sớm sẽ được vận hành, phần nào hỗ trợ các

DN nhận biết được cách phòng vệ trong thương mại. Hơn tất cả, tự thân mỗi DN
cần đầu tư để đa dạng và nâng cao chất lượng giúp cạnh tranh tốt hơn thay vì phải
cạnh tranh bằng cách hạ giá sản phẩm. Đây là điều kiện tiên quyết để sản phẩm VN
thâm nhập sâu và rộng trên thị trường quốc tế.

3.2. Phướng hướng giải quyết
Rào cản trong thương mại quốc tế là một thực tế khó tránh khỏi. Vì thế việc
doanh nghiệp Việt Nam chuẩn bị tốt, sẵn sàng vượt rào an tồn hoặc ít nhất là giảm
thiểu thiệt hại là rất cần thiết.
Đối với những rào cản thường trực như các yêu cầu kỹ thuật hay các điều kiện
về vệ sinh thực tễ mà mỗi thành viên WTO nhập khẩu tự đặt ra, cách duy nhất vượt
rào an toàn là biết đầy đủ, thực hiện đúng và thường xuyên các yêu cầu này. Dù
rằng việc tuân thủ khá tốn kém và địi hỏi nhiều cơng sức của doanh nghiệp, lẩn
tránh hay lừa dối có thể cịn gây ra những hậu quả lớn hơn nhiều. Ví dụ như phản
ứng của Nhật Bản với một số loại thủy sản Việt Nam vi phạm tiêu chuẩn (bắt buộc
kiểm tra 100% các lơ hàng và đe dọa cấm nhập khẩu hồn tồn). Các doanh nghiệp
xuất khẩu thủy sản phải tuân thủ danh mục hóa chất, kháng sinh cấm sử dụng.

20



×