Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tlch học thuyết lênin về bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.26 KB, 21 trang )

HỌC THUYẾT LÊNIN VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
?
HỌC THUYẾT LÊNIN VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA là hệ thống luận điểm của Lênin V. I. (V. I. Lenin) về
sự nghiệp bảo vệ và phát triển những thành quả của chủ
nghĩa xã hội, bảo vệ an ninh, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ của đất nước, chống mọi âm mưu và hành động phá
hoại, xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản
động quốc tế.

HỌC THUYẾT LÊNIN VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA là hệ
thống luận điểm của V. I. Lenin về sự nghiệp bảo vệ và phát triển
những thành quả của CNXH, bảo vệ an ninh, độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, chống mọi âm mưu và hành động
phá hoại, xâm lược của chủ nghãi đế quốc và các thế lực phản động
quốc tế. Phát triển tư tưởng của Mac - Enghen (Marx - Engels) về
tính tất yếu phải bảo vệ thành quả cách mạng vơ sản sau khi giành
được chính quyền, Lênin đã chứng minh việc bảo vệ tổ quốc như
một quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong khi chủ nghĩa
đế quốc cịn tồn tại và ln tìm cách bóp chết các nhà nước non trẻ
của giai cấp vơ sản. Lênin nhấn mạnh rằng: "một cuộc cách mạng
chỉ có giá trị khi nào nó biết tự bảo vệ". Những luận điểm chủ yếu
của học thuyết là: bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa bằng mọi biện
pháp quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao, vv.; xây dựng thành
cơng chủ nghĩa xã hội về mọi mặt là tạo điều kiện cơ bản cho công
cuộc bảo vệ tổ quốc; sẵn sàng về quân sự, xây dựng một quân đội
kiểu mới của giai cấp vơ sản, chính quy, hiện đại trên cơ sở vũ trang
toàn dân; xây dựng liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân và
giai cấp nông dân; kết hợp đúng đắn nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ
quốc tế; toàn bộ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc xã hội chủ
nghĩa phải đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản và được thể chế


hoá thành nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi công dân. Giá trị to lớn của
học thuyết này đã được chứng minh bằng thắng lợi của Liên Xô đối
với chủ nghĩa phát xít (1941 - 45), và qua những cuộc kháng chiến
của Triều Tiên, Cuba, Việt Nam chống đế quốc xâm lược.
Ngày nay, chủ nghĩa đế quốc, các lực lượng phản động quốc
tế đang ra sức phá hoại các nước xã hội chủ nghĩa và các nước dân
tộc chủ nghĩa, nhằm mục tiêu xoá bỏ chủ nghĩa xã hội bằng mọi
thủ đoạn kinh tế, chính trị, tư tưởng, như thực hiện diễn biến hồ
bình, đồng thời vẫn tiếp tục chuẩn bị chiến tranh xâm lược khi có
điều kiện. Hơn bao giờ hết, HTLVBVTQXHCN càng có ý nghĩa chỉ đạo
thực
tiễn
sâu
sắc.
1


2


TƯ TƯỞNG
Những vấn đề lý luận và thực tiễn | Thi đua yêu nước | Sinh hoạt tư
tưởng | Báo chí, xuất bản
Một số vấn đề về vận dụng tư tưởng Lênin trong đổi
mới kinh tế ở Việt Nam
15:2' 9/7/2008

Có thể nói rằng, sự sụp đổ của Đơng âu xã hội chủ
nghĩa và Liên Xơ; sự trì trệ, khủng hoảng ở các nước
xã hội chủ nghĩa cịn lại (trong đó có Việt Nam trước

năm 1986)…
với “mơ hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô viết” về cơ bản không
phải là do làm theo tư tưởng của V.I.Lênin, trái lại là đã “bỏ
qua” những tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội, nhất là
về thời kỳ quá độ bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa… từ một nước tiểu nông đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sự sụp đổ và khủng hoảng nặng nề của hệ thống xã hội chủ
nghĩa trên thế giới vào cuối thế kỉ XX đã làm “mang tiếng”
(xấu) cho chủ nghĩa xã hội, cho học thuyết Mác-Lênin nói
chung và cho những tư tưởng của V.I.Lênin nói riêng.
Cũng có thể khái quát gọn rằng: Về cơ bản, “những thành tựu
to lớn và có ý nghĩa lịch sử”(1) của hơn 20 năm Đổi
mới ở Việt Nam là nhờ “trở lại” vận dụng và phát triển đúng
đắn, sáng tạo nhiều quan điểm của V.I.Lênin - đặc biệt là
những quan điểm của Người thời kỳ “chính sách kinh tế mới”
(NEP thực chất là quan điểm của Lênin ngay từ 1918).
Chỉ cần nêu một số vấn đề với ý nghĩa “trọng tâm” sau đây
theo cách so sánh trước Đổi mới và Đổi mới ở Việt Nam thì ta
cũng đủ rõ về sự “trở lại” nêu trên; đồng thời minh chứng cho
quan điểm nhận định của Đảng ta qua Đại hội X, rằng: trong
quá trình Đổi mới, “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn”(2).
1. Quan điểm của V.I.Lênin về “bước quá độ từ chủ nghĩa tư
bản sang chủ nghĩa xã hội là thế nào”... và ý nghĩa của việc
chúng ta tự gọi mình là nước cộng hồ xã hội chủ nghĩa””...
(3).
Đó là: “tính chất q độ của nền kinh tế ấy”…; danh từ nước
3



Cộng hồ xã hội chủ nghĩa… có nghĩa là chính quyền Xô viết
quyết tâm thực hiện bước chuyển lên chủ nghĩa xã hội, chứ
hồn tồn khơng có nghĩa là đã thừa nhận chế độ kinh tế
hiện nay là chế độ xã hội chủ nghĩa”(4).
Trước Đổi mới, Quốc hội ta năm 1976, sau khi thống nhất đất
nước đã chưa chú trọng giải thích việc đổi tên nước ta
từ “Việt Nam dân chủ cộng hoà” thành “Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam” theo quan điểm V.I.Lênin cho nên đã
có quan điểm chủ quan, nóng vội, duy ý chí, cho rằng ta “đã
là nước xã hội chủ nghĩa”. Thậm chí cịn cho rằng, thành tựu
của chúng ta là đã “chuyển từ một nền kinh tế nông nghiệp
hết sức lạc hậu sang chế độ xã hội chủ nghĩa một cách nhanh
gọn”(5).
Từ Đổi mới, Đảng ta đã từng bước “trở lại” với quan điểm
V.I.Lênin và xác định rõ là ta chưa thể có chế độ xã hội chủ
nghĩa hoàn thiện mà mới ở “chặng đường đầu tiên là một
bước quá độ nhỏ trong bước quá độ lớn”(6) của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội - đúng như V.I.Lênin đã chỉ rõ. Người
còn giải thích rằng: đó chưa phải là chủ nghĩa xã hội, nhưng
đó là những cái cần thiết… để tiến hành công việc xây dựng
chủ nghĩa xã hội(7).
2. Quan điểm của V.I.Lênin về “các thành phần kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”
Theo V.I.Lênin, kết cấu “kinh tế quá độ” là gồm “những thành
phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và
chủ nghĩa xã hội”(8): “1/ kinh tế nơng dân… có tính chất tự
nhiên. 2/ sản xuất hàng hoá nhỏ (… đại đa số nông dân…). 3/
chủ nghĩa tư bản tư nhân. 4/ chủ nghĩa tư bản nhà nước. 5/
chủ nghĩa xã hội(9). Có nghĩa: “kinh tế quá độ” phải là kinh
tế nhiều thành phần.

Trước Đổi mới, ở Việt Nam về cơ bản và thực chất chỉ
có kinh tế “2 thành phần” là quốc doanh và tập thể – tức
là chưa vận dụng đúng đắn quan điểm của V.I.Lênin, do đó
đã hạn chế rất nhiều năng lực sản xuất - kinh tế của toàn xã
hội, tạo nên trì trệ, khủng hoảng kinh tế xã hội…
Từ Đổi mới, Đảng ta đã “trở lại” vận dụng đúng đắn, sáng tạo
quan điểm của V.I.Lênin nêu trên: Dứt khốt từ Đại hội VI,
VII, trên cả nước ta có “nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần”(10).
Khái niệm chung – bao quát có ý nghĩa phương pháp luận
của duy vật biện chứng là: “Nhiều thành phần” (chứ không
“rập khuôn” 5 thành phần – như V.I. Lênin). Quả nhiên, sau
4


đó có một số thành phần kinh tế mới nảy sinh trong thực tiễn
(như “kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài…).
3. Quan điểm của V.I.Lênin về kinh tế hàng hố, thương mại
và động lực lợi ích kinh tế trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Theo V.I.Lênin, trong chủ nghĩa xã hội, nhất là thời kỳ quá
độ, sau khi nhân dân ở nhiều thành phần kinh tế, nhiều cơ sở
sản xuất kinh doanh đã nộp thuế – làm nghĩa vụ xã hội – thì
nhân dân và các cơ sở sản xuất kinh doanh có quyền trao đổi
trên thị trường qua quan hệ “trao đổi hàng hoá” hoặc “hàng
hoá - tiền tệ”. Khi nhận thức rõ hơn về “kinh tế hàng hố”,
V.I.Lênin cịn nhấn mạnh rằng: “hiện nay chế độ trao đổi
hàng hố đã tỏ ra khơng phù hợp với tình hình thực tế… mà
lại là lưu thơng tiền tệ, mua bán bằng tiền mặt. Sự thật đã
chứng minh điều đó… chỉ có trên cơ sở hạch tốn thương
nghiệp ta mới có thể xây dựng được nền kinh tế”…; “Nhà

nước điều tiết thương nghiệp và lưu thông tiền tệ… là con
đường duy nhất có thể đi theo đối với chúng ta”(11). Thậm
chí V.I.Lênin cịn đặc biệt cảnh tỉnh rằng: “… tìm cách ngăn
cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của sự trao đổi tư
nhân … là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp
dụng nó”(12).
Chính qua kinh tế hàng hố, thương mại, trao đổi trên
thị trường mà V.I.Lênin đặc biệt chú ý động lực lợi ích kinh
tế đối với người lao động và các doanh nghiệp. Người nhấn
mạnh: “cái khó là ở chỗ tạo ra được sự quan tâm thiết thân
của cá nhân… khiến họ thiết tha với việc phát triển sản
xuất”; và, “phải xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cơ sở sự
quan tâm thiết thân của cá nhân”(13); “làm cho nhân dân
yên tâm, hăng hái hơn trong sản xuất, và đó chính là điều
chủ yếu”(14).
Trước Đổi mới, có thể nói, ở Việt Nam về cơ bản là chưa
có “kinh tế hàng hố” và “thị trường” và chưa có động lực
lợi ích trong sản xuất, nhất là lợi ích cá nhân người lao động.
Đó là nhận thức và làm chưa đúng quan điểm của V.I.Lênin
về “kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội”. Đó cũng là một
trong những ngun nhân gây trì trệ, khủng hoảng kinh tế xã hội.
Từ Đổi mới, Đảng ta thể hiện rõ và dứt khoát “trở lại” với
quan điểm V.I.Lênin về “kinh tế hàng hoá”, về “thương mại”,
về “thị trường”…, về “khốn” – khuyến khích lợi ích; về làm
giàu chính đáng và xố đói, giảm nghèo…
Từ cơ chế

“nhiều

giá”


do

Nhà nước
5

quản

lý – “ra


lệnh” và giá cả không phản ánh đúng giá trị hàng hoá, giá
“bao cấp” v.v… đến cơ chế: giá cả hàng hoá chủ yếu do giá
trị hàng hoá và thị trường quy định. Từ “ngăn sông cấm
chợ”… đến mở rộng thị trường các loại…; thực sự khuyến
khích sản xuất, kinh doanh. Từ phân phối bình quân – bao
cấp đến thực sự phân phối theo lao động và các thu nhập
chân chính… Đấy là việc làm đúng quy luật kinh tế, tạo động
lực cho sản xuất và kinh tế thị trường; từng bước hình thành
“thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (có
vai trị “quản lý vĩ mô” của Nhà nước xã hội chủ nghĩa). Thực
tiễn đổi mới này có tác động rất quyết định cho việc ổn định,
phát triển sản xuất, kinh tế, đời sống một cách nhanh, bền
vững và về cơ bản là đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
4. Quan điểm của V.I.Lênin về sử dụng những thành tựu và
chuyên gia của chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Một số người đã hiểu lầm hoặc xuyên tạc khi cho rằng:
“V.I.Lênin chỉ có chống và phủ nhận chủ nghĩa tư bản”.
Song sự thực không phải như vậy. Thái độ của V.I.Lênin khi

xem xét chủ nghĩa tư bản là thái độ hết sức biện chứng. Dưới
đây là một vài trong số hàng trăm luận điểm đó của Người:
“Khơng có kỹ thuật đại tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên
những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại, khơng có
một tổ chức nhà nước có kế hoạch khiến cho hàng chục triệu
người phải tn theo một cách nghiêm ngặt… thì khơng thể
nói đến chủ nghĩa xã hội được”(15); “chủ nghĩa tư bản độc
quyền – nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho
chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã
hội…”(16), và, “chủ nghĩa tư bản tư nhân… đóng vai trị trợ
thủ cho chủ nghĩa xã hội…; đó là một sự thật kinh tế hồn
tồn khơng thể chối cãi được”(17) v.v…
Còn, việc cần phải sử dụng các chun gia tư sản
thì V.I.Lênin cũng có rất nhiều quan điểm rõ ràng và đúng
đắn. Ví dụ: “Một người cộng sản thông minh không sợ phải
học một nhà tư bản”; chúng ta phải “nhận ra những chuyên
gia nào chân thật và tận tâm, và tính tổng cộng, sử dụng
được hàng nghìn, hàng vạn chuyên gia quân sự…; đối với các
kỹ sư, các giáo viên, chúng ta làm việc này còn rất kém…
Chúng ta cũng sẽ học cách làm của các thương gia kinh tế…,
các người trung gian làm việc cho nhà nước…, với các chủ xí
nghiệp…”; “chớ nên suy tính về “học phí”, chớ có sợ phải trả
đắt, miễn là thu được kết quả tốt”(18). Và, điều kiện cơ bản
nhất để những người cộng sản không ngần ngại với chủ nghĩa
6


tư bản, với chuyên gia tư sản… thì V.I.Lênin nhấn mạnh đó là:
“Chúng ta thể hiện càng đầy đủ nhà nước xã hội chủ nghĩa
và chun chính vơ sản…” (chứ không phải theo đuôi chủ

nghĩa tư bản, chuyển sang chủ nghĩa tư bản).
Trước Đổi mới, Việt Nam hầu như không giao lưu, học hỏi,
hợp tác kinh tế, khoa học, văn hoá… với các nước tư bản chủ
nghĩa (chỉ hợp tác trong “phe xã hội chủ nghĩa” – khối SEP);
cũng rất ít, thậm chí ngại ngần và chưa tin tưởng… khi sử
dụng các nhà tư sản, các loại chuyên gia tư sản. Đó là việc
làm khơng đúng với tư tưởng của V.I.Lênin, làm hạn chế rất
nhiều tiềm năng nội và ngoại lực để xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Đó cũng là một trong những nguyên nhân tạo ra trì trệ,
khủng hoảng kinh tế - xã hội…
Từ Đổi mới Đảng và Nhà nước ta đã “trở lại” vận dụng đúng
đắn, sáng tạo các quan điểm nêu trên của V.I.Lênin… với
hệ thống các quan điểm mới về chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa tư bản; về những biểu hiện mới của chủ nghĩa
tư bản và của thời đại hiện nay; với những quan điểm mới về
“mở rộng kinh tế đối ngoại” – nhất là sau khi Đông âu và Liên
Xô sụp đổ. Quan điểm tổng quát nhất mang ý nghĩa chủ đạo
là: Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các
nước, các đối tác… trên cơ sở tôn trọng, bình đẳng, cùng có
lợi. Cùng với đó là tư duy mới cụ thể và đúng đắn hơn về “bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư
bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà
nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt
về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”(19).
Mới đây trong Nghị quyết Trung ương 6 khoá X về “Tiếp tục
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN”
Đảng ta đã khẳng định: “Sau hơn 20 năm đổi mới nước ta
chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập

trung quan liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Đây chính là một trong những thành tựu nổi bật
của cơng cuộc đổi mới... Nhận thức và tư duy kinh tế đã cơ
bản đổi mới, được vận dụng vào xây dựng đường lối của
Đảng. Đường lối đổi mới của Đảng đã được thể chế hoá thành
Hiến pháp, pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN hình thành và phát triển. Chế độ
sở hữu và cơ cấu thành phần kinh tế được đổi mới cơ bản, từ
sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, kinh tế quốc doanh và kinh
tế tập thể là chủ yếu chuyển sang nhiều hình thức sở hữu,
7


nhiều thành phần kinh tế, đan xen, hỗn hợp, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trị chủ đạo... Các loại thị trường cơ bản đã
ra đời và từng bước phát triển thống nhất trong cả nước, gắn
với thị trường khu vực và thế giới...(20).
Vì vậy, trong hội nhập quốc tế, Việt Nam đã đạt nhiều thành
quả đáng khích lệ khi lấy “nội lực” làm cơ sở quyết định nhất
để mà sử dụng “ngoại lực” (chủ yếu là của chủ nghĩa tư bản
và các chuyên gia tư sản các nước) đóng góp phần quan
trọng cho ổn định, phát triển đất nước nhanh, bền vững và về
cơ bản vẫn là đúng định hướng xã hội chủ nghĩa./.

Chủ Nhật 20/6/2010 6:06:58pm
Lý luận - Thực tiễn
Nhân kỷ niệm lần thứ 140 Ngày sinh V.I. Lênin (22-4-1870
– 22-4-2010)
:
V.I.Lênin nói về tư cách, đạo đức của người đảng viên của đảng cầm

quyền
17:3' 9/4/2010

Chào đời năm 1870, năm 1894 khi mới 24 tuổi Lênin đã gia nhập
Đảng Xã hội dân chủ Nga, rồi trở thành người tổ chức và lãnh đạo
cách mạng Nga. Năm 1905 Lênin tham gia lãnh đạo cách mạng tư
sản dân chủ Nga, 12 năm sau Lênin và Đảng cộng sản lãnh đạo
cách mạng tháng 10 Nga thành công, sáng lập nhà nước công nông
8


đầu tiên trên thế giới, sáng lập Quốc tế Cộng sản, mở ra trang sử
mới cho cách mạng vô sản thế giới phát triển.
V.I.Lênin trở thành lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản và các dân tộc
bị áp bức trên thế giới.
Kế tục sự nghiệp của Mác-Ăngghen, V.I.Lênin đã đấu tranh kiên
quyết để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác, giải quyết đúng
đắn các vấn đề về lý luận và thực tiễn cho cuộc cách mạng vô sản
trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa lũng đoạn toàn thế giới và nêu ra
những vấn đề cơ bản của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa và phụ thuộc.
V.I.Lênin đã đấu tranh kiên quyết bảo vệ tinh thần cách mạng của
chủ nghĩa Mác-Lênin, chống lại sự xuyên tạc của bọn cơ hội
chủ nghĩa và phát triển thiên tài cả ba bộ phận hợp thành của
chủ nghĩa Mác (triết học - kinh tế chính trị học - chủ nghĩa
xã hội khoa học) giải quyết đúng đắn về lý luận, thực tiễn các vấn
đề đặt ra trong cách mạng vơ sản tồn thế giới.
Hai năm sau khi cách mạng tháng 10 Nga thành công, năm 1919
V.I.Lênin đã cùng các lãnh tụ cách mạng các nước lập nên Quốc
tế Cộng sản 3 để lãnh đạo phong trào cách mạng thế giới.

Là người sáng lập Đảng cộng sản (B) Nga. Lênin nói "giành chính
quyền đã khó việc giữ chính quyền lại càng khó hơn", nên V.I.Lênin
đặc biệt quan tâm đến vai trị của cán bộ, đảng viên Liên-xơ khi
Đảng cầm quyền, Người đã có những lời dạy cụ thể, nêu ra những
yêu cầu thiết thực về tư cách, đạo đức của người cán bộ, đảng viên
phải phấn đấu, rèn luyện trong thực tiễn hoạt động cách mạng đang
còn nhiều khó khăn, đầy rẫy thù trong giặc ngồi.
V.I.Lênin đã dạy: Trước hết, người cán bộ, đảng viên Đảng cộng sản
phải là người có giác ngộ về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, có lịng
trung thành vơ hạn với chủ nghĩa Mác, với sự nghiệp cách mạng của
giai cấp vô sản, suốt đời phấn đấu hy sinh cho sự nghiệp của giai
cấp vơ sản, vì hạnh phúc của nhân dân lao động".
Khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, người đảng viên phải luôn
luôn rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng, trung
thành với lý tưởng cộng sản, chấp hành đầy đủ đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của nhà nước Xô Viết.
Đảng viên phải đảm đương trọng trách quản lý đất nước, quản lý xã
hội, biết tự mình làm gương cho quần chúng lao động thấy một mẫu
mực về lịng trung thành đối với lợi ích của những người lao động,
hết lòng hết sức phục vụ giai cấp vô sản, phục vụ nhân dân lao
động trong nước, ủng hộ cách mạng vô sản trên thế giới.

9


Người đảng viên của Đảng cầm quyền phải là người có năng lực
hồn thành tốt nhiệm vụ được giao. Năng lực là trình độ hiểu biết,
nắm vững quy luật phát triển của sự vật để cải tạo sự vật, là trình
độ nhận thức lý luận và vận dụng lý luận vào thực tiễn công tác, là
khả năng chuyên môn, là bản lĩnh trong hoạt động thực tiễn để

hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Phải có ý thức tổ chức và kỷ luật cao, Đảng mạnh là nhờ có tổ chức
mạnh, tính tổ chức và kỷ luật nghiêm minh, chặt chẽ. Lênin xác
định Tính tổ chức là sự thống nhất của hành động thực tiễn". Cán
bộ, đảng viên phải quan hệ mật thiết với quần chúng, chăm lo lợi
ích của nhân dân, phát huy năng lực và trí tuệ của họ, tìm kiếm
trọng dụng và đề bạt nhân tài trong quần chúng vào các cương vị
lãnh đạo, quản lý nhà nước, tơn trọng quyền làm chủ của mọi người.
Chỉ có qua việc thực hiện nhiệm vụ của Đảng giao cho, qua
hoạt động trong tổ chức đảng, chỉ có "Tắm mình trong phong trào
quần chúng, sử dụng vũ khí tự phê bình và phê bình", người cán bộ,
đảng viên mới trưởng thành, được tơi luyện, và mới có được những
phẩm chất cao quý tốt đẹp.
Theo Lênin, để trở thành người cán bộ, đảng viên "Sống trong lòng
quần chúng" phải là người cán bộ của quần chúng, do quần chúng
và phục vụ lợi ích của nhân dân; muốn thế cán bộ phải là người đủ
phẩm chất, năng lực, đủ cả đức và tài suốt đời phục vụ nhân dân.
Để có đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ năng lực đem lại cuộc sống tốt
đẹp cho nhân dân, xây dựng quốc gia lớn mạnh, trong quá trình xây
dựng đội ngũ cán bộ nâng cao các tổ chức Đảng phải kiên quyết
đấu tranh "không khoan nhượng" với tệ quan liêu, tham nhũng, kiên
quyết chống hiện tương khơng dứt khốt, khơng rành mạch về
nhiệm vụ được giao cho mỗi người và chống cả tình trạng hồn tồn
vơ trách nhiệm do hiện tượng đó gây ra. Trở thành Đảng cầm
quyên, Đảng phải xây dựng những con người của bộ máy nhà nước,
xây dựng thành đội ngũ cán bộ thật sự gương mẫu và vững mạnh,
nắm vững quan điểm: "quyền lực của cán bộ thực chất là quyền lực
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động. "Nhân dân trao cho cán
bộ sử dụng quyền lực Nhà nước để quản lý, tổ chức xây dựng xã hội
mới, để phục vụ nhân dân. Cán bộ phải chịu trách nhiệm về vận

mệnh phát triển của dân tộc, sự phồn vinh của đất nước, cuộc sống
hạnh phúc của nhân dân. Nếu cán bộ thiếu đức, thiếu tài, không tận
tâm, tận lực phấn đấu vì hạnh phúc của nhân dân, lãnh đạm, bàng
quan, thờ ơ, thiếu trách nhiệm trước tâm tư, tình cảm, cuộc sống và
quyền lợi của nhân dân thì khơng thể có được lịng tin nơi quần
chúng.

10


Nói về vai trị vĩ đại của V.I.Lênin với cách mạng thế giới và nước
ta, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc trước đây và chủ tịch Hồ Chí Minh của
chúng ta sau này đã có những nhận định rất đúng đắn khách quan
và kính phục. Ngay từ giữa tháng 7-1920 đọc báo Nhân đạo của
Đảng xã hội Pháp đăng bài "Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc
địa của "Lênin" đã gây xúc động lớn đến Người, trong luận cương ấy
có những chữ chính trị khó hiểu, nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần,
cũng hiểu được phần chính luận cương của Lênin làm cho Người rất
cảm động, phấn khởi sáng tỏ, tin tưởng biết bao, vui mừng đến phát
khóc lên... từ đó Người hồn tồn theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ 3
(cuối năm 1920 Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng cộng sản Pháp).
Hơn 32 năm sau, khi đã là Chủ tịch Đảng Lao động Việt Nam, Chủ
tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hồ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có
bài viết đăng trên báo Nhân dân ngày 24-1-1952 tại Việt Bắc đánh
giá rõ về vai trò vĩ đại của Lênin vị lãnh tụ thiên tài của Cách mạng
thế giới:
"Lênin là người thực hiện và phát triển chủ nghĩa Mác-Ăngghen,
là Người cha của cách mạng vô sản và cách mạng dân tộc giải
phóng. Lênin là người đào tạo ra những chiến sĩ cách mạng khắp
thế giới, chẳng những bằng lý luận cách mạng khoa học nhất,

mà còn bằng đạo đức cách mạng cao cả nhất”. V.I.Lênin là Người
thầy vĩ đại nhất của giai cấp vơ sản tồn thế giới.
Tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen được hình thành từ cuộc
đấu tranh của gia cấp vô sản chống gia cấp tư sản và chủ nghĩa tư
bản đầu thế kỷ XIX trên cả hai địa hạt lý luận và thực tiễn với tinh
thần phê phán và cách mạng, C.Mác, Ph.Ăngghen đã xây dựng nên
cơ sở thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng cho
việc hình thành quan niệm khoa học mới về chính trị. Chính trị là
vấn đề giai cấp, quan hệ giai cấp, đấu tranh giai cấp và đỉnh cao
của cuộc đấu tranh này là đấu tranh giành quyền lực cho một giai
cấp nhất định. Bước ngoặt của đấu tranh chính trị là sự bùng nổ
cách mạng xã hội, giành lấy chính quyền nhà nước, lật đổ chế độ cũ
và thiết lập chế độ mới. Chính trị là vấn đề quyền lực, biểu hiện trực
tiếp là quyền lực nhà nước và tính hiện thực của quyền lực lại là lợi
ích, mà trước hết là lợi ích kinh tế. Từ hoạt động thực tiễn và lý luận
mà Mác và Ăngghen ngày càng thấy rõ hơn về vị trí và tầm quan
trọng của vấn đề dân chủ trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
chống lại giai cấp tư sản và toàn bộ chế độ tư bản. Ăngghen cho
rằng đó chính là q trình xây dựng một chế độ dân chủ mới. Bởi vì,
“Trước hết, nó tạo ra một chế độ dân chủ và nhờ đó mà trực tiếp
hay gián tiếp tạo ra quyền thống trị của giai cấp vô sản”. Mác và
11


Ăngghen đã xác định những vấn đề có tính ngun tắc về dân chủ
trong chính đảng của gia cấp vơ sản. Trong các nguyên tắc ấy có
nguyên tắc bảo đảm dân chủ và tập trung dân chủ trong quá trình
xây dựng tổ chức chính đảng của gia cấp vơ sản. Tập trung dân chủ
trở thành một trong những nguyên tắc có tầm quan trọng hàng đầu
trong việc xây dựng chính đảng nhằm tập hợp, đồn kết giai cấp vơ

sản trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản.
Bàn về chống quan liêu, tham nhũng theo Mác là lợi ích của các giai
cấp thống trị áp bức và bóc lột, những lợi ích vật chất của giai cấp
tư sản quện rất chặt với việc duy trì bộ máy rộng lớn, tha hóa lao
động, tha hóa quyền lực là nguồn gốc của quan liêu, tham nhũng.
Biện pháp chủ yếu để chống quan liêu, tham nhũng là khắc phục sự
tha hóa là việc cải tạo lại xã hội theo nguyên tắc của chủ nghĩa
cộng sản trong đó có xóa bỏ nhà nước của giai cấp áp bức bóc lột
xây dựng nhà nước kiểu mới của giai cấp vô sản.
Trước hết Lênin đã bảo vệ thành cơng chủ nghĩa Mác nói chung và
tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác nói riêng trước sự xuyên tạc
và phản bội của chủ nghĩa cơ hội và xét lại. Đồng thời, tiếp tục phát
triển tư tưởng và làm phong phú và sâu sắc thêm những kiến giải lý
luận của chủ nghĩa Mác trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư
bản, giải phóng gia cấp vơ sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong
điều kiện lịch sử mới. Chính trị theo Lênin, là mối quan hệ giữa các
giai cấp tầng lớp người trong xã hội và là cuộc đấu tranh giữa họ để
giành, giữ và thực thi quyền lực. Kinh tế là nguồn gốc của chính trị
và là nhân tố quyết định chính trị; Nguyên lý căn bản của mối quan
hệ giữa kinh tế và chính trị là: “ Chính trị là sự biểu hiện tập trung
của kinh tế” “ Chính trị tức là kinh tế được cơ đọng lại” “ Chính trị
khơng thể khơng chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế”. Chính trị ở
trong kinh tế và, ngược lại, kinh tế thâm nhập vào chính trị.
Lênin ln quan tâm đến vị trí hàng đầu của vấn đề dân
chủ và cuộc đấu tranh vì dân chủ trong tiến trình cách mạng của
giai cấp vơ sản “ khơng có con đường nào khác dẫn đến chủ nghĩa
xã hội, ngoài cách kinh qua chế độ dân chủ, qua tự do chính trị”. Sự
phát triển của chế độ dân chủ một cách đầy đủ, theo Leenin, có
nghĩa là làm cho toàn thể quần chúng nhân dân tham gia thực sự
bình đẳng và thực sự rộng rãi vào mọi công việc nhà nước. Thực

hành dân chủ đến cùng, phát triển đến cùng các hình thức, các
phương pháp thực hành dân chủ…
Bàn về quan liêu, tham ô, hối lộ và lãng phí Lênin chỉ rõ tham ơ hối
lộ là một trong những kẻ thù trực diện, nguy hiểm của mỗi đảng
viên Bơnsêvích và Người đề cao vị trí, vai trị của tiết kiệm và phịng
chống lãng phí. Biện pháp để chống nạn quan liêu tư sản là xóa bỏ
nền quan liêu tư sản, xóa bỏ nhà nước và chế độ tư sản và thay thế
12


vào đó là kiểu nhà nước mới, một chế độ nhà nước phi quan liêu.
Tăng cường kiểm kê, kiểm soát bộ máy nhà nước, sử lý nghiêm
những kẻ quan liêu, chủ động và tích cực đẩy mạnh cuộc vận động
xây dựng và chỉnh đốn Đảng – thanh Đảng, làm cho Đảng thật sự
trong sạch vững mạnh, đủ sức lãnh đạo chính quyền.
Trước hết, Hồ Chí Minh đã mở rộng và phát triển những luận điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin về chính trị được đề cập đến nhiều vấn
đề, từ nhận thức hay quan niệm về chính trị đến những vấn đề
chính trị trong thực tiễn như đường lối cách mạng Việt Nam; những
vấn đề về xây dựng Đảng, giành giữ chính quyền, xây dựng chế độ
mới, xây dựng và thực thi quyền làm chủ của nhân dân, vấn đề cán
bộ, đạo đức cách mạng… Khi bàn về chống nạn quan liêu, tham ơ,
lãng phí Hồ Chí Minh đã phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác
trong điều kiện mới; tham ô là hành động xấu xa nhất, lấy trộm của
cơng là tội ác; lãng phí là thiếu tinh thần trách nhiệm, khơng có ý
thức q trọng sức người, sức của dân, tài sản của nhà nước; tham
ơ, lãng phí và bệnh quan liêu là một “thứ giặc ở trong lòng” là lực
cản đối với cách mạng. Về phương hướng, phương pháp và biện
pháp chống nạn tham ơ, lãng phí và bệnh quan liêu Hồ Chí Minh cho
rằng chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là nhiệm vụ thường

xuyên của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Kết hợp giữa xây và
chống, cán bộ đảng viên phải gương mẫu, xung phong, thật thà tự
phê bình và phê bình, có khuyết điểm phải quyết tâm sửa chữa.
Vận dụng tư tưởng của Lênin
Vận dụng Tư tưởng của Lênin về đảng cầm quyền
vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn
Đảng công sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Kế tục sự nghiệp của C. Mác- Ph Anghen, các nhà sáng lập chủ
nghĩa xã hội khoa học, Lênin không chỉ vận dụng sáng tạo học
thuyết của các ơng vào hồn cảnh cụ thể của nước Nga, thực hiện
thắng lới cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại, mà còn bảo
vệ và phát triển xuất sắc tồn diện lý luận đó trong điều kiện mới,
góp phần làm giàu kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin. Tư
tưởng của Lênin về đảng kiểu mới và xây dựng đảng cộng sản cầm
quyền chính là sự bảo vệ và phát triển sáng tạo, độc đáo học thuyết
Mác về Đảng cách mạng trong điều kiện nước Nga những năm đầu
của thế kỷ XX.
Là lãnh tụ của giai cấp công nhân quốc tế, được hội đủ những
phẩm chất thông thái của một nhà khoa học vĩ đại và tầm nhìn
chiến lược của nhà cách mạng thiên tài, từ khi bước vào hoạt động
13


cách mạng, năm 1894, Lênin đã sớm nhận ra yêu cầu của cách
mạng Nga cần sớm xây dựng một đảng mác xít cách mạng “phải tổ
chức một đảng cơng nhân xã hội chủ nghĩa”[1][1].
Năm 1990, sau khi mãn hạn tù đày, Lênin đã bắt tay ngay vào
việc soạn thảo những nguyên tắc về cơ cấu tổ chức và vạch ra
cương lĩnh, sách lược của đảng công nhân xã hội chủ nghĩa.
Trong một loạt tác phẩm “Làm gì?”, “Một bước tiến, hai bước

lùi”, “Hai sách lược của Đảng dân chủ – xã hội trong cách mạng
dân chủ”, Lênin, một mặt, đã tỏ rõ thái độ không khoan nhượng
trước “Chủ nghĩa kinh tế”, một biến dạng của chủ nghĩa cơ hội quốc
tế ở Nga và chủ nghĩa xét lại đủ mọi màu sắc để bảo vệ chủ nghĩa
Mác; mặt khác, đã luận chứng về vai trị “Khơng thể có một lý luận
nào ngoài chủ nghĩa Mác cả” đối với đảng cách mạng và đối với
phong trào cách mạng. Lênin viết “Không thể có một đảng xã hội
chủ nghĩa vững mạnh, nếu khơng có lý luận cách mạng để đồn
kết những người xã hội chủ nghĩa lại, để họ rút ra từ trong lý luận
đó tất cả những tín điều của họ và đem áp dụng những tín điều đó
vào những phương pháp đấu tranh và phương sách hành động của
họ”[2][2], và “Không có lý luận cách mạng thì cũng khơng thể có
phong trào cách mạng...Chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong
hướng dẫn thì mới có một khả năng làm trịn vai trị chiến sỹ tiên
phong”[3][3]
Đối với Đảng mác xít, theo Lênin, đảng mác xit là bộ phận, đồng
thời là đội tiền phong có tổ chức và tổ chức cao nhất của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Đảng chỉ có thể vững mạnh và
đồn kết nếu nó được xây dựng trên nền tảng của chủ nghĩa Mác,
theo nguyên tắc tập trung dân chủ; Đảng cộng sản phải là hiện thân
cho mối liên hệ mật thiết với nhân dân lao động; Đảng phải có bản
lĩnh chính trị vững vàng trước những bước phát triển mới của cách
mạng, có năng lực nắm bắt qui luật và khả năng đề ra và thực hiện
đường lối cách mạng phù hợp yêu cầu phát triển của cách mạng...
Những chỉ dẫn của Lênin cũng chính là những định hướng, những
nguyên tắc để xây dựng Đảng kiểu mới, Đảng cộng sản cầm
quyền .
Sau cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, Đảng Bơnsêvích Nga
và sau đó là Đảng cộng sản Liên Xô đã trở thành đảng cầm quyền.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản càm quyền do Lênin đứng đầu,

nhân dân Xô Viết đấu tranh thắng lợi trước sự can thiệp của chủ
nghĩa đế quốc và cuộc nội chiến phản cách mạng của bọn Bạch vệ,
bảo vệ thắng lợi thành quả của cách mạng và thực hiện thắng lợi
công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ
nghĩa đầu tiên trên thế giới. Cùng với quá trình lãnh đạo cách mạng,
14


Lênin đã có nhiều đóng góp cả về lý luận và thực tiễn cho công cuộc
xây dựng Đảng cộng sản cầm quyền.
Thực ra thuật ngữ “đảng cầm quyền”, “đảng chấp chính”, “đảng
nắm chính quyền” đã xuất hiện từ rất sớm để chỉ vai trị, vị thế của
một đảng chính trị khi đã có chính quyền; phân biệt đảng nắm chính
quyền với đảng khơng nắm chính quyền, đảng đối lập...
Với Lênin, khái niệm “Đảng cộng sản cầm quyền” được Người
nêu ra lần đầu tiên trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung
ương Đảng cộng sản (b) Nga, ngày 27 tháng 3 năm 1922. Và, từ đó
trở đi, trong các Văn kiện của Đảng cộng sản Liên Xô, thuật ngữ
Đảng cầm quyền, Đảng cộng sản cầm quyền được xử dụng rộng rãi.
Sự đóng góp của Lênin cho sự nghiệp xây dựng đảng cầm
quyền ở Liên Xô và trên thế giới là vơ giá, song có thể khái qt
trên những điểm quan trọng sau:
- Mặc dù không phải là người đầu tiên đưa ra khía niệm “Đảng
cầm quyền”, song Lênin là người đầu tiên nêu ra khái niệm”Đảng
cộng sản cầm quyền”. Theo Lênin, Đảng cộng sản cầm quyền là
đảng lãnh đạo chính quyền vơ sản, được vũ trang bằng lý luận tiên
phong là chủ nghĩa Mác, được tổ chức theo nguyên tắc tập trung
dân chủ và có quan hệ máu thịt với nhân dân, thực hiện lãnh đạo
xã hội, chịu trách nhiệm trước toàn xã hội về sự phát triển xã hội vì
lợi ích của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động.

- Lênin đã nêu ra hệ thống các nguyên tắc về xây dựng, chỉnh
đốn Đảng cộng sản cầm quyền: Nguyên tắc tăng cường bản chất
cách mạng và khoa học, bản chất giai cấp công nhân của Đảng
trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - nguyên tắc kết hợp hữu
cơ giữa chính trị với khoa học, bảo đảm vai trò là đội tiền phong của
của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động, là hạt nhân của
hệ thống chính trị, tồn tại vì giai cấp công nhân và nhân dân lao
động; nguyên tắc xây dựng đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức phù hợp yêu cầu mới của sự thay đổi vai trị, nhiệm vụ
của đảng (từ vị thế khơng cầm quyền thành vị thế cầm quyền);
nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc cơ bản trong chế độ tổ
chức của một đảng cách mạng mác- xít; nguyên tắc quan hệ mật
thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân;
nguyên tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không làm thay công
việc của nhà nước (nguyên tắc về phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước); nguyên tắc kết hợp tính dân tộc với tính quốc tế
của Đảng cộng sản- nguyên tắc chủ nghĩa quốc tế vô sản...Đây là
những định hướng quan trọng, nhưng nguyên tắc cơ bản của công
cuộc xây dựng, chỉnh đốn đảng cộng sản cầm quyền trong điều kiện
hiện nay.
15


- Lênin là người sáng lập, rèn luyện Đảng kiểu mới ở Nga, trực
tiếp lãnh đạo công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng cộng sản Liên
Xô, Đảng cộng sản cầm quyền đầu tiên trên thế giới trong điều kiện
nước Nga những năm đầu thế kỷ XX với nền kinh tế cịn chưa phát
triển, lại phải đấu tranh khơng khoan chống “Chủ nghĩa kinh tế”,
chủ nghĩa cơ hôi đủ mọi màu xắc và những thế lực thù địch với chủ
nghĩa xã hội, bảo vệ sự lãnh đạo độc tôn của Đảng cộng sản Liên

Xơ.
Là học trị xuất sắc của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội
khoa học, ngay khi mới bắt gặp chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đã
sớm ý thức được yêu cầu của cách mạng Việt Nam phải tổ chức một
Đảng cách mệnh chân chính, vững mạnh. Người cho rằng: “ Đảng
có vững, cách mệnh mới thành công”[4][4]
Theo học thuyết Mác- Lênin, Đảng cộng sản là sản phẩm của sự
kết hợp chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân. Vận dụng
và phát triển sáng tạo học thuyết về Đảng kiểu mới của chủ nghĩa
Mác - Lênin vào thực tiễn của Việt Nam, vốn là nước thuộc địa nửa
phong kiến có bề dày truyền thống yêu nước, Hồ Chí Minh đã khẳng
định, Đảng cộng sản Việt Nam là sự kết hợp giữa chủ nghĩa MácLênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; Đảng cộng
sản là Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam và đồng thời là Đảng
của dân tộc Việt Nam.
Từ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 thành công đến nay,
Đảng cộng sản Việt Nam đã trở thành Đảng cầm quyền. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nhiều lần khẳng định “ Đảng ta là Đảng cầm quyền”.
Ngày nay, sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã
đang đứng trước những thời cơ và vận hội mới, song cũng phải đối
mặt với những thách thức không thể xem thường; công cuộc đẩy
mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước đang diễn ra trong
bối cảnh có nhiều thuận lợi và khơng ít khó khăn, các thế lực chống
cộng, chống chủ nghĩa xã hội đang tìm đủ mọi cách, đủ mọi thủ
đoạn đánh vào đảng cộng sản, xuyên tạc, bôi nhọ, tiến tới phủ định
chủ nghĩa Mác- Lênin, đường lối, chính sách, mục tiêu lý tưởng của
đảng; đặc biệt chúng tập trung đánh vào nguyên tắc tổ chức cơ bản
của đảng- nguyên tắc tập trung dân chủ, kích động, chia rẽ nội bộ
đảng, phá rã tổ chức đảng, tiến tới xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng.
Trong bối cảnh như vậy, để xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta thật
sự trong sach, vững mạnh, bảo đảm vị thế của Đảng cầm quyền,

thiết nghĩ công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cần thiết phải thực
hiện tốt những vấn đề mang tính nguyên tắc sau:
Thứ nhất, phải phát huy truyền thống tốt đẹp, giữ vững và tăng
cường bản chất cách mạng và khoa học của Đảng.
16


Là Đảng cầm quyền, Đảng thực hiện sự lãnh đạo toàn xã hội
trong điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập với quốc tế, mặt
trái của mở cửa hội nhập và của kinh tế thị trường kiến không ít cán
bộ, đảng viên có chức có quyền bị quyến rũ bởi biết bao cám dỗ về
danh và về lợi. Nếu không được giáo dục, rèn luyện, giữ vững và
phát huy những truyền thống tốt đẹp, bản chất cách mạng của
Đảng thì khó có thể giữ được sự thối hố, biến chất. Giữ cho Đảng
thực sự trong sạch, khơng thối hoá, biến chất, bảo đảm vị thế của
Đảng cộng sản cầm quyền chân chính vì lợi ích và mục đích của
nhân dân và dân tộc là vấn đề hệ trọng trong công tác xây dựng,
chỉnh đốn đảng.
Giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng, trong điều kiện
hiện nay, là giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân
của Đảng, kiên định quan điểm, lập trường của giai cấp cơng nhân,
tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động và của cả dân tộc; phấn đấu vì mục tiêu lý tưởng của
Đảng: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vững vàng trước những
bước ngoặt, trước những “khúc quanh” của lịch sử.
Giữ vững và phát huy bản chất khoa học của Đảng đòi hỏi Đảng
thường xuyên đổi mới bảo đảm sự thống nhất giữa bản lĩnh và trình
độ trí tuệ Đảng, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng theo pháp
luật, năng lực nắm bắt qui luật, dự báo tình hình đề ra và tổ chức
thực hiện đường lối, năng lực vận hành nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa và năng lực đối phó với tình hình phức tạp...
Bản chất khoa học và cách mạng của Đảng đòi hỏi Đảng ta phải
thấm nhuần chủ nghĩa Mác- lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh- nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng; không ngừng trau
dồi tư duy lý luận, khả năng tổng kết thực tiễn phát triển lý luận,
đặc biệt là lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Bản chất cách mạng và khoa học của Đảng đòi hỏi Đảng
phải được tổ chức chặt chẽ và hoạt động theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, chống mọi sự chia rẽ,
bè phái, cục bộ, buông lỏng kỷ luật của Đảng; tăng cường mối quan
hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân...
Thứ hai, phải thường xuyên nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ
trí tuệ và chất lượng cơng tác tư tưởng- lý luận của Đảng làm cho
Đảng trở thành lực lượng tiên phong của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của toàn dân tộc.
Thực tế trong suốt 75 năm qua, từ khi Đảng ra đời đến nay,
cách mạng Việt Nam đã trải qua biết bao những “khúc quanh”, đòi
hỏi bản lĩnh vững vàng của Đảng: sau năm 1945, chính quyền cơng
17


nơng mới được thiết lập thì thế nước đứng trước thách thức “ngàn
cân treo sợi tóc”, Đảng cộng sản tuyên bố “tự giải tán”, thực chất là
rút vào chiến khu; năm 1954, sau khi Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn
thắng, tổ quốc lại bị chia cắt làm hai miền; năm 1975, sau khi nước
nhà thống nhất, quyết tâm đưa cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội
cũng đặt trước thách thức nhận thức về mơ hình và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ; năm 1991, khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô và đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ

nghĩa xã hội đặt trước yêu cầu phải đổi mới nhưng không làm thay
đổi mục tiêu chủ nghĩa xã hội...Trước mỗi bước ngoặt, thử thách như
vậy, đòi hỏi bản lĩnh chính trị của Đảng phải được phát huy, toả
sáng để làm tốt công tác tư tưởng, uốn nắn kịp thời những nhận
thức không đúng, phê phán những quan điểm, khuynh hướng lệch
lạc tạo sự thống nhất cao trong Đảng, sự đồng thuận trong toàn xã
hội.
Ngày nay, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế thị trường mở
cửa hội nhập quốc tế, một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên có
biểu hiện phai nhạt lý tưởng, thối hố về tư tưởng chính trị; hiện
tương quan liêu tham nhũng có chiều hướng khơng giảm, bản lĩnh
chính trị của Đảng, lại một lần nữa, đặt trước thách thức. Nhìn thẳng
vào sự thật, nói đúng sự thật, Đảng chủ trương thực hiện triệt để
Nghị quyết TƯ6 (lần2), đẩy mạnh cơng tác phê và tự phê bình,
quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, đẩy mạnh cuộc xây dựng chỉnh
đốn Đảng cả về tư tưởng, chính trị, tổ chức và phương thức lãnh
đạo.
Nâng cao bản lĩnh chính trị cũng có nghĩa phải nâng cao trình
độ trí tuệ của Đảng để Đảng thực sự trở thành “lương tâm, trí tuệ và
danh dự”. Muốn vậy, mỗi đảng viên cũng như toàn Đảng, hơn bao
giờ hết hãy thấm nhuần lời dạy của Lênin: người cộng sản phải biết
làm giàu trí tuệ của minh bằng sự hiểu biết tất cẳ những kho tàng
tri thức mà nhân loại đã tạo ra.
Trình độ trí tuệ của Đảng khơng chỉ biểu hiện ở trình độ tư duy
lý luận mà cịn thể hiện ở trình độ nắm vững khoa học công nghệ,
làm chủ công nghệ thông tin thực hiện đổi mới mạnh mẽ phương
thức lãnh đạo của Đảng, mấu chốt là đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng với Nhà nước, không ngừng năng cao năng lực cầm quyền
của Đảng.

Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ có quan hệ chặt chẽ
với việc nâng cao chất lượng công tác tư tưởng- lý luận của Đảng.
Trên cơ sở thấm nhuần chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng cần đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tổng kết thực tiễn,
phát triển lý luận, nhất là lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường
18


đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hơn nữa, công tác tư tưởng- lý
luận của Đảng phải hướng vào việc nâng cao trình độ tư duy lý luận
củng cố niềm tin, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạngcho cán
bộ, đảng viên. Ngồi ra, cơng tác tư tưởng- lý luận của Đảng cịn có
mục tiêu nâng cao trình độ lý luận cho toàn dân để chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh
thần của nhân dân, thúc đẩy hoạt động tự giác của nhân dân trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, Thường xuyên chăm lo xây Đảng về tổ chức, bảo đảm
nội bộ Đảng ln đồn kết thống nhất, có sức chiến đấu cao.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng về tổ chức, trước hết và quan trọng
hơn cả là thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ và chấn
chỉnh, kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng.Thực hiện tốt nguyên
tắc tập trung dân chủ là vấn đề cốt tử bảo đảm cho Đảng thật sự
vững mạnh về tổ chức, đoàn kết thống nhất và có sức chiến đấu
cao. Bác Hồ, trong Di chúc lịch sử đã từng căn dăn: “Đoàn kết là
truyền thống cực kỳ quí báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí
từ trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí
của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”[5][5]. Để thực hiện
tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, một mắt phải thực hiện tốt các
quyền dân chủ của Đảng viên, có qui chế, qui trình để đảng viên
tham gia vào việc hoặch định và thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo phải

tôn trọng, lắng nghe ý kiến của đảng viên, của cấp dưới, tôn trong
những ý kiến khác nhau, nhất là ý kiến của các nhà khoa học, các
trung tâm nghiên cứu khoa học, bảo đảm tự do dân cảu tư tưởng,
thực hiện nguyên tắc tập thể trong công tác cán bộ; Mặt khác, phải
đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân chủ hình thức,
dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây mất đoàn kết, chia rẽ,
bè phái, mị dân, theo đuôi quần chúng. Dân chủ phải đi liền với tập
trung, kỷ cương, kỷ luật. Dân chủ khơng tương dung với độc đốn
chun quyền, cũng khơng đồng nghĩa với tự do vơ chính phủ. Thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ phải được thể hiện trong công
tác tổ chức vả trong hoạt động của Đảng.
Trong xây dựng, kiện toàn hệ thống tổ chức Đảng đỏi hỏi phải
xác định đúng chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, nhất là tổ
chức cơ sở đảng; khắc phục tình trạng chồng chéo về chức năng,
nhiệm vụ và tổ chức; kiên quyết tinh giản bộ máy theo hướng gọn
nhẹ, năng động, thích ứng tốt với cơ chế thị trường và việc đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là phương thức lãnh đạo
của các tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp sản xuất, kinh
doanh...
19


Thứ tư, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ, thương
xuyên chăm lo công tác cán bộ cho cả hệ thống chính trị, trên tất cả
các lĩnh vực.
Thực tiễn lãnh đạo cách mạng nước ta của Đảng đã xác nhận:
sau khi có đường lối, phương pháp cách mạng đúng, thì sự thành
bại của cách mạng, phần quyết định tuỳ thuộc vào cán bộ và công
tác cán bộ. Bác Hồ đã khẳng định, “cán bộ là gốc của mọi công
việc”, “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc

kém”[6][6]. Vì vậy, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh, có
trí tuệ, tuyệt đối trung thành với cách mạng, có quan điểm quần
chúng, có đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí cơng vô tư
là việc làm vô cùng hệ trọng đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng
cầm quyền. Trong điều kiện hiện nay, để có đội ngũ cán bộ vừa “có
tâm và có tầm”, trước hết, Đảng cần đổi mới tư duy trong công tác
cán bộ. Trên cơ sở nắm vững quan điểm giai cấp công nhân, Đảng
cần làm tốt công tác qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng,
đề bạt, cất nhắc, luân chuyển cán bộ. Đồng thời, phải đổi mới
phương pháp tiến hành công tác cán bộ theo hướng thật sự dân
chủ, trọng hiền tài, tập thể kết hợp với tập trung thống nhất theo
qui trình khoa học; đổi mới chế độ đãi ngộ cán bộ theo hướng thực
hiện nguyên tắc phân phối theo lao động...
Thứ năm, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, trước hết và
quan trọng nhất là phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước.
Đảng lãnh đạo là Đảng hoạch định ra đường lối, lãnh đạo Nhà
nước thể chế hoá đường lối thành chính sách, pháp luật và đưa
đường lối vào cuộc sống; Đảng bố trí cán bộ kiểm tra và thực thi
đường lối...
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đòi hỏi đổi mới toàn
diên, từ khâu ra nghị quyết, thể chế hoá nghị quyết, tổ chức thực
hiện nghị quyết, tổng kết thực hiện nghị quyết phát triển lý luận, và
quan trọng hơn là phải bảo đảm cho văn hố chính trị thấm đượm
trong tất cả các khâu của quá trình lãnh đạo, khiến cho sự lãnh đạo
của đảng trở nên văn hoá, nhân văn, khắc phục khuynh hướng độc
đoán chuyên quyền, bảo thủ trì trệ và nóng vội chủ quan duy ý chí.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước, xét về thực chất, là bảo đảm sự lãnh
đạo của Đảng theo pháp luật, trong khuôn khổ pháp luật; bảo đảm

sự quản lý của Nhà nước có hiệu lực, hiệu quả theo đúng định
hướng của Đảng; bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.

20



×