Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Tlch hồ chí minh vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết mác lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân vai trò của chính đảng cộng sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.22 KB, 29 trang )

Mở đầu
- CNXH không tưởng phác hoạ ra các mô hình một xã hội lý tưởng từ
những bộ óc thiên tài của các vĩ nhân như: Tômátmorơ (thế kỷ XV) hoặc
Xanhximơng, Phuriê, Ơoen (đầu thế kỷ XIX). CNXH khoa học bằng bộ óc
thiên tài của C.Mác và Ph.ăngghen đã phản ánh đúng những mâu thuẫn,
những xung đột về kinh tế, chính trị, xã hội của xã hội TBCN. Từ đó phát
hiện những điều kiện, những phương tiện vật chất của xã hội TBCN, do chính
CNTB tạo ra để thực hiện q trình phát triển của xã hội lồi người từ xã hội
TBCN sang xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Mâu thuẫn và xung đột trong xã hội TBCN là mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất xã hội lớn (nền sản xuất xã hội) với quan hệ sản xuất TBCN
(chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất) chiếm hữu về mặt xã hội là mâu thuẫn
giữa giai cấp công nhân đại diện cho lực lượng sản xuất xã hội và giai cấp tư
sản đại biểu cho quan hệ sản xuất TBCN.
Những xung đột thể hiện ở các cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội, chính
trị gây ra những hậu quả tiêu cực đến sự phát triển sản xuất, làm cho đời sống
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động vô cùng khốn khổ...
Để giải quyết triệt để các mâu thuẫn và xung đột trong lòng xã hội
TBCN phải được thực hiện bằng cuộc cách mạng XHCN, giai cấp công nhân
giành lấy chính quyền, quyền tư liệu sản xuất từ sở hữu của nhà tư bản thành
sở hữu xã hội mà ban đầu nhà nước vô sản là người đại biểu. Sự phát triển
kinh tế, sản xuất đến mức độ sự tồn tại của giai cấp trở thành thừa, quyền lực
chính trị mất dần, do đó quyền uy của nhà nước cũng mất dần (nhà nước vơ
sản tiêu vong). Đó chính là sứ mệnh khi thế giới của giai cấp cơng nhân, giai
cấp có sứ mệnh thực hiện cuộc cách mạng xã hội triệt để nhất, xây dựng nên
xã hội khơng có người bóc lột người. Song để giai cấp công nhân thực hiện
1


thắng lợi sứ mệnh lịch sử thế giới, giai cấp công nhân phải được sự tổ chức,
lãnh đạo, giáo dục của đội tiên phong, bộ tham mưu của giai cấp là chính


đảng của giai cấp cơng nhân. Đó cũng là địa vị, vai trị của chính đảng của
giai cấp cơng nhân trong suốt quá trình tồn trại và phát triển.
Đây cũng chính là nội dung cơ bản của CNXH khoa học một trong ba
bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác và, được Lênin kế thừa phát triển trong
điều kiện mới, hoàn cảnh mỗi khi CNTB phát triển lên giai đoạn mới. Giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa, giai đoạn tột cùng của CNTB.
Quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện
cụ thể cách mạng Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930). Dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam luôn kề
vai sát cánh dưới sự lãnh đạo của Đảng quyết tâm thực hiện thành công
CNXH tiến lên chủ nghĩa cộng sản ở nước ta.
- Cấu trúc tiểu luận: gồm ba phần.
Phần thứ nhất: Mác - ăngghen bàn về: "Sứ mệnh lịch sử thế giới của
giai cấp công nhân và vai trị của chính đảng cộng sản".
Phần thứ hai: Lênin bảo vệ và phát triển Học thuyết Mác về "Sứ mệnh
lịch sử của giai cấp cơng nhân và vai trị chính đảng của giai cấp cơng nhân".
Phần thứ ba: Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết
Mác - Lênin về "Sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân và vai trị của chính
đảng cộng sản vào điều kiện Việt Nam".

2


Phần thứ nhất
C.mác - PH.ăngghen bàn về "sứ mệnh lịch sử thế giới
của giai cấp cơng nhân và vai trị của
chính đảng cộng sản
- Tháng 10 năm 1844 Stiếcnơ xuất bản cuốn "Người duy nhất và sở
hữu của nó" cuốn sách thể hiện chủ nghĩa chủ quan và duy ý chí, tư tưởng vơ

chính phủ và chủ nghĩa cá nhân. Cuốn sách đã ảnh hưởng đối với giai cấp tiểu
tư sản trí thức và gián tiếp ảnh hưởng tới phong trào cơng nhân.
- Mùa hè năm 1845 Phoi-ơ-bắc có bài báo công khai tuyên bố lý luận
nhân bản chủ nghĩa của ông là "Học thuyết chủ nghĩa cộng sản" và nhận mình
là người cộng sản.
- Tháng 9 và tháng 10 năm 1845 một số đại biểu nhóm Hêghen trẻ,
trong một số bài báo của mình đã tự xưng là "Những người xã hội chủ nghĩa".
Trước tình hình đó, trong cuộc gặp của ăngghen với Mác tại Brúcxen
đầu tháng 4 năm 1845 các ông đã quyết định cùng nhau nghiên cứu một cách
toàn diện "thế giới quan mới" mà Mác đã trình bày tổng qt và ăngghen
hồn tồn nhất trí và tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức" tác phẩm viết chung của
hai ơng được bắt đầu từ tháng 11/1845, hồn thành về cơ bản vào tháng Tư
năm 1846. Sau đó cịn được tiếp tục bổ sung khoảng một năm nữa.
Với tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, Mác và ăngghen "thanh toán nhận thức
triết học trước kia (lời ăngghen) các ông đã trình bày "thế giới quan mới" của
các ơng, đó là quan niệm duy vật về lịch sử, một "phát hiện vĩ đại' làm nên
cuộc cách mạng trong lĩnh vực triết học.
Bằng phương pháp luận duy vật lịch sử, Mác và ăngghen phân tích đời
sống kinh tế - xã hội và đi đến kết luận về chính trị - xã hội; đó chính là

3


nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Đồng thời với những tác phẩm
như:
+ "Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản" của ăngghen viết từ cuối
tháng 10 đến tháng 11 năm 1847.
+ "Điều lệ của liên đoàn những người cộng sản" của C.Mác là bản dự
thảo cương lĩnh khoa học đầu tiên của liên đoàn những người cộng sản và là
một bước chuẩn bị cơ bản cho tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản".

+ "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" của Mác và ăngghen với tư cách là
cương lĩnh của Đảng Cộng sản.
Các ông đã luận chứng một cách khoa học "Sứ mệnh lịch sử của giai
cấp cơng nhân" và chỉ rõ vai trị của "chính Đảng" của giai cấp công nhân với
việc tổ chức, lãnh đạo giai cấp công nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử
của mình.
1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
+ Theo Mác và ăngghen giai cấp công nhân (GCCN) không chỉ là giai
cấp chịu nhiều đau khổ "đang được cứu vớt" mà chính là giai cấp có sứ mệnh
lịch sử hết sức to lớn là xoá bỏ chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa - chế độ bóc
lột cuối cùng của xã hội con người. Thực hiện sự chuyển hoá từ xã hội XHTB lên xã hội XHCN và cộng sản chủ nghĩa. Sứ mệnh lịch sử của GCCN,
không phải do ý muốn chủ quan của GCCN hay do sự áp đặt của các nhà tư
tưởng, mà do điều kiện khách quan quy định. Các ông cho rằng: "Vấn đề
không phải ở chỗ hiện nay người vô sản nào đó, thậm chí tồn bộ giai cấp vơ
sản coi cái gì là mục đích của mình, vấn đề ở chỗ giai cấp vơ sản thực ra là gì,
và phù hợp vào sự tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vơ sản buộc phải làm gì
về mặt lịch sử" (C.Mác - Ph.ăngghen, Toàn tập, tập 2, NXb ST, Hà Nội,
1983, tr. 61). GCCN là giai cấp được nền đại công nghiệp "tuyển lựa" từ tất
cả các giai cấp và tầng lớp lao động trong dân cư mà chủ yếu là nông dân. Sự
4


ra đời của GCCN gắn liền với nền sản xuất đại công nghiệp và chỉ trở thành
một giai cấp ổn định khi sản xuất đại công nghiệp đã thay thế về cơ bản nền
sản xuất thủ công.
Dưới chế độ TBCN, GCCN cịn được gọi là giai cấp vơ sản, là giai cấp
hồn tồn khơng có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản để
kiếm sống. Vì vậy, trong sản xuất họ là giai cấp bị phụ thuộc, trong phân phối
họ là giai cấp bị bóc lột, dưới hình thức bóc lột giá trị thặng dư. Là giai cấp
gắn liền với sản xuất đại công nghiệp và được nền đại công nghiệp rèn luyện,

giáo dục nên GCCN có tính tổ chức kỷ luật cao và có điều kiện tập hợp lực
lượng đoàn kết với quần chúng lao động bị áp bức xung quanh giai cấp mình.
Cùng với sự phát triển không ngừng của sản xuất đại công nghiệp,
GCCN không ngừng lớn lên về số lượng và chất lượng. Do lợi ích đối lập với
giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh ấy dẫn đến hình thành ý thức giai cấp và chính
đảng của GCCN. Thơng qua chính đảng tiên phong của mình GCCN lãnh đạo
cuộc đấu tranh giành chính quyền tiến hành cuộc cải biến cách mạng đối với
xã hội TBCN tạo ra những điều kiện xây dựng một xã hội khơng có giai cấp,
do đó, GCCN tự xoá bỏ với tư cách là một giai cấp.
Như vậy, sứ mệnh lịch sử của GCCN được quy định một cách khách
quan do yêu cầu của phát triển sản xuất, hồn tồn khơng phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan nào.
Như C.Mác và Ph.ăngghen đã viết: "sự phát triển của đại công nghiệp
đã phá sập dưới chân của giai cấp tư sản, chính ngay cái nền tảng trên đó giai
cấp tư sản đã xây dựng nên chế độ sản xuất và chiếm hữu của nó...
Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất
yếu như nhau" (C.Mác - Ph.ăngghen, Tuyển tập, tập 1, Nxb ST, HN, 1980, tr.
556-557). Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản các ông cũng chỉ rõ:

5


"Những vũ khí mà giai cấp tư sản đã dùng để đánh đổ chế độ phong kiến thì
ngày nay quay lại đập vào chính giai cấp tư sản.
Nhưng giai cấp tư sản khơng những đã rèn luyện những vũ khí sẽ giết
mình, mà cịn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy - những cơng nhân hiện
đại, những người vơ sản" (Sđd, tr. 549).
2. Vai trị chính Đảng Cộng sản
Trong Học thuyết về sứ mệnh lịch sử của GCCN C.Mác và Ph.ăngghen
cũng chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa các điều kiện khách quan và những

nhân tố chủ quan và xem xét việc phát huy những nhân tố chủ quan như
những điều kiện quyết định trực tiếp để GCCN hồn thành sứ mệnh lịch sử
của mình.
Cuộc đấu tranh của GCCN chống lại giai cấp tư sản ở các nước đều trải
qua một thời kỳ đấu tranh tự phát, đấu tranh giành quyền lợi kinh tế của giai
cấp mình trong khn khổ của CNTB. Do vậy, dẫn đến hình thành những tổ
chức nghề nghiệp để bênh vực quyền lợi kinh tế của GCCN, dần dần cuộc
đấu tranh đòi hỏi phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất tập trung để hướng
mọi nỗ lực của GCCN vào mục tiêu thống nhất là chống lại giai cấp tư sản,
giành và bảo vệ quyền lợi của GCCN.
Mác và ăngghen đã nghiên cứu những quan hệ kinh tế TBCN mà phát
hiện ra sứ mệnh lịch sử của GCCN và từ đó xây dựng nên lý luận về chủ
nghĩa xã hội khoa học (CNXHKH).
Chủ nghĩa XHKH khi chưa kết hợp với phong trào cơng nhân (PTCN),
thì về mặt tổ chức sự phát triển cao nhất của nó chỉ dẫn đến sự ra đời của các
hội truyền là chủ nghĩa Mác, nhưng giữa chủ nghĩa Mác và PTCN lại có
chung một nguồn gốc đó là các quan hệ kinh tế TBCN. Mác và ăngghen đã
nghiên cứu nhưng quan hệ kinh tế TBCN mà phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của
GCCN và cũng từ đó xây dựng nên lý luận về CNXHKH. Tuy nhiên,
6


CNXHKH và PTCN lại sinh ra từ hai tiền đề khác nhau. CNXHKH, một mặt
là sản phẩm của việc nghiên cứu những quan hệ kinh tế, một mặt là kết quả
khách quan, tất yếu của quá trình những tư tưởng tiến bộ của xã hội loài
người được kế thừa và phát triển từ đầu thế kỷ XIX. Đó là triết học Đức, kinh
tế chính trị học Anh và CNXH khơng tưởng Pháp. Phong trào đấu tranh của
GCCN có trên tiền đề trực tiếp là cuộc đấu tranh hàng ngày của GCCN chống
lại giai cấp tư sản.
Từ khi CNXHKH thâm nhập và soi sáng PTCN, GCCN đã nhận rõ bản

chất bóc lột của giai cấp tư sản, và sứ mệnh lịch sử vẻ vang của giai cấp mình.
Vai trị truyền bá, giáo dục ý thức giai cấp cho GCCN hiểu rõ sứ mệnh lịch sử
của giai cấp mình. Đó chính là vai trị và trách nhiệm nặng nề của chính đảng
của GCCN - Đảng Cộng sản.
Từ khi có CNXHKH soi sáng có chính đảng khoa học - cách mạng tổ
chức và lãnh đạo GCCN đã trở thành tự giác đi tiên phong trong cuộc đấu
tranh giải phóng tồn nhân loại khỏi ách áp bức, bóc lột. Như vậy ăngghen đã
khẳng định, mới từ giai cấp tự mình trở thành giai cấp vì mình.
3. Tư tưởng của C.Mấc và Ph.ăngghen về chính đảng cộng sản
Những tư tưởng cơ bản của C.Mác và Ph.ăngghen về chính đảng cộng
sản bắt nguồn từ lý luận khoa học về vai trò lịch sử của GCCN với tư cách là
người đào huyệt chôn CNTB. Như Mác và ăngghen đã phân tích trong
"Tun ngơn của Đảng Cộng sản" và các ơng khẳng định: "Những vũ khí mà
giai cấp tư sản đã dùng để đánh đổ chế độ phong kiến thì ngày nay quay lại
đập vào chính ngay giai cấp tư sản.
Nhưng giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình;
nó cịn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy - những cơng nhân hiện đại,
những người vô sản" (Sđd, ảt. 549).

7


Dưới sự lãnh đạo của chính đảng, GCCN xây dựng xã hội mới, xã hội
khơng có người bóc lột người - xã hội cộng sản mà giai đoạn thấp của nó là
CNXH. Những tư tưởng đó được rút ra từ sự phân tích lịch sử phát triển của
xã hội lồi người nói chung, cũng như của GCCN nói riêng.
C.Mác và Ph.ăngghen là những người sáng lập nên tổ chức cộng sản
đầu tiên trên thế giới mang tên "Đồng minh những người cộng sản" và thảo ra
"Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" cương lĩnh khoa học đầu tiên của PTCN
quốc tế. Hai ông cũng là những người tổ chức và lãnh đạo Quốc tế I (1864 1872) quốc tế đầu tiên của GCCN. Sau khi Mác mất, ăngghen đã tiếp tục sự

nghiệp của Mác, sáng lập và lãnh đạo Quốc tế II (1893 - 1914).
+ Hai ông đã chỉ ra rằng, GCCN là giai cấp cách mạng nhất, tiên tiến
nhất trong xã hội. Nhưng GCCN chỉ có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử
của mình khi tự tổ chức ra được chính đảng độc lập. Như ăngghen đã khẳng
định: "Để cho GCCN có đủ sức mạnh và có thể chiến thắng trong giờ phút
quyết định thì điều cần thiết là Mác và tơi địi bảo vệ quan điểm này từ năm
1847 - phải tổ chức được một đảng riêng biệt, tách khỏi tất cả các đảng khác
và đối lập với các đảng đó, nhận thức rõ mình là đảng của giai cấp". (C.Mác
và Ph.ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, 1978, tập 4, tr. 35).
Theo Mác và ăngghen chính đảng của GCCN - Đảng Cộng sản phải là
đảng độc lập, đảng của GCCN. Song "những người cộng sản đều ủng hộ mọi
phong trào cách mạng chống lại trật tự xã hội và chính trị hiện có" (Tun
ngơn của Đảng Cộng sản, Mác - ăngghen, Tuyển tập, Nxb ST, Hà Nội, 1980,
tập 1, tr. 596).
Như vậy chính đảng cộng sản khơng phải là một tổ chức biệt lập, đối
lập vào các đảng khác. Mà chính đảng cộng sản phải biết thu hút, tập trung
lực lượng đơng đảo xung quanh mình vì mục đích chung.

8


+ Hai ơng cho rằng, đảng cộng sản là chính đảng của GCCN luôn luôn
đứng trên lập trường của GCCN và mọi chủ trương sách lược, chiến lược của
đảng phải xuất phát từ lợi ích của GCCN. Nhưng đảng khơng chỉ đại biểu cho
quyền lợi của GCCN mà còn đại biểu cho quyền lợi của toàn thể nhân dân lao
động. Bởi vì GCCN chỉ có thể tự giải phóng mình khi đồng thời giải phóng
cho các tầng lớp nhân dân lao động khác trong xã hội thoát khỏi áp bức, bóc
lột. "Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch
lao động của người khác" (Sđd, tr. 562).
C.Mác và Ph.ăngghen đòi hỏi đảng cộng sản - đội tiên phong cách

mạng của giai cấp, là bộ phận tiến bộ, giác ngộ có trình độ trong GCCN là bộ
phận của GCCN. Các ông đã chỉ rõ: "Về mặt thực tiễn, những người cộng sản
là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ
phận cổ vũ tất cả những bộ phận khác; về mặt lý luận, họ hơn bộ phận cịn lại
của giai cấp vơ sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả
chung của phong trào vô sản". (Sđd, tr. 558). Đảng phải là người kiên quyết
nhất và biết lôi cuốn quần chúng cùng hành động vì mục đích chung. Muốn
vậy Đảng phải thường xuyên giáo dục trang bị cho đội ngũ đảng viên của
Đảng lý luận về CNXHKH, nắm vững và quyết tâm thực hiện thắng lợi mục
đích của Đảng, của giai cấp.
+ Hai ông cùng kiên quyết đấu tranh để thực hiện hệ thống tổ chức của
Đảng thật khoa học và chặt chẽ. Đảng là một chỉnh thể thống nhất, một cơ thể
sống. Điều lệ của liên đoàn những người cộng sản do Mác và ăngghen soạn
thảo đã chỉ rõ: "Về cơ cấu, liên đoàn gồm chi bộ, khu bộ, tổng khu bộ, ban
chấp hành Trung ương và Đại hội" (Sđd, tr. 494). Điều lệ của Đồng minh
những người cộng sản" tuy chưa nêu thuật ngữ "tập trung dân chủ" những tư
tưởng cơ bản về nguyên tắc tập trung dân chủ đã thể hiện khá rõ làm tiền đề
cho việc xây dựng nguyên tắc tập trung dân chủ sau này của Lênin. Cùng với
9


việc đấu tranh xây dựng chính đảng cộng sản là một khối thống nhất về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, hai ông cùng kiên quyết đấu tranh bài trừ những phần
tử cơ hội ra khỏi đảng. Trên thực tế hai ông đã đấu tranh không khoan nhượng
với những quan điểm cơ hội, và tổ chức của Bacunin và khai trừ Bacunin ra
khỏi Quốc tế I.
Khi luận chứng về sứ mệnh lịch sử của GCCN Mác và ăngghen cũng
chỉ ra rằng, chủ nghĩa quốc tế vô sản là một trong những nguyên tắc về tổ
chức xây dựng Đảng. Khẩu hiệu trong Tuyên ngôn đảng cộng sản: "Vô sản tất
cả các nước, đoàn kết lại" (Sđd, tr. 586) là phương châm hoạt động của phong

trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Những tư tưởng của Mác và ăngghen về chính đảng cộng sản - chính
đảng cách mạng, khoa học của GCCN đã ảnh hưởng trực tiếp, to lớn đến sự
phát triển của tồn bộ phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế. Quốc tế I
(1864 - 1872) và Quốc tế II (1893 - 1914) (trong thời kỳ đầu khi ăngghen cịn
sống) đã góp phần vào việc phát triển phong trào và sự ra đời hàng loạt chính
đảng cách mạng của GCCN trên thế giới.
Tóm lại: Tồn bộ chủ nghĩa Mác cũng như những tư tưởng của Mác và
ăngghen về sứ mệnh lịch sử của GCCN và vai trị của chính đảng cộng sản
với thuộc tính cách mạng và khoa học của nó là nền tảng khoa học và cơ sở lý
luận mà sau này Lênin đã phát triển làm phong phú thêm trong điều kiện mới,
tình hình mới của phong trào công nhân quốc tế ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX đã dẫn đến sự ra đời của các nước XHCN và trở thành hệ thống trên thế
giới.
Kinh nghiệm lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã
chứng minh Học thuyết Mác về sứ mệnh lịch sử của GCCN và chính đảng
cộng sản đến nay vẫn có giá trị to lớn.

10


Thực tiễn sự sụp đổ của các nước XHCN (Liên Xô và các nước XHCN
ở Đông Âu) và các đảng cộng sản mất vai trò cầm quyền đã chứng minh sự
đúng đắn, cách mạng và khoa học của lý luận Mác và ăngghen về sứ mệnh
lịch sử của GCCN và vai trị của chính đảng cộng sản.
Từ kinh nghiệm thực tiễn của phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế đã chứng minh học thuyết Mác là học thuyết mở. Trong q trình hoạt
động thực tiễn địi hỏi vận dụng phải có sự sáng tạo cho phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi dân tộc , mỗi đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn

luyện, trải qua nhiều thử thách đã trở thành đảng mácxít chân chính. Thành
cơng đó là do Đảng ta vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác, xây dựng nên đảng
cộng sản cách mạng và khoa học.
Ngày nay, trên thế giới, bọn cơ hội, xét lại và giai cấp tư sản đang tìm
mọi cách xuyên tạc, nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác, thì việc nghiên cứu làm
rõ bản chất sứ mệnh lịch sử của GCCN là những nguyên lý xây dựng của
GCCN càng có ý nghĩa to lớn giúp ta vững vàng trên con đường mà nhân dân
ta và Đảng ta đã lựa chọn.

11


Phần thứ hai
lê nin bảo vệ và phát triển học thuyết mác về
"sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp cơng nhân
và vai trị của chính đảng cộng sản"
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là thời kỳ đánh dấu bước ngoặt quan
trọng của phong trào công nhân quốc tế lúc này CNTB bước vào giai đoạn
phát triển cao, giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Giai cấp tư sản đã trở thành lực
lượng cản trở sự phát triển của xã hội. Tính phản động của nó đã bao trùm lên
nhiều lĩnh vực của xã hội tư bản. Những mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản
đã tạo điều kiện để cách mạng vô sản nổ ra. Song những lãnh tụ của Quốc tế
II (sau khi ăngghen mất 1895) đã phản bội lại chủ nghĩa Mác, phản bội lại
quyền lợi của GCCN, theo đuôi giai cấp tư sản. Những lãnh tụ của Quốc tế II
đã lũng loạn phong trào công nhân quốc tế, biến các đảng dân chủ - xã hội
thành đảng cải lương thích nghi với đấu tranh nghị trường thuần t.
Trước tình hình đó, Lênin đã kiên trì đấu tranh bảo vệ Học thuyết Mác,
đồng thời ơng kế thừa, phát triển chủ nghĩa Mác lên một nấc thang cao hơn,
cho phù hợp với điều kiện mới và hoàn cảnh mới.
Lênin đã bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác một cách toàn diện ở cả ba

bộ phận, ba nguồn gốc cấu thành chủ nghĩa Mác là: triếtt học, kinh tế chính trị
học và chủ nghĩa xã hội khoa học, Lênin đã làm rõ bản chất sứ mệnh lịch sử
của GCCN và vai trị chính đảng cách mạng của GCCN trong điều kiện, hoàn
cảnh mới khi CNTB bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
1. Lênin bảo vệ và phát triển Học thuyết Mác về sứ mệnh lịch sử
của GCCN và vai trị chính đảng của GCCN
1.1. Tình hình kinh tế - xã hội ở nước Nga và trên thế giới
- Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trong khoa học tự nhiên, đặc biệt là
trong vật lý học đã diễn ra một cuộc cách mạng có tính chất vạch thời đại.
12


Một loạt những phát hiện mới như tia Rơnghen, điện tử, tia phóng xạ,
Ursnion... đã lật đổ quan điểm truyền thống của cơ học cổ điển và thuyết cơ
cơ giới về vật chất. Những thành tựu mới này. Không bác bỏ mà ngược lại
càng khẳng định quan niệm duy vật biện chứng về nhận thức. Nhận thức là
một quá trình, hơn nữa là một q trình vơ tận.
- Lúc này CNTB đã phát triển và bước sang giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa, giai cấp tư sản đã trở thành lực lượng phản động, cản trở sự phát triển
của xã hội. Tính phản động của nó đã bao trùm lên nhiều lĩnh vực của xã hội
tư bản. Dựa vào những kết luận trong bộ "tư bản" của Mác, Lênin đã phân
tích một cách săn sóc chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn mới và chỉ ra rằng, chủ
nghĩa đế quốc là đêm trước của cách mạng xã hội chủ nghĩa, rằng trên thực tế
đã có những "điều kiện khách quan để lật đổ chế độ tư bản".
- Những điều kiện lịch sử mới đã tạo điều kiện để giai cấp công nơng
thực hiện cách mạng vơ sản giành chính quyền về tay GCCN. Nhưng trên
thực tế, các lãnh tụ của Quốc tế II (sau khi ăngghen mất 1895) các lãnh tụ của
Quốc tế II đã xét lại chủ nghĩa Mác, biến các Đảng dân chủ - xã hội thành
đảng cải lương, thực hiện chính sách đầu hàng giai cấp tư sản. ở Nga cách
mạng dân chủ tư sản Nga 1905 - 1907 thất bại, cách mạng rơi vào tình trạng

thối trào. Đảng dân chủ - xã hội Nga bị phân hoá bị các trào lưu tư tưởng
tiểu tư sản tác động sâu sắc. Phong trào công nhân thế giới rơi vào khủng
hoảng nghiêm trọng, vai trị của chính đảng cộng sản của GCCN bị các thế
lực phản động tấn công mạnh mẽ.
Trước tình hình đó Lênin đã kiên trì, kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa Mác,
chứng minh một cách khoa học Học thuyết Mác về sứ mệnh lịch sử của
GCCN và vai trị của chính đảng cộng sản.
1.2. Lênin bàn về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

13


Trong học thuyết về sứ mệnh lịch sử của GCCN, các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa điều kiện khách
quan và nhân tố chủ quan và xem xét việc phát huy những nhân tố chủ quan,
như những điều kiện quyết định trực tiếp để giai cấp cơng nhân hồn thành sứ
mệnh lịch sử của mình.
- Điều quan trọng trước hết là đưa ý thức vô sản vào quần chúng công
nhân. Biến những cuộc đấu tranh tự phát của công nhân chống ách áp bức,
bóc lột của bọn chủ xưởng thành cuộc đấu tranh tự giác chống chế độ tư bản.
Khi nghiên cứu quá trình hình thành ý thức của GCCN và Lênin đã kết luận:
"Nếu công nhân không tự giải phóng mình thì chẳng ai giải phóng cho họ cả",
"nhưng... chỉ có bản năng thơi thì chẳng đi được xa cho nên phải nâng bản
năng đó thành ý thức" (Lênin, Toàn tập, tập 31, Nxb TB Mátxcơva, 1981, tr.
491).
Việc rèn luyện ý thức giai cấp chân chính cho GCCN là một quá trình
thường xuyên và quyết liệt giữa hai hệ tư tưởng tư sản và vô sản.
Muốn cho GCCN hiểu rõ và quyết tâm thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch
sử thế giới của mình thì phải làm cho GCCN thấm nhuần lý luận, lý luận khoa
học của chủ nghĩa Mác và Lênin đã chỉ ra rằng: "đưa vào trong phong trào

công nhân tự phát những tư tưởng XHCN - những tư tưởng này phải đạt đến
trình độ khoa học hiện đại" (Sđd, tập 4, tr. 239) và theo Lênin những tư tưởng
XHCN đó chính là chủ nghĩa Mác và nó đã được Lênin kế thừa, phát triển,
làm phong phú thêm trong thời đại mới - thời đại đế quốc chủ nghĩa.
- Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền và lãnh đạo xây dựng xã hội
mới, đồi hỏi GCCN phải có sự đồn kết chặt chẽ và hành động một cách độc
lập, không bị các trào lưu tư tưởng cơ hội, phản động lôi kéo "quyến rũ" dần
dần chao đảo trong tư tưởng.

14


Sự đồn kết trong phong trào cơng nhân có tính chất quyết định để
GCCN thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. Như Lênin đã khẳng
định: "... Sự thống nhất nhờ thế quý giá vô ngần quan trọng vơ cùng đối với
GCCN. Cơng nhân rời rạc thì khơng thành cái gì cả. Cơng nhân liên hiệp lại
thì là tất cả" (Sđd, tập 24, tr. 242).
Sự đoàn kết thống nhất trong phong trào công nhân không phải diễn ra
một cách tự nhiên và dễ dàng mà nó phải là kết quả của sự tập hợp, giáo dục
nâng cao ý thức giác ngộ thường xuyên đối với GCCN bằng những hình thức
hết sức phong phú và kiên quyết chống chủ nghĩa cơ hội đủ mọi màu sắc. Vậy
việc giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác và xây dựng khối đại đồn kết thống nhất
trong phong trào cơng nhân là trách nhiệm của ai. Đó chính là vai trị, trách
nhiệm của chính đảng cộng sản, chính đảng cách mạng của GCCN. Và việc
kiên trì đấu tranh đi đến xây dựng chính đảng cách mạng - khoa học của
GCCN luôn được chủ nghĩa Mác khẳng định là nhân tố quyết định để GCCN
hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử thế giới của mình.
2. Lênin kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.ăngghen, sáng tạo học
thuyết về chính đảng kiểu mới
Dựa trên những tư tưởng của Mác và ăngghen và thực tiễn hoạt động

của Quốc tế I và quốc tế II. Cũng như thực tế hoạt động của Đảng Bơnsêvích
Nga thành lập năm 1903 và Quốc tế III thành lập năm 1919. Lênin đã đề ra hệ
thống nguyên tắc cơ bản để xây dựng Đảng cộng sản thực sự là chính đảng
của GCCN có đủ sức mạnh đảm nhiệm trách nhiệm lãnh đạo GCCN hoàn
thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử thế giới của mình. Những nguyên tắc cơ bản
của Lênin về Đảng kiểu mới của GCCN, có thể khái quát thành tầm nội dung
như sau:
- Thứ nhất: Chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi
hoạt động của Đảng. Lênin đã chứng minh rằng, khơng có lý luận cách mạng
15


thì sẽ khơng có phong trào cách mạng và khi lý luận cách mạng đã thâm nhập
vào quần chúng thì nó sẽ trở thành sức mạnh vật chất to lớn. Đối với GCCN
thì chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa cách mạng chân chính nhất và chủ nghĩa Mác
đã được Lênin kế thừa phát triển làm phong phú cho phù hợp với điều kiện
mới hoàn cảnh mới của GCCN.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam và trong công tác xây dựng Đảng ta luôn coi chủ nghĩa Mác - Lênin
là kim chỉ nam cho mọi hoạt động; "Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Kim chỉ nam cho hành đông...".
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng
tạo và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của cách
mạng Việt Nam.
- Thứ hai: Đảng Cộng sản là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là
đội ngũ có tổ chức chặt chẽ nhất giác ngộ nhất của GCCN.
Theo Lênin, đảng là đội tiên phong chính trị và là đội ngũ có tổ chức
chặt chẽ, có giác ngộ nhất của GCCN, đảng là người đưa yếu tố tự giác vào
phong trào công nhân, là người định hướng chính trị và là người tổ chức, giáo

dục cho toàn thể giai cấp hành động cach mạng. Lênin cũng chỉ ra rằng không
được lẫn lộn đảng, tức đội tiên phong của giai cấp với giai cấp vai trò tiên
phong của Đảng thể hiện trước hết ở lĩnh vực lý luận. Lênin khẳng định: "chỉ
đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm
tròn vai trò người chiến sỹ tiên phong" (Sđd, tập 6, tr. 32).
- Thứ ba: Khi có chính quyền, Đảng là lực lượng lãnh đạo hệ thống
chính trị của CNXH và là một bộ phận của hệ thống đó.
Dưới sự lãnh đạo của chính đảng GCCN trước hết phải đập tan sự
thống trị của giai cấp tư sản, đập tan nhà nước của giai cấp tư sản, GCCN
16


giành lấy chính quyền. Khi có chính quyền đảng cộng sản vẫn là lực lượng
lãnh đạo cách mạng, là đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của GCCN,
Lênin chỉ ra rằng: "Chủ nghĩa mác giáo dục đảng công nhân, là giáo dục đội
tiên phong của giai cấp vô sản, đội tiên phong này đủ sức tiên phong của giai
cấp vơ sản, đội tiên phong này đủ sức nắm chính quyền và dẫn dắt toàn dân
tiến lên CNXH, đủ sức lãnh đạo và tổ chức một chế độ mới, đủ sức làm thầy,
làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao động và những
người bóc lột để giúp họ tổ chức đời sống xã hội của họ, mà không cần đến
giai cấp tư sản và chống lại giai cấp tư sản" (Sđd, tập 33, tr. 33). Lênin nhấn
mạnh về nguyên tắc, đảng cộng sản phải giữ vai trị lãnh đạo, đó là điều
khơng cịn phải nghi ngờ gì nữa.
- Thứ tư: Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng tổ
chức sinh hoạt và hoạt động của Đảng.
Thời kỳ Mác và ăngghen các ông mới chỉ ra yêu cầu, nội dung xây
dựng hệ thống tổ chức của liên đoàn những người cộng sản, do các ông soạn
thảo trong điều lệ. Qua thực tiễn và nhất là cuộc đấu tranh chống phái cơ hội
trong Quốc tế II, Lênin đã từng bước hoàn thiện và kiên trì đấu tranh bảo vệ
nguyên tắc tổ chức của Đảng. Lênin đã xây dựng nên nguyên tắc tập trung

dân chủ của đảng cộng sản - nội dung nguyên tắc được thông qua tại nghị
quyết cải tổ đảng của Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga. Sau này nguyên
tắc tập trung dân chủ thừa nhận ở Quốc tế III và là một trong những điều kiện
của các đảng cộng sản khi gia nhập quốc tế phải lấy nguyên tắc tập trung dân
chủ, làm nguyên tắc cơ bản trong xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động
của Đảng.
- Thứ năm: Đảng là một khối thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng.

17


Theo Lênin: đoàn kết thống nhất là quy luật trưởng thành của Đảng và
nó bắt nguồn từ bản chất của GCCN. Lênin đã nhấn mạnh muốn đưa cách
mạng đến thắng lợi, Đảng: "phải có một sự thống nhất ý chí hết sức chặt chẽ,
tuyệt đối" (Sđd, tập 36, tr. 245).
Theo Lênin đoàn kết thống nhất trong Đảng là nguồn gốc là sức mạnh
vô tận, vô địch của Đảng, là điều kiện để thực hiện sự đoàn kết Đảng với giai
cấp. Lênin còn chỉ rõ; khi Đảng trở thành đảng cầm quyền, nếu để xảy ra sự
chia rẽ trong Đảng hay giữa Đảng vào giai cấp "không chỉ là nguy hiểm mà
còn là cực kỳ nguy hiểm, nhất là nếu trong nước đó giai cấp vơ sản lại chỉ là
tiểu số nhỏ là trong dân cư" (Sđd, tạp 42, tr. 336).
Đồng thời Đảng phải thường xuyên, nghiêm túc thực hiện tự phê bình
và phê bình trong Đảng.
- Thứ sáu: Đảng gắn bó chặt chẽ với quần chúng, kiên quyết đấu tranh
để ngăn chặn và khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng Lênin chỉ ra
rằng, những người cộng sản chỉ như những giọt nước trong đại dương nhân
dân mênh mông và chỉ riêng với bàn tay những người cộng sản thì khơng thể
xây dựng thành cơng CNXH tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy, đảng cộng
sản phải thường xuyên tăng cường củng cố mối quan hệ máu thịt với quần

chúng nhân dân. Sự chia sẻ giữa Đảng với giai cấp là sự tự sát, tự tước đi sức
mạnh của Đảng.
Đồng thời, Đảng phải thường xuyên đấu tranh ngăn ngừa, khắc phục
bệnh quan liêu, xa rời quần chúng của Đảng của một bộ phận cán bộ, đảng
viên khi có chức có quyền trong giai đoạn Đảng cầm quyền.
- Thứ bảy: Đảng phải tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của GCCN
và nhân dân lao dộng vào Đảng, phải thường xuyên đưa những người không
đủ tiêu chuẩn và những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng.

18


Đảng cộng sản là một chỉnh thể, một cơ thể sống, do vậy phải thường
xuyên được bổ sung những tế bào mới, với sức sống mới bằng cách thường
xuyên kết nạp những đại biểu ưu tú vào Đảng. Đây là quy luật tồn tại và phát
triển của đảng. Đồng thời trong mọi giai đoạn cách mạng Đảng phải tự chỉnh
đốn, kiên quyết đưa những người không đủ tiêu chuẩn, và những phần tử cơ
hội ra khỏi Đảng.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải luôn là đại biểu cho trí tụê,
danh dự và lương tâm của thời đại. Lênin đã nhắc nhở: cần phải đuổi cổ ra
khỏi đảng những kẻ gian xảo, những đảng viên cộng sản đã quan liêu hố,
khơng trung thực, nhu nhược (Sđd, tập 44, tr. 154).
- Thứ tám: Tính quốc tế của đảng cộng sản.
Chủ nghĩa quốc tế của GCCN là bản chất của đảng cộng sản. Bản chất
đó bắt nguồn từ vai trị, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của GCCN.
Khẩu hiệu của Mác và ăngghen trong tuyên ngôn đảng cộng sản "vô
sản tất cả các nước đoàn kết lại" đã được Lênin phát triển" vơ sản tồn thế
giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại.
Tám nguyên tắc của Lênin là sự phát triển chủ nghĩa Mác trong điều
kiện mới, nó đảm bảo để đảng cộng sản - chính đảng của GCCN ln giữ

vững tính tiên phong và là bộ tham mưu chiến đấu của GCCN.
Tóm lại
- Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là thời kỳ diễn ra cuộc khủng hoảng
về triết học bởi sự phát triển của khoa học tự nhiên với những phát minh vĩ
đại các nhà khoa học đứng trước sự bế tắc lý giải về tự nhiên về thế giới vật
chất.
- Cùng thời kỳ này CNTB có sự phát triển mạnh mẽ đạt đến trình độ
mới, CNTB chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Những mâu thuẫn
trong lòng xã hội tư bản và mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và tư sản trở nên
gay gắt, cách mạng vô sản trở thành nhiệm vụ trực tiếp.

19


- Sau khi Ph.ăngghen mất (1897) các lãnh tụ của Quốc tế II đã phản bội
chủ nghĩa Mác, phản bội lại lợi ích của GCCN, theo đi giai cấp tư sản,
thích nghi với đấu tranh nghị trường thuần tuý.
- Trước tình hình ấy Lênin đã kiên trì bảo vệ chủ nghĩa Mác, bảo vệ
bản chất cách mạng - khoa học của chính đảng cộng sản. Lênin đã luận giải
sứ mệnh lịch sử của GCCN và vai trị của chính đảng cộng sản trong điều
kiện mới, hoàn cảnh mới.
- Đặc biệt trên cơ sở tư tưởng của Mác và Ph.ăngghen về chính đảng
cộng sản, Lênin đã phát triển và hồn thiện nguyên tắc cơ bản xây dựng đảng
cộng sản thành tổ chức chiến đấu chặt chẽ, thực sự là đội tiên phong, bộ tham
mưu chiến đấu của GCCN, có đủ khả năng, năng lực dần dần GCCN đi đến
thắng lợi cuối cùng.

20




×