Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Mô hình quản trị nhà trường trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (701.48 KB, 7 trang )

MƠ HÌNH QUẢN TRỊ NHÀ TRƯỜNG TRONG BỐI CẢNH
ĐỔI MỚI GIÁO DỤC HIỆN NAY
PGS.TS. Đặng Xuân Hải1
Tóm tắt
Bài viết tập trung phân tích đặc điểm của mơ hình quản trị một cơ sở GD gắn với 3
vấn đề, đó là sự phân bổ quyền lực cho các cơ sở GD và trong nội bộ cơ sở GD, là
cách thức đo lường đánh giá hiệu quả công việc mà cơ sở GD đảm nhiệm và tính tự
chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở GD đó cũng như các thành viên tham gia hoạt
động của cơ sở GD đó. Nội dung bài viết cũng đề cập đến giải pháp có tính điều kiện
cho việc triển khai quản trị nhà trường trong bối cảnh mới.
Từ khóa: Quản trị nhà trường; Tự chủ; hiệu quả.

Đặt vấn đề
Nghị quyết 29/NQ-TƯ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo (năm 2013) yêu
cầu “Chuyển mạnh từ quản lí giáo dục, quản lí nhà trường nặng tính hành chính sang coi
trọng quản lí chất lượng (QLCL)…”.Trên cơ sở đó các nhà trường phải tích cực chuyển đổi
từ cách quản lí nặng về chờ đợi và dựa dẫm vào chỉ đạo từ cấp trên; quá coi trọng kiểm tra
hành chính, thanh tra vụ việc và dựa vào báo cáo thành tích, kìm hãm sự sáng tạo của giáo
viên và học sinh sang coi trọng quản lí theo quy trình đảm bảo chất lượng và quản lí chất
lượng giáo dục, đặc biệt coi trọng sự phát triển về phẩm chất năng lực của người học và coi
trọng “quản trị nhà trường hiệu quả”.
Thời gian gần đây có nhiều khuyến cáo các cơ sở GD phải chuyển đổi mơ hình quản
lí đã vận hành một thời gian dài trong “cơ chế bao cấp” sang phát huy mô hình quản trị
thích ứng với “cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Bài viết này hướng vào tìm
câu trả lời cho câu hỏi về mơ hình quản trị một nhà trường thích ứng với “cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa” có những đặc điểm gì và làm thế nào để vận hành mơ hình
đó trong thực tiễn GD ở Việt Nam trong bối cảnh đổi mới GD hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu
Từ khi Nghị quyết số 29- NQ/TW về “đổi mới căn bản toàn diện giáo dục…” ra đời đã
có nhiều văn bản chỉ đạo đề cập đến vấn đề “đổi mới quản trị nhà trường” phù hợp với yêu
1



Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội; Điện thoại: 0967685905;
Email:


390

KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ NHẤT VỀ ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN

cầu mới, tuy nhiên trên thực tế, nhiều CBQL nhà trường đang lúng túng về nội dung và cách
thức đổi mới này. Chúng tôi điều tra nhận thức của CBQL nhà trường về một số nội dung
liên quan đến vấn đề nêu trên (điều tra thông qua các lớp bồi dưỡng CBQL nhà trường của
dự án Phát triển THPT 2 Bộ Giáo dục và Đào tạo). Các câu hỏi chúng tơi điều tra được trình
bày dưới đây:
1. Nội dung của khuyến cáo “chuyển mạnh từ cách quản lí nặng hành chính sang coi
trọng quản lí chất lượng” ở các cơ sở GD.
2. Phân biệt sự giống nhau và khác nhau khi nói về khái niệm quản lí và quản trị nhà
trường.
3. Vì sao khi thực hiện nội dung “đổi mới căn bản, toàn diện GD” các cơ sở GD phải coi
trọng quản trị nhà trường hiệu quả.
4. Biện pháp và quy trình tạo động lực cho GV và HS để thực hiện có kết quả yêu cầu
đổi mới giáo dục hiện nay.
5. Cách xây dựng mơi trường giáo dục an tồn, lành mạnh, thân thiện, dân chủ, phòng,
chống bạo lực học đường ở nhà trường.
6. Quản trị hoạt động dạy học, giáo dục học sinh theo tinh thần đổi mới, đặc biệt
chuyển từ GD có tính áp đặt, dạy học coi trọng mục tiêu kiến thức sang dạy học hướng vào
mục tiêu hình thành và phát triển năng lực cho HS phải có cách thức đánh giá GV mới.
7. Mơ hình quản trị một nhà trường thích ứng với “cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa” có những đặc điểm gì và làm thế nào để vận hành mơ hình đó trong thực tiễn GD
ở Việt Nam trong bối cảnh đổi mới GD hiện nay.

8. Đối tượng và kết quả khảo sát nhận thức của CBQL nhà trường trước yêu cầu đổi
mới GD hiện nay.
Đối tượng điều tra là CBQL ở 27 địa phương phân bổ trên mọi vùng, miền của Việt Nam.
Sau khi loại bỏ các phiếu không đạt yêu cầu do bỏ trống câu hỏi (không đánh dấu vào
ô nào cả), chúng tôi đã thu được 671 phiếu, với các tỉ lệ ở các địa phương cụ thể sau:
Trung bình số lượng tham gia khảo sát phân bố khá đồng đều trong khoảng từ 20-25
CBQL nhà trường ở mỗi địa phương (có 1 địa phương có số phiếu triều tra thu được gần 60).
Khảo sát về nhận thức của CBQL nhà trường về một số nội dung liên quan đến đổi mới quản
trị nhà trường trước yêu cầu đổi mới GD hiên nay. Kết quả khảo sát, trung bình khoảng 60%
đến 80% đối tượng được khảo sát không hoặc chưa phân biệt khái niệm quản lí hay quản trị
nhà trường và cho rằng đó là ngơn ngữ của những nhà nghiên cứu. Có từ khoảng 12% đến
40% khách thể đánh dấu vào ơ “khơng có ý kiến” vì họ cho rằng những vấn đề đặt ra chưa có
nhận thức thấu đáo nên không muốn trả lời “đã biết” hay “chưa biết”. Đặc biệt câu hỏi số 7:
“Mơ hình quản trị một nhà trường thích ứng với “cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” có những đặc điểm gì và làm thế nào để vận hành mơ hình đó trong thực tiễn GD ở
Việt Nam trong bối cảnh đổi mới GD hiện nay”, 90% khách thể khảo sát đều đánh dấu vào
ơ “chưa biết”; 10% là “khơng có ý kiến”.


Phần 3: TƯƠNG LAI CỦA GIÁO DỤC VIỆT NAM: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC...

391

Biểu đồ 1: Số lượng đối tượng điều tra phân bố theo địa phương
Vấn đề chuyển đổi mơ hình quản lí đã vận hành một thời gian dài trong “cơ chế bao
cấp” sang phát huy mơ hình quản trị thích ứng với “cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” cần được nghiên cứu, giải đáp.
1. Nội dung vấn đề
Để thực hiện yêu cầu “Chuyển mạnh từ quản lí giáo dục, quản lí nhà trường nặng tính
hành chính sang coi trọng quản lí chất lượng (QLCL)…” đã đề cập trong Nghị quyết 29/NQTƯ về “đổi mới căn bản toàn diện giáo dục….” và tìm hiểu về mơ hình quản trị nhà trường

thích ứng với “cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” cần thiết phải nhận diện một
số vấn đề, có thể kể ra 2 vấn đề sau:
Đặc điểm của quản lí các cơ sở GD trong “cơ chế bao cấp”
Trong “cơ chế bao cấp” quá coi trọng sự can thiệp của nhà nước vào các hoạt động cụ
thể của các cơ sở GD vì vai trị, trách nhiệm của nhà nước là bao trùm, nên quản lí ở các cơ
sở GD cũng nặng “tính hành chính” và được bao cấp mọi nguồn lực, coi trọng việc tuân thủ
chỉ đạo từ các cấp quản lí là “bùa hộ mệnh” cho sự phát triển, đồng thời với sự tự chủ không
cao là tính chịu trách nhiệm cũng rất thấp.
Nhiều vấn đề liên quan đến quản trị nhà trường CBQL chưa được tiếp cận như khái
niệm “dịch vụ sự nghiệp cơng” cịn xa lạ và các cơ sở GD, mới chỉ được hiểu là sự vận hành
theo quan điểm “phục vụ yêu cầu của nhà nước và của nhân dân” chung chung. Đặc điểm
của quản lí các cơ sở GD trong “cơ chế bao cấp” có thể tóm tắt ngắn gọn là “tuân theo” và
“xin- cho”; chưa coi trọng đúng mức tính tự chủ và tính chịu trách nhiệm (hay trách nhiệm
giải trình) của các cơ sở GD. Vì vậy, để thích ứng với u cầu đổi mới GD phải chuyển sang
mơ hình “quản trị nhà trường” một cách hiệu quả, phù hợp với “cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”.


392

KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ NHẤT VỀ ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN

2. Đặc điểm mơ hình quản trị cơ sở GD thích ứng với “cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
Trong “cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” GD nói chung và các cơ sở
GD nói riêng trở thành “dịch vụ sự nghiệp công” và từ “phục vụ” chung chung chuyển
sang chữ “dịch vụ” và quản lí, điều hành GD nói chung, các cơ sở GD nói riêng đã chuyển
dịch sang nội hàm mới. Tính “dịch vụ” buộc các nhà quản lí các cơ sở GD phải “cân đong,
đo dếm” các kết quả so với các chi phí hay nói cách khác lời giải của bài tốn “chi phí-lợi
ích” ln được coi trọng và cách thức quản lí đổi với nhà trường và quản lí nội bộ nhà
trường cần phải có những thay đổi. Mặc dù chức năng cơ bản của GD vẫn là “đáp ứng các

nhu cầu cơ bản về phát triển của con người” thông qua việc cung cấp “hàng hóa phi hiện
vật” do nhà nước điều tiết nhưng sẽ xuất hiện khái niệm “khách hàng” (người được cung
ứng dịch vụ) và những “người có lợi ích liên đới” (Stakeholders). Tuy nhiên các cơ sở GD
sẽ gặp nhiều thách thức về văn hóa quản lí cũng như năng lực để có thể thực hiện được
“tự chủ và trách nhiệm giải trình” khi nhà nước thay đổi cơ chế quản lí GD. Vấn đề chuyển
đổi mơ hình quản lí đã vận hành một thời gian dài trong “cơ chế bao cấp” sang phát huy
mơ hình quản trị thích ứng với “cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” cần một
số nhận thức mới và hành động phù hợp với yêu cầu của “quản trị nhà trường hiệu quả”.
Để có thể chuyển đổi thành cơng mơ hình, cần nhận diện và hiểu đúng bản chất của một
số khái niệm đang được sử dụng trong điều hành các cơ sở GD. Có thể kể ra đây nội dung
của 3 điểm liên quan sau:
Quản lí và quản trị nhà trường
Từ Managerment trong tiếng Anh có người dịch là quản lí (quản lí nhà nước; quản lí
giáo dục,…), có người dịch là quản trị (quản trị kinh doanh, quản trị doanh nghiệp,…). Với
góc nhìn này quản lí và quản trị khi dùng vào cho thiết chế nhà trường về bản chất khơng
có sự phân biệt rõ ràng, nếu đặt vấn đề cần phân biệt thì cũng chỉ có ý nghĩa tương đối.
Hiện nay một số tài liệu nước ngồi khi nói đến quản trị cũng dùng từ Administration hoặc
Governance để phân biệt qua hình thức dùng từ khi vận dụng khái niệm trên vào quản lí
GD và quản lí nhà trường.
Khi nói về từ Managerment khi dịch sang tiếng Việt, quản lí hay quản trị có nội hàm
nhận diện qua một số khía cạnh giống nhau như sau:
Đều là q trình tác động có ý thức để thực hiện mục tiêu phát triển một tổ chức nào
đó thơng qua huy động và sử dụng các nguồn lực.
Đều có đối tượng tác động là con người và công việc của đơn vị (ở các cơ sở GD thì đó
là đội ngũ GV, HS và hoạt động dạy học, giáo dục), đều thông qua các chức năng quản lí để
tiến hành các hoạt động xây dựng các định hướng, quy định, kế hoạch hoạt động, để phát
triển một đơn vị theo sứ mạng, tầm nhìn và mục tiêu của tổ chức.
Người thực hiện chức năng quản lí hay quản trị (Managerment) một cơ sở GD phải trả
lời các câu hỏi sau:
- Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của một cơ sở GD cần phải làm những việc gì hay

triển khai những hoạt động nào; những việc đó khi nào làm và khi nào phải kết thúc; những


Phần 3: TƯƠNG LAI CỦA GIÁO DỤC VIỆT NAM: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC...

393

điều kiện, nguồn lực cần thiết cho các hoạt động đó như thế nào; các kết quả mong đợi của
các hoạt động; các biện pháp cần áp dụng khi triển khai các hoạt động?....
- Những việc đó ai sẽ là người chịu trách nhiệm chính và ai là người phối hợp, cơ chế
phối hợp phải như thế nào; Các bước để thực hiện các hoạt động đó?
- Cần hướng dẫn, điều chỉnh hoặc hỗ trợ cho những người thực hiện các công việc
được giao hoặc được ủy quyền như thế nào; cần tạo động lực cho những người thực hiện
như thế nào để hoạt động đề ra đi đến đích đã định một cách hiệu quả nhất?
- Những tiêu chí, yêu cầu cụ thể nào cần đặt ra để đánh giá kết quả đạt được của hoạt
động sẽ triển khai; quy trình tiến hành kiểm tra, đánh giá các hoạt động và kết quả các hoạt
động thế nào là hợp lí; ai quyết định đánh giá kết quả hoạt động dựa trên mức độ đạt được
các tiêu chí đã đề ra?…
Tuy nhiên nếu cần phân biệt hai khái niệm này thì khi đề cập đến khái niệm quản lí hay
quản trị có một số góc nhìn sau:
Quản lí coi trọng q trình dẫn đến kết quả: coi trọng mối quan hệ giữa con người và
sự phối hợp con người khi thực hiện công việc và đặt trọng số vào việc làm thỏa mãn nhu
cầu của con người trong tổ chức khi thực hiện nhiệm vụ nên khi nói quản lí là nhấn mạnh
cơ chế phân cấp, phân quyền, phối hợp trong tổ chức, điều hành.
Quản trị coi trọng kết quả đạt được: nhấn mạnh tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm, yêu
cầu phải thực hiện đúng quy trình đảm bảo chất lượng sản phẩm để hồn thành cơng việc
một cách có chất lượng, hiệu quả; coi trọng tính kỷ luật.
Như vậy khác nhau ở đây nằm ở “trọng số ưu tiên” cho khía cạnh nào khi triển khai
các hoạt động tổ chức, điều hành thực hiện nhiệm vụ khi chuyển đổi mơ hình quản trị ở một
cơ sở GD.

Phân bổ quyền lực cho cơ sở

QTNT
Đo lường đánh giá
hiệu quả hoạt động

Tự chủ-tự chịu
trách nhiệm

MƠ HÌNH QUẢN TRỊ MỘT CƠ SỎ GD TRONG ĐỔI MỚI QLGD

Với quan điểm nêu trên, khi chuyển sang mô hình quản trị thích ứng với “cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa” cần nhận thức rõ hơn nội hàm của từ quản trị khi sử
dụng cho mô hình quản trị một cơ sở GD. Về bản chất của quản trị, trong quyển sách “Tinh
hoa của quản trị” của Peter F. Drucker [4] có viết: “Quản trị phải tập trung vào kết quả và


394

KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ NHẤT VỀ ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN

thành tích hoạt động của tổ chức”. Như vậy mơ hình quản trị một cơ sở GD gắn với 3 vấn đề,
đó là sự phân bổ quyền lực cho các cơ sở GD và trong nội bộ cơ sở GD, cách thức đo lường
đánh giá hiệu quả công việc mà cơ sở GD đảm nhiệm và tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
cơ sở GD đó cũng như các thành viên tham gia hoạt động của cơ sở GD đó (Mơ hình kiềng
3 chân trong quản trị một cơ sở GD): Có thể mơ tả như sơ đồ sau:
(2) Cách thức phân chia thẩm quyền hợp lí giữa các chủ thể quản lí cơ sở GD bao gồm:
Nhà nước, nhà trường, thị trường và xã hội
Nhà nước phải xây dựng được thể chế rõ ràng, minh bạch có tính kiến tạo cho việc vận
hành các cơ sở GD; Nhà trường được giao quyền tự chủ thực hiện các hoạt động theo sứ

mệnh được nhà nước và xã hội giao phó; Thị trường sẽ tạo ra động lực cho việc “cạnh tranh
lành mạnh” trong quá trình vận hành các hoạt động GD theo sứ mệnh của cơ sở GD đã được
nhà nước và xã hội công nhận; Xã hội tham gia thông qua phản biện và đánh giá kết quả
hoạt động GD và hiệu quả mà cơ sở GD đó mang lại.
Để đổi mới cơ chế quản lí giáo dục hiện nay, Nhà nước đã và đang tăng cường cơ chế
phân cấp, phân quyền, giám sát và u cầu giải trình. Quản lí giáo dục hiện nay cần thực hiện
cơ chế “quản lí dựa vào nhà trường”, tức là nhà trường được tự chủ theo qui định của pháp
luật và tự chịu trách nhiệm xã hội, đồng thời coi trọng giám sát và kiểm định, dân chủ và cơng
khai. Đối với quản lí ở các nhà trường thì phải quản lí theo quan điểm “lấy giáo viên và người
học làm trung tâm”, bảo đảm sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội với mục đích
cuối cùng là nâng cao chất lượng và hiệu quả GD.
Trong mơ hình quản trị cơ sở GD mới khái niệm “cơ quan chủ quản” mang tính hành
chính, áp đặt dần được thay bằng cách thức tổ chức bộ máy lãnh đạo, trách nhiệm của bộ
máy, sự phân chia quyền lực giữa bộ máy với đội ngũ được thể hiện thông qua một thiết
chế quyền lực của cơ sở GD đó là “Hội đồng trường”. Thẩm quyền cao nhất về việc ra quyết
định thuộc về hội đồng trường, Hiệu trưởng là người được hội đồng trường tuyển chọn.
Hội đồng trường phải là cơ quan quyền lực cao nhất đối với một cơ sở GD, nó quyết định
những vấn đề lớn của nhà trường liên quan đến chiến lược phát triển, tổ chức bộ máy, phân
bổ nguồn lực cho các hoạt động.
(3) Nâng cao năng lực quản trị của các cơ sở GD và nhà trường, đổi mới cách đánh
giá kết quả của và trong nhà trường.
Nói đến nâng cao năng lực quản trị của các cơ sở GD và nhà trường là nói đến cách
thức bồi dưỡng cho đội ngũ CBQLNT tổ chức bộ máy quản trị nội bộ nhà trường tinh gọn
và hiệu lực, điều này cũng liên quan đến sự phân chia quyền lực giữa bộ máy với đội ngũ
chịu trách nhiệm chính trong việc thực thi sứ mệnh của cơ sở GD đó và khả năng điều hành
hiệu quả nhà trường trước những yêu cầu mới của XH nói chung, của đổi mới GD nói riêng.
Điều đó hàm ý là chuyển dần từ việc coi trọng mối quan hệ thứ bậc và sự phối hợp thụ động
giữa con người với nhau khi thực hiện công việc sang coi trọng hơn tính tự chủ và tự chịu
trách nhiệm của các cơ sở GD và của đội ngũ thực thi nhiệm vụ trong cơ sở GD đó, yêu cầu
phải thực hiện đúng quy trình thủ tục của việc đảm bảo chất lượng GD và hồn thành cơng

việc một cách có chất lượng, hiệu quả, tạo điều kiện cho nhà trường và GV được chủ động


Phần 3: TƯƠNG LAI CỦA GIÁO DỤC VIỆT NAM: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC...

395

trong việc thực hiện sứ mạng của mình. Với một nhà trường, trong Thơng tư số 14/2018/TTBGDĐT ngày 20 tháng 7 năm 2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo [3], quy định Chuẩn hiệu
trưởng các cơ sở giáo dục phổ thông, quản trị nhà trường được định nghĩa theo góc nhìn
của lí thuyết hoạt động: “Quản trị nhà trường là quá trình xây dựng các định hướng, quy định,
kế hoạch hoạt động trong nhà trường; tổ chức hoạt động dạy học, giáo dục học sinh thông qua huy
động, sử dụng các nguồn lực, giám sát, đánh giá trên cơ sở tự chủ, có trách nhiệm giải trình để
phát triển nhà trường theo sứ mạng, tầm nhìn và mục tiêu giáo dục của nhà trường” [3]. Trong
mơ hình quản trị cơ sở GD đáp ứng yêu cầu đổi mới GD hiện nay cần chú trọng đến những
nội dung hoạt động sau:.
- Tổ chức xây dựng kế hoạch phát triển nhà trường trên cơ sở tự chủ, có trách nhiệm
giải trình.
- Quản trị hoạt động dạy học, giáo dục học sinh chú trọng chuyển từ GD có tính áp đặt,
dạy học coi trọng mục tiêu kiến thức sang phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh, dạy
học hướng vào mục tiêu hình thành và phát triển năng lực HS.
- Quản trị nhân sự nhà trường theo hướng tăng tính chủ động, sáng tạo của GV, coi
trọng việc tạo động lực cho người dạy và người học.
- Quản trị tổ chức, hành chính nhà trường theo hướng coi trọng phân công, ủy quyền
trên cơ sở “bản mơ tả cơng việc”.
- Quản trị tài chính nhà trường với việc đa dạng hóa nguồn lực và sử dụng hiệu quả các
nguồn tài chính nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường.
- Quản trị cơ sở vật chất, thiết bị và công nghệ trong dạy học, giáo dục học sinh của nhà
trường trên cơ sở coi trọng khả năng sử dụng cơ sở vật chất, thiết bị và công nghệ cho việc
nâng cao chất lượng GD và dạy học.
- Quản trị chất lượng giáo dục trong nhà trường trên cơ sở coi trọng tự đánh giá mức

độ đạt được chất lượng và chủ động tham gia quá trình kiểm định chất lượng nhà trường,
sử dụng kết quả tự đánh giá và kiểm định để cải tiến chất lượng nhà trường.
- Chú trọng xây dựng được mơi trường giáo dục an tồn, lành mạnh, thân thiện, dân
chủ, phòng, chống bạo lực học đường.
Đánh giá kết quả nhà trường và năng lực của hiệu trưởng phải dựa trên các tiêu chuẩn,
tiêu chí cơng khai và bám sát các yêu cầu trên. Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ và năng
lực của giáo viên phải dưa trên các tiêu chuẩn, tiêu chí bám sát các yêu cầu của chuẩn GV
vừa mới ban hành.
3. Một số giải pháp cho vận hành mơ hình quản trị trong điều kiện đổi mới GD
3.1. Tạo môi trường cho việc cạnh tranh lành mạnh giữa các thiết chế thực hiện sự
nghiệp GD&ĐT

Khi chuyển đổi mơ hình quản trị cơ sở GD sẽ đối mặt với một số vấn đề mới. Theo
tinh thần của NQ 19/NQ-TƯ ngày 25 tháng 10 năm 2017 khuyến khích “xã hội hóa dịch



×