Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại SGD Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.51 KB, 70 trang )

Danh mục từ viết tắt :
NH: Ngân hàng
NHNo&PTNT VN : Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
SGD: Sở giao dịch
DN: Doanh nghiệp
TPKT: Thành phần kinh tế
KT- XH: Kinh tế- xã hội
DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
Sinh viên: Lê Trung Kiên
Lớp : KTNN 46A
1
Danh mục bảng biểu
Bảng Nội dung Trang Nguồn
Bảng 2.1
Kết quả huy động vốn của SGD
trong 3 năm gần đây 29
Báo cáo hoạt động kinh doanh
3 năm gần đây của SGD
NHNo&PTNT VN
Bảng 2.2
Tình hình cho vay tại SGD
NHNo&PTNT VN trong năm
2005,2006 và 2007.
31 nt
Bảng 2.3
Kết quả hoạt động tài chính của
SGD NHNo&PTNT VN trong năm
2005,2006 và 2007.
32 nt


Bảng 2.4
Tăng nguồn vốn, dư nợ thông
thường qua các năm 39 nt
Bảng 2.5
Tỷ trọng dư nợ theo thành phần
kinh tế 40 nt
Lời nói đầu
Sinh viên: Lê Trung Kiên
Lớp : KTNN 46A
2
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Đổi mới nền kinh tế theo hướng nền kinh tế mở, đặc biệt là nước ta gia nhập
WTO đòi hỏi hệ thống NHTM, trong đó có hệ thống NHNo&PTNT VN phải thực sự
đổi mới để phù hợp với tình hình thực tiễn và xu thế hội nhập.
SGD NHNo&PTNT VN là đơn vị trực thuộc NHNo&PTNT VN, trong những
năm qua, SGD đã nhanh chóng đa dạng hoá hoạt động, tăng cường hiệu quả sử dụng
vốn, dần dần thay đổi cơ cấu đầu tư vốn thích hợp với sự đổi mới của nền kinh tế đất
nước.Song, cũng như mọi hoạt động kinh doanh khác, hoạt động sử dụng vốn luôn
phải thay đổi theo môi trường hoạt động để thích nghi với chức năng vốn có của ngân
hàng, nên các cơ chế chính sách luôn được đổi mới.Trên giác độ này, hiện nay hoạt
động sử dụng vốn tại SGD còn nhiều bất cập như: Chất lượng sử dụng vốn còn tiềm
ẩn những yếu tố không vững chắc trong chiếm lĩnh thị trường về khách hàng, cơ cấu
nguồn vốn, đầu tư vốn đối với các thành phần kinh tế, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao
so với khả năng… vì vậy, em chọn đề tài :” Giải phápp nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn tại SGD NHNo&PTNT Việt Nam ” làm mục tiêu nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở lý luận và phân tích thực trạng để tìm ra nguyên nhân tồn tại trong
hoạt động kinh doanh vốn tại SGD nhằm đưa ra giải pháp phù hợp tăng cường hiệu
quả sử dụng vốn tại SGD.
3. Phương pháp nghiên cứu :

- Thu thập số liệu thứ cấp (số liệu thống kê) tại SGD NHNo&PTNT
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phỏng vấn mở các cán bộ của SGD NHNo&PTNT VN
- Phương pháp thống kê.

Sinh viên: Lê Trung Kiên
Lớp : KTNN 46A
3
4.Phạm vi nghiên cứu :
Phòng tín dụng và các phòng ban liên quan
Thị trường khách hàng của SGD NHNo&PTNT VN
Thời gian: 2005-2006-2007
5.Kết cấu chuyên đề:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, chuyên đề kết cấu thành 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về sử dụng vốn của NHNo&PTNT VN
Chương II: Thực trạng sử dụng vốn tại SGD NHNo&PTNT VN
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại SGD NHNo&PTNT VN.
Sinh viên: Lê Trung Kiên
Lớp : KTNN 46A
4
Chương I: Lý luận chung về vốn của NHNo&PTNT VN:
1.Vốn và vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT VN
1.1/ Khái niệm về vốn:
Sẽ là không tưởng khi nói đến phát triển kinh tế mà không có vốn hoặc không
đủ vốn. Vốn đối với phát triển kinh tế không phải chỉ là vốn bằng tiền mặc dù đầu tư
vốn bằng tiền có ý nghĩa rất quan trọng trong nền kinh tế hàng hoá- tiền tệ. Cùng với
quá trình chuyển đồi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường, nhiều
vấn đề từ lý luận đến thực tiễn vận hành vào nền kinh tế cần phải được nhận thức lại
cho đúng, trong đó nhận thức đúng về vốn có ý nghĩa rất lớn, nhằm thấy hết vai trò
của vốn trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế nước ta.

Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, khi người ta nói đến vốn đồng nghĩa
với phạm trù tiền vốn ( vốn tài chính), tức là nó đại diện cho một lượng hàng hoá
nhất định.Thậm chí người ta còn quan niệm rằng tiền do Nhà nước phát hành đều là
vốn. Quan niệm như vậy không hoàn toàn đúng, vì tiền phát hành ra không phải với
bất kỳ số lượng nào đều được đảm bảo bằng hàng hoá. Ngay bản thân quan niệm vốn
được hiểu bằng tiền, thì tiền ở đây phải được vận động với mục đích sinh lợi, chứ
không phải dưới dạng tích trữ. K.Mác đã phân biệt rất rõ hai phạm trù tiền tệ và
phạm trù tư bản, ông cho rằng nếu tiền không tham gia liên tục vào quá trình sản xuất
của xã hội thì tiền đó chỉ ở dạng “ tư bản tiềm năng” mà thôi.
Cần nhận thức rằng : Vốn là một phạm trù rộng lớn bao gồm tiền tệ, vật tư, tài sản,
nguồn lực, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý và nhiều loại hình vốn hữu hình hay
vốn vô hình khác như phát minh, sáng chế, bản quyền kinh doanh, trình độ công
nhân.
Có thể chia vốn thành hai dạng cơ bản:
- Vốn hữu hình: Tiền tệ, vật tư, tài sản, lao động, đất đai, tài nguyên tự nhiên,
vùng biển, vùng trời của một quốc gia.
- Vốn vô hình: Vị trí địa lý, bản quyền kinh doanh, phát minh sáng chế,…
Nghị quyết Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng đã chỉ
rõ :” Để công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần huy động nhiều nguồn vốn sẵn có với sử
Sinh viên: Lê Trung Kiên
Lớp : KTNN 46A
5
dụng hiệu quả, trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn từ bên ngoài
là quan trọng.”Đây là quan điểm đúng đắn mà Nhà nước đã xác định.
Nhận thức đúng đắn về phạm trù vốn và ý nghĩa của nó là cần thiết trong hành động
thực tiễn, mà trước hết là trong ngành tài chính, ngân hàng- những ngành có vinh dự
và trách nhiệm lớn lao trong việc tạo dựng vốn cho sự nghiệp xây dựng và phát triển
kinh tế, xã hội nước ta.
1.2/Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT :
Vốn là cơ sở để NHNo&PTNT tổ chức hoạt động kinh doanh:

Trước hết, NHNo&PTNT cũng như bất kỳ doanh nghiệp nào muốn hoạt động
kinh doanh đều phải có vốn.Bởi vì, vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả
năng kinh doanh. Riêng đối với NHNo&PTNT , vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức
mọi hoạt động kinh doanh của mình. Nói cách khác, ngân hàng không có vốn thì
không thể thực hiện được các nghiệp vụ kinh doanh. Bởi vì, với đặc trưng của hoạt
động ngân hàng, vốn không chỉ là điều kiện để kinh doanh chính mà còn là đối tượng
kinh doanh chủ yếu của ngân hàng. NHNo&PTNT có rất nhiều vốn nên có thế mạnh
trong kinh doanh. Ngoài số vốn ban đầu cần thiết, ngân hàng còn phải thường xuyên
chăm lo tới việc tăng trưởng vốn, tức là tạo vốn trong suốt quá trình hoạt động của
mình.
Vốn tại ngân hàng sẽ quyết định qui mô hoạt động kinh doanh và các
hoạt động khác của ngân hàng:
Vốn tại ngân hàng có tính quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp khối
lượng tín dụng. NHNo&PTNT có số vốn lớn, nên các khoản mục đầu tư và cho vay
khá đa dạng, nguồn vốn luôn đáp ứng đủ nhu cầu của khách hàng và giúp ngân hàng
có điều kiện không ngừng mở rộng thị trường kinh doanh của mình. Các mặt hoạt
động khác như kinh doanh ngoại hối, vàng, bạc, bảo lãnh, thanh toán, dịch vụ tư vấn,
đầu tư, liên doanh,… cũng không thể thoát ly được yếu tố vốn.
Vốn tại NHNo&PTNT quyết định khả năng thanh toán của ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng qui mô hoạt
động đòi hỏi NHNo&PTNT ngày càng phải có uy tín lớn trên thị trường. Uy tín đó
Sinh viên: Lê Trung Kiên
Lớp : KTNN 46A
6
phải được thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán chi trả cho khách hàng
của ngân hàng. Vốn khả dụng của ngân hàng càng lớn thì khả năng thanh toán của
ngân hàng càng cao. Vì vậy, loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh toán của ngân
hàng tỷ lệ thuận với vốn tại ngân hàng nói chung và vốn khả dụng của ngân hàng nói
riêng.Với tiềm năng vốn lớn, NHNo&PTNT có thể hoạt động kinh doanh với qui mô
ngày càng lớn, tiến hành kinh doanh có hiệu quả, uy tín được đảm bảo và nâng cao,

tăng vị thế của ngân hàng trên thị trường.
Vốn tại NHNo&PTNT quyết định năng lực cạnh tranh :
Thực tế qua bao thập kỷ của nhân loại cũng như bao năm hoạt động của ngân
hàng ở Việt Nam đã chứng minh : Quy mô vốn, trình độ nghiệp vụ, trình độ công
nghệ và năng lực quản lý, điều hành của ngân hàng là tiền đề cho việc thu hút nguồn
vốn.Đồng thời, nguồn vốn lớn là điều kiện thuận lợi đối với ngân hàng trong việc mở
rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế, xét về cả quy mô với khối lượng
tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn cho vay, thậm chí quyết định mức lãi suất
cho vay thấp cho khách hàng. Điều đó sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng cho
ngân hàng, đồng thời từ đó sẽ có điều kiện làm cho doanh số hoạt động ngày càng
tăng lên nhanh chóng và sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong kinh doanh. Đây cũng là
điều kiện để bổ sung thêm vốn tự có của ngân hàng, tăng cường cơ sở vật chất kỹ
thuật và qui mô hoạt động của ngân hàng trên mọi lĩnh vực.Vốn của ngân hàng lớn sẽ
giúp ngân hàng có đủ khả năng tài chính để kinh doanh đa năng trên thị trường,
không chỉ đơn thuần là cho vay mà còn mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết,
kinh doanh dịch vụ thuê mua, mua bán nợ, kinh doanh trên thị trường chứng khoán…
và chính các hình thức kinh doanh đa năng này sẽ góp phần phân tán rủi ro trong hoạt
động kinh doanh và tạo thêm nguồn vốn cho ngân hàng
2.Phân loại vốn tại NHNo&PTNT VN:
Nhìn chung,vốn chi phối toàn bộ các hoạt động và quyết định đối với việc
thực hiện các chức năng của NHNo&PTNT .
Vốn tại NHNo&PTNT bao gồm ( phân loại theo nguồn gốc):
− Vốn thuộc sở hữu của ngân hàng
Sinh viên: Lê Trung Kiên
Lớp : KTNN 46A
7
− Vốn huy động
− Vốn đi vay
− Vốn khác.
Mỗi loại vốn đều có tính chất, vai trò riêng trong tổng nguồn vốn hoạt động kinh

doanh của NHNo&PTNT
− Vốn thuộc sở hữu của ngân hàng ( vốn tự có ):
Vốn tự có của ngân hàng là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được, thuộc
sở hữu của ngân hàng. Vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn tại ngân
hàng, nhưng lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi mới bắt đầu thành lập ngân hàng.
Do tính chất thường xuyên ổn định của vốn tự có, ngân hàng có thể chủ động sử
dụng chúng vào các mục đích như : Trang bị cơ sở vật chất, tài sản cố định phục vụ
cho bản thân ngân hàng.Mặt khác, với chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như tài
sản đảm bảo gây lòng tin với khách hàng, duy trì khả năng thanh toán trong trường
hợp ngân hàng gặp nhiều thua lỗ. Nó còn là một trong những căn cứ quyết định đến
quy mô và khối lượng vốn huy động của ngân hàng ( điều này được luật quy định cụ
thể ). Theo luật các tổ chức tín dụng, vốn tự có là yếu tố cơ bản để xác định các chỉ
tiêu an toàn của ngân hàng.
Vốn tự có của NHNo&PTNT gồm những thành phần cơ bản sau :
 Thành phần chủ yếu nhất trong cơ cấu vốn tự có là vốn điều lệ được hình
thành do ngân sách Nhà nước cấp.
 Vốn tự có bổ sung vốn điều lệ thông thường : Vốn của ngân hàng không
ngừng được tăng lên theo thời gian nhờ có nguồn vốn bổ sung :
 Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ được trích từ lợi nhuận ròng hàng
năm của ngân hàng theo một tỷ lệ nhất định tuỷ theo Luật ngân
hàng quy định nhằm mục đích tăng cường vốn tự có ban đầu.
 Quỹ dự trữ đặc biệt để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt
động kinh doanh của ngân hàng, nhằm đảm bảo vốn điều lệ.
Sinh viên: Lê Trung Kiên
Lớp : KTNN 46A
8
 Ngoài ra, vốn tự có bổ sung còn bao gồm lợi nhuận chưa phân bổ
hoặc các quỹ nghiệp vụ khác như: Quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp
vụ ngân hàng, quỹ phúc lợi, khen thưởng, khấu hao…
Vốn tự có của ngân hàng nhằm cung cấp một vùng đệm, bù đắp sự thua lỗ và cho

phép tổ chức ngân hàng tồn tại trong quá trình hoàn thiện. Với chức năng này, vốn tự
có là quan trọng cho mọi tổ chức ngân hàng.
Nếu xem xét vốn theo cách nhìn tĩnh tại, sự hiện hữu của vốn tự có nhằm cung
cấp vùng đệm để bù đắp rủi ro thất thoát trong cho vay và đầu tư của ngân hàng. Vì
thế, theo kinh nghiệm nếu tỷ lệ vốn tự có so với tài sản có bằng 5% thì tài sản có
không được phép sụt giảm trên 5% về mặt giá trị trước khi tổ chức ngân hàng này
chính xác mất khả năng thanh toán. Hoặc tỷ lệ này là 10% thì mức sụt giảm có thể
tăng tương ứng. Vốn tự có còn nhằm cung cấp sự đảm bảo đối với khách hàng gửi
tiền không có đảm bảo và những chủ nợ khác về khả năng tiếp tục tồn tại và phát
triển của ngân hàng trong môi trường kinh tế khắc nghiệt. Tiếp đến vốn tự có sẽ bù
đắp các khoản lỗ cho đến khí thu nhập phát sinh và được giữ lại để tạo thành vốn bổ
sung. Như vậy, vốn tự có của ngân hàng rất quan trọng.
− Các khoản tiền gửi ngân hàng nhận đựoc từ nền kinh tế :
Các khoản tiền gửi là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng nhận được từ các tổ chức
kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các hoạt động tín
dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng để kinh doanh. Bản
chất của vốn tiền gửi là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau. Ngân hàng chỉ có
quyền sử dụng, không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc
và lãi khi đến kỳ hạn, hoặc khi họ có nhu cầu rút vốn để chi trả. Vốn tiền gử đóng vai
trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Vốn tiền gửi luôn luôn biến động, nên ngân hàng không cho phép sử dụng hết số
vốn đó vào kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả năng
thanh toán. Hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng là huy động tối đa các
nguồn vốn trong xã hội để tiến hành cho vay và đầu tư nhằm mục đích phát triển và
thu lợi nhuận, tiếp nhận các loại tiền gửi với mọi khối lượng nhiều ít khác nhau, với
Sinh viên: Lê Trung Kiên
Lớp : KTNN 46A
9
mọi thời hạn, đa dạng hoá thời gian gửi tiền không kỳ hạn, có kỳ hạn, ngắn hạn, dài
hạn. Trong tổng nguồn vốn tiền gửi chiếm tỷ trọng cao nhất, thông thường lên đến

trên 70%..
Theo đối tượng huy động vốn, ngân hàng có thể huy động vốn tiền gửi từ các đối
tượng sau : Các tổ chức kinh tế; các tầng lớp dân cư; các ngân hàng và tổ chức tài
chính khác. Trong đó, nguồn vốn tiền gửi của các doanh nghiệp, dân cư là quan trọng
nhất, vì nó là nguồn vốn chủ yếu và mang tính chất lâu dài.Mọi ngân hàng đều phải
biết dựa vào tiết kiệm và tích luỹ của các doanh nghiệp và dân cư để huy động vốn.
Các doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng với mục đích tạo tiền đề cho việc sử dụng
các dịch vụ ngân hàng, cá nhân gửi tiền vào ngân hàng với mục đích tìm kiếm thêm
thu nhập qua việc ngân hàng trả lãi cho các khoản tiền gửi này.
− Các khoản vay của ngân hàng khác và của ngân hàng Trung ương:
Vốn đi vay là quan hệ vay mượn giữa NHNo&PTNT với ngân hàng Trung ương,
hoặc với các ngân hàng thương mại khác hay các tổ chức tài chính khác.
NHNo&PTNT sẽ đi vay vốn để bổ sung vào vốn hoạt động của mình khi
NHNo&PTNT đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn hoạt động, hay
nói cách khác ngân hàng tạm thời thiếu vốn khả dụng.
Tuỳ theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn mà NHNo&PTNT chia thành
các loại : Vốn vay ngắn hạn bổ sung, vay để thanh toán và vay tái cấp vốn.
 Vốn vay ngắn hạn là hình thức mà ngân hàng xin vay vốn bổ sung vốn
ngắn hạn của mình. Trong hình thức vay này, ngân hàng chỉ được vay khi
còn hạn mức tín dụng hoặc trong hạn mức tín dụng đã thoả thuận.
 Vốn vay để thanh toán : NHNo&PTNT vay ngân hàng Trung ương nhằm
bù đắp thiếu hụt tạm thời trong thanh toán.
 Tái cấp vốn: Ngân hàng Trung ương cho NHNo&PTNT vay trên cơ sở
chứng từ có giá. Các chứng từ này phải bảo đảm tính hợp lệ, hợp pháp bảo
đảm an toàn. Tái cấp vốn gồm hai hình thức :
• Tái chiết khấu : Ngân hàng Trung ương nhận các chứng từ có giá
mà NHNo&PTNT đã chiết khấu trước đây để thực hiện nghiệp vụ
Sinh viên: Lê Trung Kiên
Lớp : KTNN 46A
10

giống như ngân hàng đã làm.Tuy nhiên, việc cho vay tái chiết khấu
đối với NHNo&PTNT chỉ giới hạn trong mức cho phép ( mức tái
chiết khấu ) để thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung
ương.
• Vay đảm bảo :Là hình thức NHNo&PTNT đem các chứng từ có
giá đến Ngân hàng Trung ương để làm vật tư đảm bảo xin vay vốn.
Căn cứ trên tổng mệnh giá các chứng từ có giá làm vật đảm bảo,
Ngân hàng Trung ương cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo chính
sách quản lý của Nhà nước trong từng thời kỳ.
Vốn vay Ngân hàng Trung ương là quan hệ trực tiếp giữa NHNo&PTNT với
Ngân hàng Trung ương nằm trong sự điều tiết của chính sách tiền tệ. Khi Ngân hàng
Trung ương sử dụng công cụ thị trường mở, mua bán các trái phiếu, kỳ phiếu ngắn
hạn, các ngân hàng đều phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ của Ngân hàng Trung ương..
3.Hiệu quả sử dụng vốn của NHNo&PTNT :
3.1. Quan niệm về hiệu quả sử dụng vốn tại NHNo&PTNT :
Trong từ điển Tiếng Việt có ghi : Hiệu quả là kết quả như yêu cầu của việc
làm mang lại. Đây là quan niệm chung nhất về hiệu quả và cũng là rộng nhất về hiệu
quả nên rất khó xác định được đầy đủ.
Bất kỳ một hoạt động nào cũng đòi hỏi chi phí và thường đạt được một số kết
quả nhất định. Đó là mối quan hệ giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra được gọi là
hiệu quả..Như vậy, hiệu quả có nội dung rất rộng và được xem xét dưới nhiều góc độ
kinh tế, góc độ xã hội hoặc vừa kinh tế vừa xã hội
Xét về kinh tế: Hiệu quả kinh tế là hiệu quả được xem xét trên khía cạnh kinh
tế của vấn đề, phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế đạt được và chi phí bỏ ra để
đạt được lợi ích đó. Biểu hiện của lợi ích và chi phí kinh tế phụ thuộc vào chủ thể và
mục tiêu chủ thể đặt ra. Cũng như bao hoạt động khác, hoạt động sử dụng vốn của
NHNo&PTNT cũng cần vươn tới tính hiệu quả. Vậy, hiêu quả sử dụng vốn tại
NHNo&PTNT ?
Sinh viên: Lê Trung Kiên
Lớp : KTNN 46A

11
Hoạt động sử dụng vốn của NHNo&PTNT được tập trung nghiên cứu trong
Chuyên đề này là hoạt động đầu tư vốn tín dụng,Vì vậy, chuyên đề chỉ xem xét hiệu
quả sử dụng vốn đối với NHNo&PTNT dưới góc độ hiệu quả hoạt động đầu tư vốn
tín dụng của NHNo&PTNT .Xuất phát từ vai trò, cơ chế hoạt động của
NHNo&PTNT liên quan đến việc thông qua đánh giá hiệu quả bằng hệ thống chỉ
tiêu ( định tính, định lượng) về hoạt động đầu tư vốn tại NHNo&PTNT , cần nhất
quán: Thứ nhất, hiệu quả đầu tư vốn tại NHNo&PTNT cao hay thấp thể hiện ở chỗ
đầu tư vốn làm gì để góp phần thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, thúc đẩy nền
kinh tế xã hội phát triển. Tiếp đến, hiệu quả hoạt động đầu tư vốn đối với
NHNo&PTNT còn thể hiện trực tiếp mang lại hiệu quả cho công tác ngân hàng :
Làm lợi cho ngân hàng một trong các chỉ tiêu, một số chỉ tiêu hoặc tất cả : Lợi nhuận,
số lượng khách hàng, tăng thị phần…Giữa hai nhận thức này có quan hệ chặt chẽ, bổ
sung cho nhau và không thể tách rời nhau.
Như vậy, trước hết, hiệu quả sử dụng vốn đối với NHNo&PTNT mà không
gắn liền với sự tăng trưởng của nền kinh tế thì hiệu quả đó sẽ là hiệu quả cục bộ. Do
đó, trong bất kỳ trường hợp nào, đầu tư vốn tại NHNo&PTNT cũng phải góp phần
thúc đẩy nền kinh tế phát triển, phù hợp với định hướng, mục tiêu của Nhà nước.Tuy
nhiên, đầu tư vốn không thể tham gia vào quá trình sản xuất- kinh doanh với bất kỳ
giá nào; ngân hàng không thể cho vay thiếu sự tính toán, cân nhẳc trên cơ sở các dự
án có tính khả thi. Hiệu quả sử dụng vốn đối với NHNo&PTNT phải được xác định
cả về định lượng và định tính.
Thứ hai, hiệu quả sử dụgn vốn đối với NHNo&PTNT còn phải đảm bảo thực
hiện mục tiêu của nguồn vốn huy động. Chẳng hạn, mục tiêu của nguồn vốn huy
động là để cho vay xoá đói giảm nghèo, có hoàn trả, không hoàn trả, có lãi suất,
không lãi suất, thời gian dài hay ngắn… tuỳ theo tính chất của từng nguồn vốn.
Thứ ba, hiệu quả sử dụng vốn đối với NHNo&PTNT còn phải thực hiện có
hiệu quả các cơ chế về đầu tư vốn tại NHNo&PTNT .
Từ những phân tích trên, chuyên đề rút ra nhận thức về hiệu quả sử dụng vốn
tại NHNo&PTNT như sau:

Sinh viên: Lê Trung Kiên
Lớp : KTNN 46A
12
Một là, hiệu quả sử dụng vốn đối với NHNo&PTNT là bộ phận không thể
tách rời của hiệu quả tái sản xuất toàn bộ xã hội. Qúa trình thực hiện vốn tại
NHNo&PTNT thể hiện thời điểm tạm thời của quá trình tái sản xuất, đảm bảo hiệu
quả cao hơn của mỗi chu kỳ tái sản xuất tiếp theo.
Mức độ hiệu quả của nền kinh tế quốc dân chịu ảnh hưởng không chỉ bởi hoạt
động của việc sử dụng phương tiện đầu tư, mà còn do các nhân tố khác tác động như
là việc sử dụng các nguyên liệu và năng lượng thích hợp nhất, sự phân công lao động
quốc tế…Vì thế trong việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn tại NHNo&PTNT cần
phải coi hiệu quả sử dụng vốn tại NHNo&PTNT có hiệu quả cao nhất là góp phần sử
dụng kinh tế nhất các nguồn vốn xã hội, thiên nhiên con người và kỹ thuật, nó đảm
bảo trình độ cao nhất của sự thoả mãn nhu cầu của hiện tại và tương lai không ngừng
tăng lên của xã hội từ việc thực hiện đầu tư vốn này.
Việc nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn của NHNo&PTNT không thể tách
khỏi toàn bộ vấn đề hiệu quả kinh tế quốc dân.Vì thế, tiêu chuẩn hiệu quả sử dụng
vốn tại NHNo&PTNT phải gắn liền với tiêu chuẩn hiệu quả phát triển kinh tế quốc
dân trong một tổng thể.
Hai là, hiệu quả sử dụng vốn đồng nghĩa với việc đạt được sự thống nhất về
lợi ích giữa khách hàng, ngân hàng.Tức là khi lợi ích của các chủ thể tham gia vào dự
án này được kết hợp một cách hài hoà.Nếu lợi ích của một chủ thể nào đó bị vi phạm,
hoạt động đó sẽ bị ảnh hưởng không thể trôi chảy được. Hoạt động kinh doanh của
ngân hàng luôn gắn liền với thực hiện các lợi ích của ngân hàng và lợi ích khách
hàng. Đó là mối quan hệ tạo tiền đề và hỗ trợ nhau cùng phát triển. Khi khách hàng
có phát triển thì hiệu quả sử dụgn vốn tại NHNo&PTNT mới được thực hiện trên cả
hai phương diện định lượng và định tính.
Ba là, thực hiện tốt mối quan hệ giữa mục tiêu của đầu tư vốn tại
NHNo&PTNT và tiêu chuẩn hiệu quả. Theo nguyên tắc này, mục tiêu là tiêu chuẩn
để xác định hiệu quả kinh tế, khi mục tiêu thay đổi thì tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế- xã

hội thay đổi. Mỗi chủ thể có những mục tiêu khác nhau khi tham gia hoạt động đầu
tư vốn.Mục tiêu của mỗi chủ thể cũng thay đổi tuỳ theo từng thời kỳ. Nếu
Sinh viên: Lê Trung Kiên
Lớp : KTNN 46A
13
NHNo&PTNT coi nâng cao lợi nhuận là tiêu chuẩn hàng đầu thì tiêu chuẩn cơ bản
để đánh giá hiệu quả kinh tế là lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận thu được từ hoạt động
đầu tư vốn đó. Còn khi ngân hàng không nhấn mạnh yêu cầu về lợi nhuận mà nhấn
mạnh mục tiêu trước mắt là phải thu hút khách hàng và mở rộng đầu tư vốn thì tiêu
chuẩn để đánh giá hiệu quả là số lượng dự án đầu tư và số lượng khách hàng được
đầu tư…
3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tại NHNo&PTNT :
Chỉ tiêu đánh giá về hiệu quả sử dụng vốn tại NHNo&PTNT có nhiều, nhưng
trong giới hạn phạm vi nghiên cứu của chuyên đề chỉ nghiên cứu những chỉ tiêu chủ
yếu,trong đó thông qua các chỉ tiêu này tác động đến đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
tại NHNo&PTNT . Các chỉ tiêu chủ yếu là các chỉ tiêu đầu tư vốn tín dụng và một số
chỉ tiêu liên quan khác.
Hiệu quả sử dụng vốn là một khái niệm tổng hợp, vừa mang tính cụ thể, vừa
mang tính trừu tượng. Nó được biểu hiện qua các chỉ tiêu liên quan đến nhiều đối
tượng :NHNo&PTNT , bên sử dụng vốn tại NHNo&PTNT , tình hình kinh tế xã hội.
Các chỉ tiêu đó có thể là chỉ tiêu định lượng hay định tính và có mối liên hệ phụ
thuộc lẫn nhau. Do đó, để đánh giá một cách chính xác hiệu quả sử dụng vốn ( chủ
yếu là hiệu quả sử dụng vốn đầu tư tín dụng) tại NHNo&PTNT thì phải đánh giá
toàn bộ các chỉ tiêu đó trong một hệ thống chỉ tiêu cả định tính lẫn định lượng. Đồng
thời, cũng cần căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để có sự ưu tiên cho chỉ tiêu này
hay chỉ tiêu khác, cho đối tượng này hay đối tượng khác.
Thứ nhất, các chỉ tiêu định tính
Hiệu quả sử dụng vốn tại NHNo&PTNT được thể hiện qua : Sau khi bỏ vốn
ra đầu tư trong một khoảng thời gian đã quy định trong hợp đồng sử dụng vốn tại
NHNo&PTNT ; khả năng sản xuất kinh doanh của các khách hàng vay vốn từ

NHNo&PTNT và tác động đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Do đó, về
mặt định tính, hiệu quả sử dụng vốn được đánh giá qua các mặt sau:
Một là, khả năng thu được nợ gốc và lãi trong khoảng thời gian đã quy định
trong hợp đồng vay vốn.Nghĩa là, hoạt động sử dụng vốn tại người vay phải đảm bảo
Sinh viên: Lê Trung Kiên
Lớp : KTNN 46A
14
để NHNo&PTNT thực hiện được chức năng vốn có của nó, đồng thời phải mang lại
thu nhập cho NHNo&PTNT đủ để trang trải các khoản chi phí liên quan và hạn chế
thấp nhất nguy cơ rủi ro ( không thu hồi được vốn đầu tư hoặc thu hồi chậm, không
đủ…)
Hai là, hiệu quả sử dụng vốn tại NHNo&PTNT còn thể hiện ở khả năng đáp
ứng tốt nhu cầu vốn cho khách hàng, cung cấp vốn đầy đủ, nhanh chóng, kịp thời.
Qua đó, bên đi vay sẽ tiết kiệm được các chi phí giao dịch,tiết kiệm thời gian và nhất
là sẽ không bỏ lỡ những cơ hội sản xuất kinh doanh tốt.
Ba là, đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của vùng, địa phương
và cả nước. Kết quả này đạt được khi cả bên sử dụng vốn tại NHNo&PTNT và
NHNo&PTNT đều hoạt động tốt.Tức là, hoạt động của NHNo&PTNT sẽ đóng góp
vào việc tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng kim
ngạch xuất khẩu, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
tạo thêm việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống người dân….
Thứ hai, các chỉ tiêu định lượng :
Sử dụng hệ thống chỉ tiêu này để xác định được kết quả cụ thể của hiệu quả. Có
nhiều loại chỉ tiêu định lượng để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, nhưng thông thường
người ta dùng một số chỉ tiêu chủ yếu : hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư tín
dụng và một số chỉ tiêu liên quan khác để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tại
NHNo&PTNT :
−Dư nợ vay và tốc độ tăng dư nợ vay : Dư nợ cho vay là số tiền mà
NHNo&PTNT cho khách hàng vay.Dư nợ cho vay thể hiện quy mô tuyệt đối của
hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT , còn tốc độ tăng dư nợ thể hiện khả năng mở

rộng quy mô đầu tư tín dụng qua các thời kỳ.Dư nợ vay lớn và tốc độ cho tăng cho
thấy khả năng mở rộng tín dụng của NHNo&PTNT . Đây là tình hình tốt đối với
NHNo&PTNT .Tuy nhiên, đây mới chỉ là điều kiện chứ chưa thể khẳng định hiệu
quả sử dụng vốn tín dụng của NHNo&PTNT mà cần phải kết hợp nghiên cứu, phân
tích với các chỉ tiêu khác.
Sinh viên: Lê Trung Kiên
Lớp : KTNN 46A
15
−Tổng vồn huy động : Là chỉ tiêu biểu hiện quy mô vốn mà NHNo&PTNT
huy động từ các nguồn vốn trong nền kinh tế xã hội và các tổ chức tài chính quốc
tế…trong một khoảng thời gian nhất định. Chỉ tiêu này biểu hiện khả năng cho vay
của -NHNo&PTNT . Nếu tổng vốn huy động cao, khả năng cho vay của
NHNo&PTNT lớn và ngược lại.Tuy nhiên, cũng cần kết hợp với các chỉ tiêu định
lượng khác để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tín dụng. Như,nếu tổng vốn huy động
của NHNo&PTNT lớn, trong khi doanh số cho vay nhỏ, tốc độ tăng doanh số cho
vay chậm thì hiệu quả sử dụng vốn tín dụng của NHNo&PTNT thấp.
−Hiệu suất sử dụng vốn: Hiệu suất sử dụng vốn cho biết trong một đồng vốn
tại NHNo&PTNT cho vay là bao nhiêu. Tức là, chỉ tiêu này nói lên khả năng cho
vay vốn so với tổng nguồn vốn tại NHNo&PTNT . Hiệu suất sử dụng vốn càng cao
thì hiệu quả sử dụng vốn tín dụng của NHNo&PTNT càng cao và ngược lại. Tuy
nhiên, cũng cần kết hợp với các chỉ tiêu khác để đánh giá một cách tổng quát, không
chỉ dựa trên cơ sở chỉ tiêu này để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tín dụng của
NHNo&PTNT . Nếu chỉ dựa vào một chỉ tiêu này, đánh giá sẽ phiến diện, dễ dẫn đến
đánh giá sai.Ví dụ, tỷ lệ nợ quá hạn cao trong khi hiệu suất sử dụng vốn cũng cao thì
hiệu quả sử dụng vốn tín dụng của NHNo&PTNT chưa hẳn đã cao, thậm chí còn
thấp.
−Tỷ lệ nợ quá hạn: Chỉ tiêu này phản ánh về tình hình nợ quá hạn của
NHNo&PTNT trong quá trình cho vay. Chấp nhận một tỷ lệ nợ quá hạn nhất định
được coi như giới hạn an toàn. Theo khuyến nghị của Ngân hàng thế giới, tỷ lệ này
nên ở mức dưới 5% là có thể chấp nhận được.

Tuy nhiên, các chỉ tiêu này chưa phải là căn cứ tin cậy để đánh giá mức độ rủi
ro mà NHNo&PTNT đang phải đối mặt.Do đó để đánh giá chính xác hơn, người ta
phải dùng thêm chỉ tiêu “nợ khó đòi”.Đó là tổng số các khoản nợ có ít cơ hội đòi
được.
Sinh viên: Lê Trung Kiên
Lớp : KTNN 46A
16
Ngoài ra còn sử dụng thêm một số chỉ tiêu sau :
−Tỷ suất lợi nhuận/ Tài sản có (ROA): Chỉ số này giúp cho nhà quản lý thấy
được khả năng bao quát của NHNo&PTNT trong việc tạo ra thu nhập từ tài
sản có. Nói cách khác, ROA giúp các nhà quản lý xác định hiệu quả kinh
doanh của một đồng tài sản Có. ROA lớn chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng tốt, ngân hàng có cơ cấu tài sản hợp lý, có sự điều động linh hoạt
giữa các hạng mục trên tài sản Có trước những biến động của nền kinh tế. Nếu
ROA quá lớn, các nhà quản lý sẽ lo lắng vì rủi ro luôn song hành với lợi
nhuận. Vì vậy, việc so sánh ROA giữa các thời kỳ hạch toán đối chiếu với sự
di chuyển các loại tài sản Có giúp các nhà quản lý rủi ro rút ra nguyên nhân
thành công hay thất bại của ngân hàng.
−Lợi nhuận ròng / Tổng thu nhập: Chỉ số này cho biết hiệu quả của một đồng
thu nhập, đồng thời đánh giá hiệu quả quản lý thu nhập của ngân hàng. Nếu
chỉ số này cao chứng tỏ ngân hàng đã có những biện pháp tích cực trong việc
giảm chi phí, tăng thu nhập của ngân hàng.
−Tổng chi phí/ Tổng tài sản có : Chỉ số này xác định chi phí phải bỏ ra cho
việc sử dụng tài sản có. Chỉ số này cao chứng tỏ ngân hàng quản lý chi phí
kém hiệu quả, ngân hàng cần có những thay đổi cơ chế quản lý thích hợp để
nâng cao lợi nhuận ngân hàng trong kỳ tiếp theo.
−Tổng thu nhập/ Tổng tài sản có : Chỉ số này đo lường hiệu quả sử dụng tài
sản Có của ngân hàng. Chỉ số này càng cao chứng tỏ ngân hàng đã phân bổ tài
sản có một cách hợp lý, hiệu quả, tạo nền tảng cho việc tăng lợi nhuận của
NHNo&PTNT .

−Tổng giá trị tài sản bị rủi ro :Chỉ tiêu phản ánh tổng giá trị tài sản bị thiệt hại
do nhiều lần bị rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT .Thông
thường, chỉ tiêu này càng thấp thì mức độ rủi ro hoạt động tín dụng của
NHNo&PTNT càng nhỏ, hiệu quả tín dụng càng cao và ngược lại.
Sinh viên: Lê Trung Kiên
Lớp : KTNN 46A
17
−Tổng dư nợ/ Tổng tài sản Có: Chỉ số này tính toán hiệu quả sử dụng vốn tín
dụng của một đồng tài sản Có. Ngoài ra chỉ số này còn xác định quy mô hoạt
động kinh doanh của ngân hàng.
−Tỷ lệ dư nợ ngắn hạn/ Tổng dư nợ và Tỷ lệ dư nợ ngoài quốc doanh/ Tổng
dư nợ: Chỉ số này xác định cơ cấu tín dụng trong trường hợp tổng dư nợ được
phân theo thời hạn cho vay, theo đối tượng vay.
Mỗi loại chỉ tiêu nêu trên, trên từng góc độ nhất định đều phản ánh hiệu quả
sử dụng vốn tại NHNo&PTNT .Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà NHNo&PTNT vận
dụng chỉ tiêu nào để đánh giá trên từng góc độ khác nhau cho thích hợp và nhấn
mạnh chỉ tiêu này hay chỉ tiêu khác.
3.3.Sự cần thiết khách quan tăng cường hiệu quả sử dụng vốn tại
NHNo&PTNT
Mặc dù là ngân hàng quốc doanh, nhưng muốn tồn tại và phát triển,
NHNo&PTNT phải hoạt động có hiệu quả. Trong đó hoạt động sử dụng vốn là một
trong những hoạt động kinh doanh chủ yếu của NHNo&PTNT .Vì vậy, tăng cường
hiệu quả sử dụng vốn phải đảm bảo các nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, tăng cường hiệu quả sử dụng vốn do yêu cầu hoạt động kinh doanh
của NHNo&PTNT :
Tăng cường hiệu quả sử dụng vốn tại NHNo&PTNT là nhằm đảm bảo cho
NHNo&PTNT thực hiện tốt chức năng kinh doanh tiền tệ gắn liền với các nghiệp vụ
trong kinh doanh, đảm bảo ngân hàng tồn tại và phát triển. Để thực hiện được mục
tiêu này đòi hỏi NHNo&PTNT phải đảm bảo được các yêu cầu:
−Hoạt động sử dụng vốn tại NHNo&PTNT vừa phải đảm bảo tính khách

quan, phù hợp với các chức năng vốn có của ngân hàng trong nền kinh tế,
vừa phải thế hiện tính chủ quan, gắn hoạt động của NHNo&PTNT theo
định hướng của Nhà nước trong từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế.
−Đảm bảo những lợi ích hài hoà trong mối quan hệ với các ngân hàng, các
tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư, gắn liền với lợi
ích của Nhà nước.
Sinh viên: Lê Trung Kiên
Lớp : KTNN 46A
18
−Đảm bảo cho NHNo&PTNT thực thi các chính sách tiền tệ, tín dụng của
Ngân hàng Nhà nước một cách có hiệu quả, hoạt động kinh doanh có lãi…
−Đảm bảo cho NHNo&PTNT đề phòng, hạn chế được những rủi ro trong
kinh doanh có nguồn gốc từ nhiều phía đưa lại.
Thứ hai, tăng cường hiệu quả sử dụng vốn là đòi hỏi của phát triển nền kinh
tế- xã hội:
Lịch sử hình thành và phát triển kinh doanh ngân hàng cho ta thấy vai trò quan
trọng của nó trong nền kinh tế đặc biệt là nền kinh tế hàng hoá đang ngày càng phát
triển.Cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, kinh doanh ngân
hàng ngày càng phát triển nhằm cung cấp thêm các phương tiện giao dịch để đáp ứng
nhu cầu giao dịch trong xã hội. Trong điều kiện đó, tăng cường hiệu quả sử dụng vốn
là vấn đề ngày càng được quan tâm.
−Tăng cường hiệu quả sử dụng vốn làm cho hoạt động kinh doanh ngân
hàng ngày càng được mở rộng về khối lượng, đồng thời chất lượng cũng
ngày càng được nâng cao.
−Đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn là điều kiện để ngân hàng làm tốt chức
năng trung tâm thanh toán, vì khi chất lượng sử dụng vốn được đảm bảo sẽ
tăng vòng quay vốn tín dụng, nó tạo điều kiện cho ngân hàng làm tốt chức
năng trung gian tín dụng trong nền kinh tế quốc dân. Là cầu nối giữa tiết
kiệm và đầu tư, góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế.
−Tăng cường hiệu quả sử dụng vốn sẽ làm giảm tối thiểu lượng tiền thừa

trong lưu thông; nó góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng
trưởng kinh tế, tăng uy tín quốc gia. Đồng thời, thông qua các công trình
đầu tư vốn phát huy tác dụng, tạo ra những sản phẩm, dịch vụ cho nền kinh
tế, làm tăng uy tín quốc gia.
−Ngân hàng là một trong những công cụ để thực hiện các chủ trương của
Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tê- xã hội theo từng ngành, từng lĩnh
vực.Nâng cao chất lượng sử dụng vốn trên cơ sở tăng cường hiệu quả sử
dụng vốn sẽ góp phần tăng hiệu quả sản xuất xã hội, đảm bảo sự phát triển
Sinh viên: Lê Trung Kiên
Lớp : KTNN 46A
19
cân đối giữa các ngành, các vùng trong cả nước, ổn định và phát triển nền
kinh tế.
Hoạt động kinh doanh ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với nền kinh tế - xã
hội. Để có chất lượng hoạt động kinh doanh ngân hàng, hiệu quả sử dụng vốn ngoài
sự nỗ lực của bản thân NHNo&PTNT đòi hỏi nền kinh tế phải ổn định và phải có
một cơ chế, chính sách phù hợp, sự phối kết hợp nhịp nhàng có hiệu quả giữa các
cấp, các ngành tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Thứ ba, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của NHNo&PTNT :
Khi tăng cường hiệu quả sử dụng vốn không những nó có tác dụng với phát
triển nền kinh tế- xã hội, mà còn đảm bảo cho ngân hàng tồn tại và phát triển. Bởi vì,
thông qua nó:
−Là điều kiện mở rộng hoạt động kinh doanh ngân hàng làm tăng khả năng
cung cấp dịch vụ của NHNo&PTNT do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng
được vòng quay vốn và thu hút thêm được nhiều khách hàng bởi các hình
thức của sản phẩm, dịch vụ, tạo ra một hình ảnh tốt về biểu tượng và uy tín
của ngân hàng cùng sự trung thành của khách hàng.
−Tăng khả năng sinh lợi của các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng do giảm
được sự chậm trễ, giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý, các chi phí thiệt
hại do không thu hồi được vốn cho vay.Từ đó cải thiện được tình hình tài

chính của ngân hàng, tạo thế mạnh cho ngân hàng trong quá trình cạnh
tranh.
−Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tạo thuận lợi cho sự tồn tại lâu dài của
ngân hàng, cho phép ngân hàng có những khách hàng trung thành và
những khoản lợi nhuận bổ sung vốn đầu tư.
−Tăng cường hiệu quả sử dụng vốn sẽ góp phần củng cố mối quan hệ xã
hội của ngân hàng, điều đó cũng có ý nghĩa là tạo được môi trường thuận
lợi nhất cho hoạt động ngân hàng.
Từ phân tích trên, chuyên đề rút ra : Tăng cường hiệu quả sử dụng vốn tại
NHNo&PTNT là sự cần thiết khách quan, vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của
Sinh viên: Lê Trung Kiên
Lớp : KTNN 46A
20
NHNo&PTNT . Cũng chính vì vậy, tăng cường hiệu quả sử dụng vốn luôn luôn phải
được chú trọng trong quá trình phát triển – và trên một ý nghĩa là thường trực của quá
trình phát triển hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT .
4.Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn tại NHNo&PTNT :
4.1.Các nhân tố bên ngoài :
Có thể xếp thành 3 nhóm:
Nhóm thứ nhất, nhân tố kinh tế và quản lý vĩ mô:
Về phương diện tổng thể, nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động sử dụng vốn tại NHNo&PTNT .Nền kinh tế ổn định làm cho quá trình sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tiến hành bình thường, không bị ảnh hưởng
bởi các yếu tố lạm phát, khủng hoảng, làm cho khả năng sử dụng vốn thông qua hoạt
động tín dụng thanh toán, dịch vụ của NHNo&PTNT không biến động lớn và có khả
năng phát triển tốt. Trong trường hợp này hiệu quả sử dụng vốn phụ thuộc chủ yếu
vào khả năng tự bản thân NHNo&PTNT .
Tuy nhiên, để xã hội tồn tại và phát triển, đòi hỏi nền kinh tế phải có sự tăng
trưởng.Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, một số nước đã sử dụng mức lạm phát vừa
phải để tăng trưởng tín dụng, kích thích đầu tư.Giới hạn của mở rộng quy mô tín

dụng tới mức độ nào có ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn. Nếu mở rộng tín dụng
quá giới hạn cho phép sẽ làm tăng quá mức tổng phương tiện thanh toán, gây áp lực
lạm phát tốc độ cao. Trong trường hợp này, NHNo&PTNT sẽ chịu thiệt hại lớn do
giá trị đồng tiền giảm. Khi đó sử dụng vốn tuy tăng, nhưng hiệu quả sử dụng vốn sẽ
thấp. Ngoài ra, chính sách điều tiết kinh tế của Nhà nước nhằm ưu tiên hay hạn chế
sự phát triển của một ngành, một lĩnh vực nào đó để đảm bảo sự cân đối trong nền
kinh tế cũng ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng.
Hoạt động sử dụng vốn có hiệu quả hay không phụ thuộc chủ yếu vào công
tác huy động và cho vay vốn. Hay nói cách khác là phụ thuộc vào chất lượng khách
hàng.Các hoạt động nghiệp vụ của NHNo&PTNT nhịp cầu nối giữa hoạt động kinh
doanh của ngân hàng với hoạt động sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp.Do
đó, mỗi biểu hiện tốt hay xấu trong hoạt động của khách hàng sẽ có ảnh hưởng tương
Sinh viên: Lê Trung Kiên
Lớp : KTNN 46A
21
ứng tới hoạt động của ngân hàng thông qua các cơ chế tác động của thị trường.
Chẳng hạn, khi khách hàng sản xuất kinh doanh có lãi, có khả năng chiếm lĩnh thị
trường và có quan hệ tín dụng tốt thì cầu nối giữa đi vay và cho vay sẽ thống nhất,
tạo điều kiện tăng vòng quay tín dụng, mở rộng qui mô đầu tư. Bằng cơ chế chính
sách tín dụng phù hợp, NHNo&PTNT sẽ tìm kiếm được khách hàng tốt để cho vay,
tạo sự tương ứng hợp lý giữa nguồn vốn huy động với việc đáp ứng nhu cầu vay vốn
của khách hàng.
Chu kỳ phát triển kinh tế cũng có tác động tới hoạt động sử dụng vốn tại
NHNo&PTNT .Trong thời kỳ đình trệ sản xuất- kinh doanh bị thu hẹp, hoạt động sử
dụng vốn tại ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn trên cả hai phía huy động và sử dụng
vốn.Như, khi cần vốn để cho vay thì không huy động được, hoặc có khi huy động
được lại không cho vay được…gây nên tình trạng mất cân đối cung cầu và ngược lại.
Nhóm thứ hai, nhân tố xã hội :
Nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sử dụng vốn tại NHNo&PTNT là
các tác nhân trực tiếp tham gia quan hệ ngân hàng, đó là người gửi tiền vào ngân

hàng và người vay tiền, mở tài khoản thanh toán….
Quan hệ tín dụng, thanh toán hình thành trên cơ sở sự tín nhiệm, lòng tin.Điều
đó có nghĩa là hoạt động sử dụng vốn tại ngân hàng là sự kết hợp giữa 3 yếu tố : Nhu
cầu, khả năng và sự tin tưởng lẫn nhau giữa ngân hàng và khách hàng. Vì vậy, chất
lượng sử dụng vốn phụ thuộc vào cả 3 yếu tố: Khách hàng, ngân hàng và sự tín
nhiệm. Trong đó sự tín nhiệm là cầu nối mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng.
Ngân hàng có sự tín nhiệm càng lớn thì thu hút được lượng khách hàng càng
lớn.Khách hàng có tín nhiệm đối với ngân hàng thường được vay vốn dễ dàng và có
thể vay với lãi suất thấp hơn so với các hình thức khác. Tín nhiệm là tiền đề, đìều
kiện để không ngừng tăng cường hiệu quả sử dụng vốn.
−Về phía khách hàng : Là chủ thể đại diện cho bên cung về vốn đồng thời
cũng đại diện cho bên cầu về vốn vay.Với tư cách là người cùng sử dụng
vốn tín dụng, họ mong nhận được từ ngân hàng một khoản lãi từ tiền gửi
hay những dịch vụ thanh toán thuận tiện.Sự tín nhiệm của khách hàng đối
Sinh viên: Lê Trung Kiên
Lớp : KTNN 46A
22
với ngân hàng sẽ làm tăng thêm tính ổn định của nguồn vốn huy động để
đáp ứng nhu cầu của người vay.Với tư cách là người vay, họ mong muốn
nhu cầu vay vốn của mình được ngân hàng đáp ứng đầy đủ về số lượng
tiền, với thời hạn và lãi suất được xác định rõ ràng và có thể chấp nhận
được. Nếu nhu cầu vốn của khách hàng được chấp nhận với thái độ niềm
nở và thủ tục đơn giản sẽ thu hút được khách hàng tốt, tạo điều kiện cho
hoạt động sử dụng vốn được thuận lợi, hiệu quả kinh doanh ngân hàng sẽ
cao.
−Về phía ngân hàng: Là chủ thể đại diện cho bên cầu đặt ra với bên cung
thông qua việc huy động vốn để cho vay.Đồng thời ngân hàng cũng đại
diện cho bên cung qua việc cấp tín dụng.Qui mô và phạm vi hoạt động của
tín dụng phụ thuộc vào nguồn vốn tự có, vào khả năng huy động cũng như
uy tín và trình độ quản lý của ngân hàng ( trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ,

mạng lưới hoạt động, các công cụ quản lý kinh doanh…)
Ngoài những yếu tố trên, còn có những yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động sử
dụng vốn như: Đạo đức xã hội, trình độ dân trí..Bên cạnh đó sự biến động của tình
hình kinh tế, chính trị xã hội ở nước ngoài cũng có ảnh hưởng tới chất lượng sử dụng
vốn. Ngoài ra hoạt động sử dụng vốn tại NHNo&PTNT còn phụ thuộc nhiều vào các
yếu tố môi trường như thời tiết, dịch bệnh, bão, lũ lụt.. và các biện pháp bảo vệ cải
thiện môi trường sinh thái.
Nhóm thứ ba, nhân tố pháp lý :
Nhân tố pháp lý bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ,
thống nhất, kịp thời của các văn bản dưới luật. Đồng thời gắn liền với trình độ dân trí
quá trình chấp hành luật. Thực tiễn kinh tế thị trường hàng trăm năm qua có cơ sở để
kết luận rằng: Pháp luật là bộ phận không thể thiếu được của nền kinh tế thị trường
có sự điều tiết của Nhà nước.Không có pháp luật hoặc pháp luật không phù hợp thì
mọi hoạt động kinh tế sẽ không thể tiến hành trôi chảy được.Pháp luật là cơ sở pháp
lý để giải quyết các khiếu nại,tranh chấp có thể xảy ra, vì vậy nó có vị trí hết sức
quan trọng đối với hoạt động sử dụng vốn tại ngân hàng.Chỉ trong điều kiện các chủ
Sinh viên: Lê Trung Kiên
Lớp : KTNN 46A
23
thể tham gia quan hệ với ngân hàng tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh thì
hiệu quả hoạt động sử dụng vốn mới cao, hoạt động sử dụng vốn mới đem lại lợi ích
cho cả hai phía.
4.2.Các nhân tố bên trong :
Các nhân tố bên trong thường liên quan tới sự phấn đấu của bản thân ngân hàng
trên tất cả các mặt hoạt động kinh doanh và ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình sử dụng
vốn của NHNo&PTNT dưới các góc độ. Ta có thể nghiên cứu sự ảnh hưởng của nó
thông qua một số nhân tố sau :
* Nhân tố chính sách tín dụng:
Nhân tố này được nghiên cứu dưới giác độ huy động vốn và cho vay vốn.Có thể
nói chính sách tín dụng là kim chỉ nam đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi đúng

hướng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của NHNo&PTNT .Bởi
vì, hoạt động kinh doanh của ngân hàng chủ yếu là hoạt động tín dụng.Một chính
sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời
trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật, đường lối chính sách của Nhà nước và
đảm bảo công bằng xã hội. Điều đó cũng có nghĩa là chất lượng tín dụng phụ thuộc
vào chính sách tín dụng của NHNo&PTNT có được xây dựng đúng đắn hay không.
NHNo&PTNT muốn có chất lượng tín dụng cao phải có chính sách tín dụng rõ ràng,
thích hợp được tính toán chặt chẽ cả về huy động vốn và cho vay nhằm mục tiêu sử
dụng vốn hiệu quả.
* Công tác tổ chức của ngân hàng :
Tổ chức ngân hàng phải được sắp xếp một cách khoa học, đảm bảo sự phối hợp
chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban trong từng ngân hàng, trong toàn bộ hệ
thống ngân hàng, cũng như giữa ngân hàng với các cơ quan khác như tài chính, pháp
lý…Nó phải tạo điều kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng, giúp ngân hàng
theo dõi, quản lý sát sao các khoản cho vay, các khoản huy động vốn, thực hiện tốt
các dịch vụ ngân hàng.Đây là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ hoạt động sử dụng
vốn lành mạnh và có hiệu quả.
Sinh viên: Lê Trung Kiên
Lớp : KTNN 46A
24
* Chất lượng nhân sự:
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động nghiệp vụ và
quản lý kinh doanh ngân hàng.Xã hội ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng nhân sự
ngày càng cao để có thể đáp ứng kịp thời, có hiệu quả các yêu cầu cao trong huy
động vốn, đầu tư và các dịch vụ với các tình huống khác nhau của hoạt động sử dụng
vốn.Việc tuyển chọn nhân sự có đạo đức nghề nghiệp tốt và giỏi về chuyên môn ( có
năng lực phân tích và xử lý đơn xin vay, đánh giá tài sản thế chấp, giám sát số tiền
cho vay ngay từ khi cấp tiền vay cho tới khi thu hồi được nợ hoặc xử lý xong món nợ
theo chính sachs cho vay của ngân hàng, hoặc thực hiện công tác thanh toán, dịch vụ
ngân hàng…) sẽ giúp cho ngân hàng có thể ngăn ngừa được những sai phạm có thể

xảy ra khi thực hiện các hoạt động sử dụng vốn.
* Công tác thông tin:
Thông tin có vai trò quan trọng trong hoạt động sử dụng vốn.Nhờ có thông tin,
người quản lý có thể đưa ra quyết định cần thiết có liên quan đến huy động và cho
vay vốn hay không ? Theo dõi và quản lý các tài khoản như thế nào? Thực hiện các
dịch vụ ra sao?..Thông tin có thể thu được từ những nguồn sẵn có ở ngân hàng ( Hồ
sơ vay vốn, thông tin giữa các tổ chức tín dụng, nghiên cứu, phân tích của các cán bộ
ngân hàng..) từ khách hàng, từ các cơ quan chuyên về thông tin tín dụng trong và
ngoài nước, từ các nguồn thông tin khác ( báo, đài..).Số lượng, chất lượng của thông
tin thu nhận được có liên quan đến mức độ chính xác trong việc phân tích, nhận định
tình hình thị trường, khách hàng...để đưa ra những quyết định phù hợp.Vì vậy, thông
tin càng đầy đủ, nhanh nhạy, chính xác và toàn diện thì tạo ra khả năng hoạt động sử
dụng vốn tại NHNo&PTNT càng có hiệu quả.
* Kiểm soát nội bộ:
Đây là biện pháp giúp cho Ban lãnh đạo ngân hàng có được bức tranh về tình
trạng hoạt động kinh doanh nhằm duy trì có hiệu quả các hoạt động kinh doanh đang
được xúc tiến, phù hợp với các chính sách, đáp ứng được các mục tiêu đã định.
Trong lĩnh vực hoạt động tạo vốn, hoạt động kiểm soát bao gồm :
Sinh viên: Lê Trung Kiên
Lớp : KTNN 46A
25

×