Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Thực trạng cân đối NSNN việt nam hiện nay. những giải pháp xử lí thâm hụt ngân sách nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.65 KB, 38 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
********
THẢO LUẬN :
THỰC TRẠNG CÂN ĐỐI NSNN VIỆT NAM HIỆN
NAY. NHỮNG GIẢI PHÁP XỬ LÍ THÂM HỤT NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC
Danh sách thành viên nhóm 6 - KTD - K10:
1. Tống Thị Hồng Nhung
2. Nguyễn Thị Hiên
3. Vũ Thu Hà
4. Nguyễn Thị Thêu
5. Nguyễn Thị Ngọc Mai
6. Đinh Thị Hương
7. Dương Thị Hường
8. Trần Thùy Dương
9. Trần Thị Giang
10. Trần Lệ Hằng
11. Lê Thị Hương
HÀ NỘI - 5/2009
1
MỤC LỤC
TIÊU ĐẾ TRANG
Lời mở đầu 3
Phần I: Lý luận chung 5
I.1. Khái quát về NSNN 5
I.1.1. Khái niệm vè NSNN 5
I.1.2. Đặc điểm NSNN 7
I.2. Cân đối NSNN 9
I.2.1. Khái niệm cân đối NSNN 9
I.2.2. Đặc điểm cân đối NSNN 10


I.2.3. Vai trò của cân đối NSNN … 11
I.3. Thâm hụt NSNN 13
I.3.1.Khái niệm về thâm hụt NSNN 13
I.3.2.Nguyên nhân thâm hụt NSNN 14
Phần II. Thực trạng cân đối NSNN 15
II.1. Thực trạng thu NSNN 15
II.2. Thực trạng chi NSNN 21
II.3. Thực trạng thâm hụt NSNN 27
Phần III. Giải pháp xử lí thâm hụt NSNN 30
III.1. Thuận lợi, khó khăn trong cân đối
NSNN
30
III.2. Giải pháp xử lí thâm hụt NSNN 31
III.2.1.Biện pháp“tăng thu, giảm chi” 31
III.2.2. Vay nợ trong nước 32
III.2.3. vay nợ nước ngoài 34
III.2.4. Sử dụng dữ trự ngoại tệ 35
III.2.5.Vay ngân hàng (in tiền) 35
Kết luận 37
Tài liệu tham khảo 38
LỜI MỞ ĐẦU
Mỗi một nhà nước khi thành lập và bắt đầu đi vào hoạt động thì đều có
ngân sách nhà nước để đảm bảo thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình, để
thực hiện được tốt chức năng và nhiệm vụ đó thì đòi hỏi phải có một ngân sách
nhà nước cân đối và ổn định. Vì tình hình kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia luôn
biến đổi không ngừng nó có thể là tăng trưởng, phát triển nhưng cũng có thể rơi
vào khủng hoảng, suy thoái. Điều này dẫn đến ngân sách nhà nước có thể rơi
vào tình trạng bội chi hay bội thu. Vì vậy mỗi quốc gia cần lựa chọn và vận
2
dụng những phương cách khác nhau phù hợp với tình hình kinh tế- xã hội của

nước mình để cân đối ngân sách nhà nước cho hiệu quả.
Trong xu thế hội nhập kinh tế như hiện nay, vấn đề cân đối ngân sách nhà
nước là rất quan trọng và cần được quan tâm đúng mức. Bỡi lẽ, ngân sách nhà
nước là công cụ tài chính cốt yếu để Nhà nước điều phối toàn xã hội, giải quyết
những vấn đề khó khăn của đất nước, đem lại sự công bằng cho người dân,…
Nhưng để đảm bảo tốt những vai trò trên thì ngân sách nhà nước phải được cân
đối. Thực tế ở Việt Nam trong thời gian vừa qua, ngân sách nhà nước không ổn
định và mất cân đối đã kéo theo những hậu quả làm ảnh hưởng đến sự phát triển
của nền kinh tế và nhiều vấn đề xã hội nãy sinh như: thu vào ngân sách nhà
nước không đủ chi dẫn đến nợ nước ngoài nhiều, lạm phát tăng nhanh, không có
nguồn tài chính để đầu tư đúng mức vào hoạt động kinh tế… Để khắc phục
những vấn đề trên, chính phủ đã có nhiều cố gắng trong việc cải cách quản lý
hành chính, đổi mới chính sách thu, chi ngân sách để hướng tới một ngân sách
nhà nước được cân đối nhằm góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, ổn định xã
hội và kiểm soát tình trạng lạm phát đang diển ra ở nước ta và đưa Việt Nam
tiến vào thời kỳ hội nhập của nền kinh tế thế giới. Vì những lý do trên nên
chúng em đã chọn chủ đề thảo luận là :
“ Thực trạng cân đối ngân sách nhà nước hiện nay và những giải pháp
xử lý thâm hụt ngân sách nhà nước”.
PHẦN MỘT : LÝ LUẬN CHUNG
I.1 . Khái Quát Về Ngân Sách Nhà Nước
I.1.1.Khái niệm ngân sách nhà nước
Một Nhà nước muốn tồn tại và phát triển cần có một nguồn quỹ tài
chính (Nguồn quỹ này được Nhà nước huy động từ trong xã hội) để phục
vụ cho hoạt động của Nhà nước, giúp Nhà nước thực hiện chức năng và
3
nhiệm vụ của mình.Chính vì vậy, sự ra đời của Nhà nước cũng kéo theo
sự hình thành về ngân sách nhà nước.
Lúc đầu, ngân sách nhà nước được hiểu là một nguồn quỹ hoặc là túi
tiền của người quản lý ngân khố, nó là toàn bộ những khoản thu chi thuộc

về Nhà nước và do Nhà nước thực hiện.
Cho đến nay, có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm ngân sách nhà
nước :
 Thứ nhất: Ngân sách nhà nước là bản dự toán thu - chi tài
chính của nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định,
thường là một năm.
 Thứ hai: Ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ tập trung của nhà
nước, là kế hoạch tài chính cơ bản của nhà nước.
 Thứ ba: Ngân sách nhà nước là những quan hệ kinh tế phát
sinh trong quá trình nhà nước huy động và sử dụng các nguồn
tài chính khác nhau.
Xét về phương diện kinh tế: ngân sách nhà nước là bảng dự toán về
các khoản thu và các khoản chi tiền tệ của một quốc gia, được cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền quyết định thực hiện trong một khoản thời hạn
nhất định, thường là một năm. Từ định nghĩa đó ta thấy có 2 yếu tố cơ
bản trong ngân sách nhà nước:
+ Ngân sách nhà nước là một bảng kế hoạch tài chính của một quốc gia,
thông qua hành vi kinh tế là xác lập nội dung thu chi liên quan đến ngân
quỹ của Nhà nước. Do đó phải được Quốc hội với tư cách là người đại
diện cho toàn thể nhân dân trong quốc gia đó quyết định trước khi chính
phủ đem ra thi hành trên thực tế, để đảm bảo cho việc thu, chi ngân sách
có hiệu quả và phù hợp với người dân.
+ Ngoài ra, Quốc hội còn là người giám sát chính phủ trong quá trình thi
hành ngân sách và có quyền phê chuẩn bảng quyết toán ngân sách hàng
năm do chính phủ đệ trình khi năm ngân sách kết thúc.
4
Xét về phương diện pháp lý : ngân sách nhà nước được hiểu là một đạo
luật đặc biệt của mỗi quốc gia do Quốc hội ban hành và chính phủ thực
hiện trong một thời hạn xác định. Nhưng khác với những đạo luật thông
thường, ngân sách nhà nước được cơ quan lập pháp tạo ra theo trình tự

thủ tục riêng và hiệu lực thi hành của đạo luật này được xác định rõ ràng
là một năm.
Theo Điều 1 - Luật Ngân sách Nhà nước 2002, ngân sách nhà nước được
định nghĩa là:
“ Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện
trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà
nước”.
Từ sự phân tích trên, ta có thể xác định : Ngân sách nhà nước phản ánh
các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng
các quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước khi nhà nước tham gia phân phối
các nguồn tài chính quốc gia nhằm thực hiện các chức năng của nhà
nước trên cơ sở luật định
I.1.2. Đặc điểm Ngân sách Nhà nước
Thông qua định nghĩa về ngân sách nhà nước, ta thấy ngân sách nhà
nước là một loại hình ngân sách đặc biệt quan trọng. Nó không chỉ mang
những đặc điểm chung của các loại ngân sách thông thường, mà còn hàm
chứa những đặc điểm riêng thể hiện bản chất của một loại hình ngân sách
của một quốc gia như:
Ngân sách nhà nước vừa là một bảng kế hoạch tài chính vừa là một
đạo luật của một quốc gia. Ngân sách nhà nước chính là toàn bộ các
khoản thu, chi của một quốc gia đã được dự toán thực hiện trong một
5
năm, việc thiết lập ngân sách nhà nước không chỉ mang tính kỹ thuật
nghiệp vụ kinh tế giống như các loại ngân sách thông thường khác mà nó
còn mang tính kỹ thuật pháp lý, ngân sách nhà nước được soạn thảo và
thực hiện bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đặc biệt phải được Quốc
hội xem xét, biểu quyết thông qua giống như việc ban hành một đạo luật.
Đặc điểm này đã làm cho ngân sách nhà nước khác hẵn với các loại ngân
sách thông thường khác như: ngân sách của gia đình của các tổ chức

chính tri- xã hội,… Ngân sách nhà nước đảm bảo về giá trị pháp và bắt
buộc các chủ thể liên quan phải thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của
mình giống như việc thực hiện, chấp hành một đạo luật. Còn các loại
ngân sách khác thì việc thực hiện và chấp hành của các chủ thể có liên
quan, chỉ dừng ở mức độ thỏa thuận để ràng buộc trách nhiệm của mỗi
người.
Ngân sách nhà nước là bảng kế hoạch tài chính của toàn thể quốc gia,
sẽ được Quốc hội biểu quyết thông qua trước khi trao cho chính phủ thi
hành. Đặc điểm này thể hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa cơ quan lập pháp
và cơ quan hành pháp trong quá trình xây dựng và thực hiện ngân sách.
Trong đó cơ quan lập pháp thường có vai trò áp đảo hơn, cơ quan hành
pháp chỉ là cơ quan thừa hành thực hiện bảng kế hoạch tài chính mà Quốc
hội đã thông qua, nhưng đồng thời còn phải chịu sự giám sát của Quốc
hội trong khi thực thi nhiệm vụ ngân sách nhà nước nhằm hạn chế sự lạm
quyền của các cơ quan hành pháp bảo đảm tính dân chủ, công khai, minh
bạch trong hoạt động tài chính nhà nước. Điều này bộc lộ lên nét đặc
trưng riêng của ngân sách nhà nước mà ở các loại hình ngân sách khác
không có, ngân sách nhà nước được thiết lập và thi hành có sự tham gia,
giám sát của nhân dân theo phương cách trực tiếp hay gián tiếp thông qua
vai trò của Quốc hội, có sự tham gia của cơ quan hành pháp, cơ quan lập
pháp và có sự phân chia nhiệm vụ rỏ ràng giữa hai cơ quan này. Trong
khi đó, các loại hình ngân sách khác thì Nhà nước để cho chính chủ thể
6
đó tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về hậu quả xảy ra. Một số cơ
quan hành pháp của Nhà nước chỉ tham gia kiểm tra, giám sát trong
những trường hợp cần thiết, mà không tạo nên mối tương quan giữa cơ
quan hành pháp và cơ quan lập pháp.
Ngân sách nhà nước được thiết lập và thực thi nhằm phục vụ hoạt
động của bộ máy nhà nước, đảm bảo cho Nhà nước thực hiện chức năng
và nhiệm vụ của mình vì lợi ích chung của toàn xã hội. Bộ máy nhà nước

muốn hoạt động được cần có một số tiền rất lớn để chi tiêu và số tiền đó
được trích ra từ ngân sách nhà nước. Nhà nước thực hiện chức năng và
nhiệm vụ của mình nhằm bảo đảm cho sự phát triển của toàn xã hội, phục
vụ lợi ích của toàn dân, không phân biệt người giàu nghèo hay đẳng cấp
địa vị xã hội. Đặc biệt ngân sách nhà nước còn ưu tiên để giúp đỡ phục
vụ cho những người nghèo, hỗ trợ để giảm bớt những tệ nạn xã hội. Vì
vậy chính phủ luôn tìm cách thỏa mãn giữa nhiệm vụ thu và nhiệm vụ chi
đã được hoạch định và cho phép thực hiện bởi Quốc hội. Đặc điểm này
đã thể hiện một bản chất rất riêng của ngân sách nhà nước, ngân sách nhà
nước phục vụ cho toàn xã hội, toàn dân, không phân biệt người giàu,
người nghèo hay cá nhân, tổ chức nào để đảm bảo cho sự phát triển của
cả đất nước.
I.2. Cân Đối Ngân Sách Nhà Nước
I.2.1. Khái niệm cân đối Ngân sách Nhà nước
Ngân sách nhà nước là một bảng kế hoạch tài chính của một quốc
gia trong đó dự trù các khoản thu và chi được thực hiện trong một năm. Trên
thực tế quá trình thu chi ngân sách nhà nước luôn trong trạng thái biến đổi
không ngừng, nó bị ảnh hưởng bởi sự vận động của nền kinh tế quốc gia, có
khi những khoản thu dự kiến không đủ đáp ứng nhu cầu chi tiêu trong năm
đó, hoặc có khi mức thu lại vượt xa những khoản chi. Do vậy các khoản chi
7
tiêu và thu ngân sách nhà nước phải được tính toán chính xác và phù hợp với
thực tế để đảm bảo cho ngân sách nhà nước trong trạng thái cân bằng, ổn
định. Thu và chi ngân sách là hai vấn đề quan trọng để đảm bảo cho ngân
sách nhà nước được cân đối, hai vấn đề này lại nằm trong mối tương quan
giữa tài chính và kinh tế, vì kinh tế có phát triển thì Nhà nước mới huy động
được nguồn thu vào ngân sách nhà nước, còn kinh tế không ổn định, kém
phát triển thì nguồn thu vào ngân sách nhà nước giảm và còn phải chi nhiều
để hổ trợ. Điều đó dể dẫn đến ngân sách nhà nước bị mất cân đối.
Xét về bản chất, cân đối ngân sách nhà nước là cân đối giữa các nguồn

thu mà Nhà nước huy động được tập trung vào ngân sách nhà nước trong
một năm và sự phân phối, sử dụng nguồn thu đó thỏa mãn nhu cầu chi tiêu
của Nhà nước trong năm đó
Xét về góc độ tổng thể, cân đối ngân sách nhà nước phản ánh mối tương
quan giữa thu và chi trong một tài khóa. Nó không chỉ là sự tương quan giữa
tổng thu và tổng chi mà còn thể hiện sự phân bổ hợp lý giữa cơ cấu các
khoản thu và cơ cấu các khoản chi của ngân sách nhà nước
Xét trên phương diện phân cấp quản lý nhà nước, cân đối ngân sách nhà
nước là cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn thu giữa các cấp ngân
sách, giữa trung ương và địa phương và giữa các địa phương với nhau để
thực hiện chức năng và nhiệm vụ được giao.
Cân đối ngân sách nhà nước không chỉ đơn thuần là sự cân bằng về số
lượng biểu hiện qua các con số giữa tổng thu và tổng chi, mà nó còn biểu
hiện qua các khía cạnh khác nhau. Tựu trung lại ta có thể hiểu: Cân đối ngân
sách nhà nước là một bộ phận quan trọng của chính sách tài khóa, phản ánh
sự điều chỉnh mối quan hệ tương tác giữa thu và chi
Ngân sách nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội mà Nhà
nước đã đề ra trong từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể.
I.2.2. Đặc điểm cân đối Ngân sách Nhà nước
8
Từ những quan niệm về cân đối ngân sách nhà nước ta có thể rút ra một
số đặc điểm cơ bản sau đây:
- Cân đối ngân sách nhà nước phản ánh mối quan hệ tương tác giữa thu
và chi ngân sách nhà nước trong năm ngân sách nhằm đạt được các mục tiêu
đã đề ra. Nó vừa là công cụ thực hiện các chính sách xã hội của Nhà nước,
vừa bị ảnh hưởng bởi các chỉ tiêu kinh tế- xã hội. Cân đối ngân sách nhà
nước không phải là để thu chi cân đối hoặc chỉ là cân đối đơn thuần về mặt
lượng, mà cân đối ngân sách nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu chiến
lược kinh tế- xã hội của Nhà nước đồng thời các chỉ tiêu kinh tế- xã hội này
cũng quyết định sự hình thành về thu, chi ngân sách nhà nước. Tuy nhiên

việc tính toán thu, chi không phản ánh một cách thụ động các chỉ tiêu kinh
tế-xã hội, mà cân đối ngân sách nhà nước có tác động làm thay đổi hoặc điều
chỉnh một cách hợp lý các chỉ tiêu kinh tế- xã hội, bằng khả năng quản lý
hoặc phân bổ nguồn lực có hiệu quả.
- Cân đối ngân sách nhà nước là cân đối giữa tổng thu và tổng chi, giữa
các khoản thu và các khoản chi, cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn
lực giữa các cấp trong hệ thống ngân sách nhà nước, đồng thời kiểm soát
được tình trạng ngân sách nhà nước đặc biệt là tình trạng bội chi ngân sách
nhà nước. Cân bằng thu- chi ngân sách nhà nước chỉ là tương đối chứ không
thể đạt mức tuyệt đối được vì hoạt động kinh tế luôn ở trạng thái biến động
Nhà phải điều chỉnh hoạt động thu, chi cho phù hợp. Bên cạnh đó, cần phân
bổ nguồn thu cho hợp lý để đảm bảo sự ổn định về kinh tế- xã hội giữa các
địa phương. Mặt khác, nếu ngân sách không cân bằng mà rơi vào tình trạng
bội chi thì cần đưa ra những giải quyết kịp thời để ổn định lại ngân sách nhà
nước.
- Cân đối ngân sách nhà nước mang tính định lượng và tính tiên
liệu.Trong quá trình cân đối ngân sách nhà nước, người quản lý phải xác
định các con số thu, chi ngân sách nhà nước so với tình hình thu nhập trong
nước, chi tiết hóa từng khoản thu, chi nhằm đưa ra cơ chế sử dụng và quản lý
9
nguồn thu phù hợp với hoạt động chi, từ đó để làm cơ sở phân bổ và chuyển
giao nguồn lực giữa các cấp ngân sách. Cân đối ngân sách nhà nước phải dự
đoán được các khoản thu, chi ngân sách một cách tổng thể để đảm bảo thực
hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội.
I.2.3. Vai trò của cân đối Ngân sách Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường
Cân đối ngân sách nhà nước là một công cụ quan trọng để Nhà nước
can thiệp vào hoạt động kinh tế- xã hội của đất nước, với vai trò quyết định
đó thì cân đối ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường có các vai trò
sau:

- Cân đối ngân sách nhà nước góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Nhà
nước thực hiện cân đối ngân sách nhà nước thông qua chính sách thuế, chính
sách chi tiêu hàng năm và quyết định mức bội chi cụ thể nên có nhiều tác
động đến hoạt động kinh tế cũng như cán cân thương mại quốc tế. Từ đó góp
phần ổn định việc thực các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô như: Tăng
trưởng mức thu nhập bình quân trong nền kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp, lạm
phát được duy trì ở mức ổn định và có thể dự toán được,…
- Cân đối ngân sách nhà nước góp phần phân bổ, sử dụng nguồn lực tài
chính có hiệu quả, để đảm bảo được vai trò này ngay từ khi lập dự toán Nhà
nước đã lựa chọn trình tự ưu tiên hợp lý trong phân bổ ngân sách nhà nước
và sự gắn kết chặt chẽ giữa chiến lược phát triển kinh tế- xã hội với công tác
lập kế hoạch ngân sách. Trong phân cấp quản lý ngân sách, nếu cân đối ngân
sách nhà nước phân định nguồn thu một cách hợp lý giữa trung ương với địa
phương và giữa các địa phương với nhau thì sẽ đảm bảo thực hiện được các
mục tiêu kinh tế- xã hội đã đề ra.
- Cân đối ngân sách nhà nước góp phần đảm bảo công bằng xã hội,
giảm thiểu sự bất bình đẳng giữa các địa phương. Nước ta với mỗi một vùng
lại có một điều kiện kinh tế- xã hội khác nhau, có những vùng điều kiện kinh
10
tế- xã hội rất khó khăn làm ảnh hưởng đến thu nhập và chất lượng cuộc sống
của người dân, có những vùng điều kiện kinh tế- xã hội thuận lợi, phát triển
làm cho thu nhập và cuộc sống của người dân được nâng lên. Vì vậy cân đối
ngân sách nhà nước sẽ đảm được sự công bằng, giảm thiểu sự bất bình đẳng
giữa người dân và các vùng miền. Nhà nước có thể huy động nguồn lực từ
những người có thu nhập cao, những vùng có kinh tế phát triển để hổ trợ,
giúp đỡ những người nghèo có thu nhập thấp và những vùng kinh tế kém
phát triển. Bên cạnh đó, cân đối ngân sách nhà nước góp phần phát huy lợi
thế của từng địa phương, tạo nên thế mạnh kinh tế cho địa phương đó dựa
trên tiềm năng có sẳn của địa phương.
Tóm lại, Ngân sách nhà nước vừa là công cụ tài chính quan trọng, vừa

là đạo luật của một quốc gia. Nó được thiết lập và vận hành cùng với sự tồn
tại và phát triển của quốc gia đó. Đặc biệt trong thời kỳ chuyển đổi và hội
nhập như hiện nay, ngân sách nhà nước và vấn đề cân đối ngân sách càng
đóng vai trò quan trọng hơn vào sự phát triển đất nước, bình ổn xã hội. Hiểu
và vận dụng tốt các học thuyết về cân đối ngân sách nhà nước sẽ giúp nước
ta có thể giải quyết những vấn đề còn tồn đọng về ngân sách nhà nước trong
thời gian vừa qua. Ngân sách nhà nước được cân đối, ổn định sẽ giúp Nhà
nước thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình đối với toàn dân, toàn
xã hội.
I.3 Thâm Hụt Ngân Sách Nhà Nước
I.3.1. Khái niệm về thâm hụt Ngân sách Nhà nước
Thâm hụt ngân sách nhà nước là một trong những vấn đề quan trọng gắn
liền với quá trình thực hiện cân đối ngân sách nhà nước ở Việt Nam. Trong
điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại thâm hụt ngân sách nhà nước là điều
không thể tránh khỏi đối với ngân sách của một quốc gia, vì Nhà nước
thường bỏ ra một lượng tiền khá lớn để khắc phục những khiếm khuyết của
11
cơ chế thị trường, đảm bảo cho nền kinh tế- xã hội phát triển
1
. Trong khi đó
nguồn thu vào của ngân sách nhà nước thường không đủ cho hoạt động chi
tiêu để Nhà nước thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình, sự chênh lệch
giữa các khoản thu nhiều hơn chi trong ngân sách nhà nước đã dẫn đến tình
trạng thâm hụt ngân sách nhà nước trong nhiều năm qua. Vì vậy Nhà nước
muốn thực hiện cân đối ngân sách nhà nước trước hết phải xác định được
vấn đề thâm hụt của nước ta như thế nào, tìm ra nguyên nhân và từ đó đưa ra
những giải pháp hợp lý để khắc phục tình trạng thấp nhất.
Theo đó ta có thể hiểu: “thâm hụti ngân sách nhà nước là tình trạng chi
ngân sách nhà nước vượt quá thu ngân sách nhà nước trong một năm, là
hiện tượng ngân sách nhà nước không cân đối thể hiện trong sự so sánh

giữa cung và cầu về nguồn lực tài chính của nhà nước”.
I.3.2. Nguyên nhân thâm hụt Ngân sách Nhà nước
Hiện nay thâm hụt ngân sách nhà nước là vấn đề đang được sự quan tâm
của hầu hết các nước, kể cả nước đang phát triển cũng như nước phát triển.
Vì nó có sự tác động rất lớn đến vấn đề phát triển kinh tế xã hội và xãy ra ở
hầu hết các quốc gia. Thực tế xuất phát từ những nguyên nhân sau:
 Nguyên nhân khách quan: Do nên kinh tế suy thoái và khủng
hoảng làm cho nguồn thu vào ngân sách nhà nước bị giảm sút,
nhưng nhu cầu chi tiêu lại gia tăng để giải quyết những vấn đề khó
khăn mới về kinh tế - xã hội như: trợ cấp xã hội, các khoản chi để
phục hồi nền kinh tế,… Điều đó dễ dẫn đến tình trạng thu không
đủ chi và ngân sách nhà nước bị thâm hụt. Ngược lại, khi kinh tế ở
giai đoạn phồn thịnh, thu vào ngân sách nhà nước liên tục tăng lên
mà không phải chi các khoản chi bất thường thì ngân sách nhà
nước tăng lên và đảm bảo thực hiện tốt những dự toán đã được đề
ra. Qua đó, ta thấy suy thoái và khủng hoảng kinh tế là một trong
những nguyên nhân gây ra thâm hụt ngân sách nhà nước. Bên cạnh
1
12
đó, thiên tai và tình trạng bất ổn về an ninh chính trị của quốc gia,
thế giới cũng ảnh hưởng rất lớn đến ngân sách nhà nước. Do nhu
cầu chi tiêu cho quốc phòng và an ninh trật tự xã hội tăng lên và
phải chi nhiều để khắc phục hậu quả thiên tai.
 Nguyên nhân chủ quan: Do quản lý, điều hành ngân sách
nhà nước bất hợp lý. Biểu hiện qua những vấn đề sau: Tác động từ
chính sách cơ cấu thu chi của nhà nước, việc khai thác và đánh giá
nguồn thu chưa tốt, phân bổ và sử dụng ngân sách nhà nước còn
nhiều bất cập, gây thất thoát và lãng phí nguồn lực tài chính của
nhà nước, vấn đề phân cấp quản lý ngân sách ngân sách nhà nước
chưa khuyến khích địa phương nỗ lực trong khai thác nguồn thu và

phân bổ chi tiêu hiệu quả. Điều đó đã làm nguồn thu vào ngân sách
nhà nước bị thất thoát, hoạt động thu không hiệu quả và không đủ
cho hoạt động chi của nhà nước

PHẦN HAI: THỰC TRẠNG CÂN ĐỐI NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC
II.1.Thực Trạng Thu Ngân Sách Nhà Nước
Trong năm 2001-2003 cơ cấu thu NSNN đã dịch chuyển theo chiều
hướng tích cực hơn, thu từ nguồn trong nước đã tăng từ 50,7% lên 52,6%
so với tổng thu trong năm 2003 nhưng thu từ dầu thô, hoạt động XNK đã
giảm từ 47,4% xuống còn 45,9% năm 2003. Ngoài ra do thực hiện pháp
lệnh về phí và lệ phí đã bãi bỏ 140 khoản phí thuộc các bộ ngành TW và
13
105 khoản phí thuộc các địa phương đã làm giảm chi phí xã hội khoảng
1.000 tỷ đồng mỗi năm. Thu NSNN năm 2004 dự kiến đạt 166.900 tỷ
đồng, vượt dự toán 11,8%, tăng 17,4% so với năm 2003 và tương đương
22,7% GDP. Trong số tăng thu, số tăng từ dầu thô, nhà đất chiếm tỷ trọng
lớn.
Tổng dự toán cân đối thu NSNN năm 2005 là 183.000 tỷ đồng, tổng
dự toán chi NSNN là 229.750 tỷ đồng, bội chi NSNN là 40.750 tỷ đồng
(chiếm 5% GDP). Nếu so với thời kỳ trước đây thì thu ngân sách đã có
những tiến bộ lớn. Tuy nhiên, nếu so với tốc độ tăng trưởng thì việc tăng
thu ngân sách còn chậm, đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh, trong khi
giá trị sản xuất công nghiệp tăng 19,2% thì nguồn thu ngân sách chỉ tăng
12%. Dự toán thu nội địa (không kể dầu thô) năm 2005 tăng 13,6%, trong
đó thu từ khu vực DN nhà nước tăng 12,3%, thu từ khu vực DN có vốn
đầu tư nước ngoài tăng 30,1%, từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng
20,5%, dự toán thu phí, lệ phí tăng 4,1% để hạ chi phí đầu vào của nền
kinh tế, khuyến khích sản xuất, xuất khẩu. Điều đặc biệt, năm 2005 Quốc
hội đã nhất trí tăng dự toán thu nội địa từ thu tiền sử dụng đất thêm 800 tỷ

đồng (để tăng dự toán chi đầu tư xây dựng cơ bản hạ tầng của địa
phương), tăng dự toán thu ngân sách trung ương từ dầu thô 2.500 tỷ đồng
(do giá dầu thô thế giới hiện ở mức cao và dự báo trong năm 2005 sẽ vẫn
ở mức cao). Tổng hợp chung, dự toán thu NSNN năm 2005 tăng thêm
3.300 tỷ đồng.
Năm 2008, mặc dù kinh tế tăng trưởng chậm hơn 2007, nhưng các
nguồn thu có yếu tố nước ngoài như dầu thô, thu từ cân đối xuất, nhập
khẩu tăng mạnh nên thu ngân sách Nhà nước năm nay vẫn tăng tương đối
khá so với năm 2007 và vượt kế hoạch cả năm. Theo báo cáo của Bộ Tài
chính, tổng thu ngân sách Nhà nước năm 2008 ước tính đạt 399.000 tỷ
đồng, tăng 26,3% so với năm 2007 và bằng 123,8% dự toán năm. Trong
đó cụ thể như sau :
14
Thu nội địa: Theo số liệu báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 Quốc hội
khoá XII thì thu nội địa ước thực hiện cả năm 2008 đạt 205.000 tỷ đồng,
vượt 8,3% (15.700 tỷ đồng) so với dự toán, tăng 17,6% so với thực hiện
năm 2007, chiếm 51,4% tổng thu NSNN; không kể thu tiền sử dụng đất
22.000 tỷ đồng, thu nội địa đạt 183.000 tỷ đồng, vượt 5,9% (10.200 tỷ
đồng) so với dự toán, tăng 24,1% so với năm 2007. Nếu loại trừ cả thu
tiền sử dụng đất và những yếu tố tăng thu đột biến thì ước thu nội địa năm
2008 tăng 17,3% so với thực hiện năm 2007.
Thu từ dầu thô: Theo số liệu báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 Quốc
hội khoá XII thì thu dầu thô ước thực hiện cả năm đạt 98.000 tỷ đồng,
vượt 49,4% (32.400 tỷ đồng) so với dự toán, tăng 27,3% so với thực hiện
năm 2007 trên cơ sở sản lượng cả năm đạt 15,42 triệu tấn, giá bình quân
cả năm đạt xấp xỉ 102 USD/thùng, tăng 38 USD/thùng so giá dự toán.
Thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu: Đạt khoảng 64.500 tỷ đồng (trên
cơ sở thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là 84.500 tỷ đồng, hoàn thuế giá trị
gia tăng là 20.000 tỷ đồng), thu ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu
đạt 121.000 tỷ đồng; sau khi thực hiện hoàn thuế giá trị gia tăng theo chế

độ, thu cân đối ngân sách cả năm đạt 91.000 tỷ đồng, vượt 41,1% (26.500
tỷ đồng) so với dự toán, tăng 50,7% so với thực hiện năm 2007 dựa trên
cơ sở tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm 2008 ước tính đạt 62,9 tỷ USD,
tăng 29,5% so với năm 2007; kim ngạch nhập khẩu kiềm chế ở mức 80,4
tỷ USD, tăng 28,3% so với năm 2007; nhập siêu của cả nền kinh tế
khoảng 17,5 tỷ USD, bằng khoảng 27,8% kim ngạch xuất khẩu. Năm
2009, thu từ hoạt động nhập xuất, nhập khẩu đạt 12.000 tỷ đồng, giảm
25,1% so với cùng kỳ năm trước.
Thu viện trợ: Cả năm đạt 5.000 tỷ đồng, vượt 38,9% (1.400 tỷ đồng)
so với dự toán, chủ yếu do tăng viện trợ của Chương trình phát triển kinh
tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn (Chương trình 135) và Chương trình
phát triển Nông nghiệp và nông thôn.
15
THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 2008
Đơn vị: tỷ đồng
STT Nội dung thu DT 2008 2008
A THU CÂN ĐỐI NSNN 323,000 399,000
I Thu nội địa 189,300 205,000
1 Thu từ kinh tế quốc doanh 63,159 64,131
2
Thu từ DN có vốn ĐTNN (không kể dầu
thô)
40,099 40,953
3 Thuế CTN và dịch vụ ngoài QD 38,347 40,618
4 Thuế sử dụng đất nông nghiệp 82 76
5 Thuế thu nhập đối với người có TN cao 8,135 9,960
6 Lệ phí trước bạ 5,194 6,415
7 Thu phí xăng dầu 4,979 4,942
8 Các loại phí, lệ phí 4,889 5,698
9 Các khoản thu về nhà, đất 21,792 29,024

- Thuế nhà đất 698 814
- Thuế chuyển quyền sử dụng đất 1,974 2,820
- Thu tiền thuê đất 1,569 2,311
- Thu tiền sử dụng đất 16,500 22,000
- Thu bán nhà ở thuộc sở hữu NN 1,051 1,079
10 Thu khác ngân sách 1,937 2,510
11
Thu quỹ đất công ích, hoa lợi công sản tại

687 673
II Thu từ dầu thô 65,600 98,000
III Thu cân đối ngân sách từ hoạt động XNK 64,500 91,000
1 Tổng số thu từ hoạt động XNK 84,500 121,000
- Thuế XNK và TTĐB hàng nhập khẩu 26,200 57,420
- Thuế GTGT hàng hoá NK 58,300 63,580
2 Hoàn thuế GTGT và k.phí q.lý thu thuế -20,000 -30,000
IV Thu viện trợ 3,600 5,000
B THU CHUYỂN NGUỒN 9,080 9,080
C THU QUẢN LÝ QUA NSNN 47,698 31,059
D VAY VỀ CHO VAY LẠI 12,800 12,425
TỔNG CỘNG 392,578 451,564
Năm 2009, thu ngân sách trên tất cả các mặt đều giảm vì tình hình kinh
tế trong nước cũng suy giảm. Cụ thể là: giá dầu thô dao động từ 40-50
USD/thùng (giá thấp nhất trong thời gian gần đây), tốc độ tăng trưởng
kinh tế khoảng 3,1% (thấp hơn so với năm 2008), xuất khẩu tăng rất thấp
khoảng 2,4%.
16
Theo dự toán thì tình hình thu ngân sách quý I: tổng thu ngân sách từ
đầu năm đến ngày 15/3/2009 ước tính bằng 18,5% dự toán năm, trong
đó:

• Các khoản thu nội địa đạt 19,2%
• Các khoản thu từ dầu thô đạt 16,1%
• Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu bằng 18,4%
• Trong thu nội địa
 Thu từ doanh nghiệp nhà nước bằng 23,4% dự toán năm.
 Thu từ DN có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) đạt
14,3% dự toán năm.
 Thu thuế công, thương nghiệp, và dịch vụ ngoài nhà nước
bằng 18,8% dự toán năm.
 Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao bằng 16,7%.
 Thu phí xăng dầu bằng 21,1%.
 Thu phí, lệ phí bằng 13,7%.
Với những diễn biến của kinh tế thế giới và kinh tế Việt Nam năm
2007, thu ngân sách trong giai đoạn từ 2008-2009 còn gặp nhiều khó
khăn, bởi vì :
Thứ nhất : tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2009 có thể sẽ thấp hơn
năm 2008 do ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế thế giới, theo dự báo
của IMF và một số tổ chức thế giới thì năm 2008 tăng trưởng kinh tế
toàn thế giới là 3,7% và năm 2009 với mức thấp hơn là 2,2%. Trong đó
các nước phát triển tăng trưởng kinh tế năm 2008 là 1,4% và năm 2009
là - 0,3%; các nước đang phát triển và các nền kinh tế mới nổi năm 2008
là 6,6% và năm 2009 là 5,1%. Sự suy giảm của tăng trưởng kinh tế thế
giới sẽ làm cho kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giảm mạnh và do vậy
sẽ tác động làm giảm tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam, một nền
kinh tế vốn đang hướng đến xuất khẩu. Tăng trưởng kinh tế giảm sẽ kéo
theo thu NSNN giảm.
Thứ hai: thu từ hoạt động xuất nhập khẩu giảm.
Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu phụ thuộc vào thu xuất khẩu và thu
nhập khẩu. Trong đó thu về nhập khẩu khoảng 90% và thu về xuất khẩu

chỉ chiếm 10% (không kể dầu thô).
Đối với thu xuất khẩu: xuất khẩu 2009 của Việt Nam phụ thuộc nhiều
vào thị trường thế giới. Khi tăng trưởng thế giới giảm sẽ làm cho cơ hội
xuất khẩu của Việt Nam cũng giảm theo. Cụ thể, khi các thị trường lớn
như Mỹ, EU, Nhật Bản đang trong tình trạng suy thoái thì không thể đẩy
17
mạnh và tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam lên được. Kim ngạch
sẽ giảm cả về lượng và giá xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu sẽ giảm làm
cho số thu về thuế xuất khẩu giảm theo.
Đối với thu nhập khẩu: thu nhập khẩu phụ thuộc vào kim ngạch nhập
khẩu và thuế suất (thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, và thuế VAT
hàng nhập khẩu). Kim ngạch nhập khẩu hàng năm ở Việt Nam lại phụ
thuộc nhiều vào xuất khẩu, tiêu dùng và đầu tư. Song năm 2009 xuất
khẩu sẽ giảm do nhu cầu thị trường thế giới thu hẹp, tăng trưởng kinh tế
năm 2009 sẽ khó khăn hơn năm 2008 nên cầu tiêu dùng hàng hoá trong
nước cũng như thực hiện đầu tư giảm làm kim ngạch nhập khẩu giảm.
Hơn nữa thực hiện chương trình cắt giảm thuế nhập khẩu theo các
chương trình cam kết về hội nhập kinh tế quốc tế sẽ làm cho số thu về
xuất nhập khẩu giảm mạnh.
Như vậy các yếu tố liên quan đến xuất nhập khẩu năm 2009 đều có xu
hướng giảm nên tổng thu về xuất nhập khẩu giảm theo.
Thứ ba: về xuất khẩu dầu thô
Do kinh tế thế giới suy thoái nên giá nhiên liệu, xăng, dầu giảm mạnh.
nếu như quý III năm 2008 giá dầu thô trên thế giới đã lên đến đỉnh cao là
147 USD/ thùng thì đến đầu năm 2009 giá đã hạ xuống rất thấp khoảng
40 USD/ thùng. Khi tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2009 thấp hơn
2008 thì có thể giá dầu thô sẽ hạ thấp hơn nữa. Giá dầu giảm sẽ làm cho
kim ngạch xuất khẩu dầu giảm, và các nguồn thu về dầu sẽ giảm. Nguồn
thu lớn nhất của NSNN là từ dầu thô, mà xuất khẩu dầu thô giảm sẽ làm
nguồn thu của NSNN giảm mạnh trong năm 2009.

Thứ tư: về phát triển sản xuất trong nước.
Trong tình trạng toàn bộ nền kinh tế thế giới đang suy thoái, chắc
chắn nền kinh tế Việt Nam cũng không đạt tăng trưởng cao. Các doanh
nghiệp trong nước hiện nay đang phải đối mặt với việc không có đầu ra
cho sản phẩm của mình. Lãi suất ngân hàng cao nên việc kinh doanh thu
được lợi nhuận không cao. Ngoài ra các doanh nghiệp Việt Nam còn
phải đối mặt với lượng hàng hoá giá rẻ khổng lồ từ Trung Quốc và các
nước khác trong khu vực tràn vào làm cho khả năng thu được lợi nhuận
từ việc kinh doanh không cao. Điều đó làm cho việc thu nộp NSNN của
các doanh nghiệp không được thực hiện một cách dễ dàng.
Các khoản thu ngoài cân đối NSNN: thu từ vay nợ và nhận viện trợ.
18
Thu từ ODA năm 2009 WB đã đồng ý cấp khoản tín dụng 1,5 tỷ USD
với mức lãi suất thấp trong vòng 3 năm theo các điều kiện của ngân hàng
Tái thiết và Phát triển quốc tế. Các hiệp định lớn mà WB dự định kí kết
với chính phủ Việt Nam bao gồm dự án phát triển thuỷ điện (100 triệu
USD), dự án phát triển năng lượng tái tạo (150 tri ệu USD)…Tuy nhiên
tiến độ giải ngân các dự án ODA trong năm tới nhiều khả năng sẽ vẫn
chậm.
Bên cạnh đó chính sách của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) trong
năm 2009 để thực hiện các dự án như: dự án phát triển điện Cà Mau (400
triệu USD), dự án đường vành đai 2 tại thành phố Hồ Chí Minh (300
triệu USD).
Thu từ FDI: báo đầu tư của Bộ kế hoạch và đầu tư Việt Nam nói rằng
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Vi ệt Nam trong quý I năm nay dự tính
giảm 70%. Trong 3 tháng đầu năm 2009 Việt Nam chỉ thu được 2,1 tỷ
USD đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Số tiền cam kết cho các dự án đã khởi động dự tính sẽ đạt 6 tỷ USD
trong 3 tháng đầu, thấp hơn so với năm ngoái 40%. Năm ngoái Việt Nam
nhận được 11,5 tỷ USD đầu tư nước ngoài trực tiếp.

Trong năm nay cam kết về FDI của Việt Nam có thể giảm xuống 20 tỷ
USD. Mức này bằng 1/3 so với 64 tỷ USD mà Việt Nam nhận được năm
ngoái.
Các khoản vay nợ nước ngoài: tin từ ngân hàng châu Á cho biết, ban
giám đốc ADB đã phê duyệt cho Việt Nam khoản vay trị giá 95 triệu
USD để thực hiện dự án “ Nâng cao chất lượng và an toàn vệ sinh hàng
nông sản và phát triển khí đốt sinh học”. Khoản vay ưu đãi của ADB
trích từ Quỹ phát triển châu Á, có kì hạn thanh toán là 32 năm, thời gian
ân hạn là 8 năm với tỷ lệ lãi suất là 1% /năm và tăng lên 1,5% trong thời
gian còn lại. Cơ quan thực hiện dự án này là Bộ nông nghiệp và phát
triển nông thôn và dự kiến thời gian hoàn thành dự án là năm 2015.
Như vậy, trong những năm gần đây các khoản thu của NSNN từ vay
nợ là khá lớn. Do vậy chính phủ cần có các phương án sử dụng vốn vay
có hiệu quả nhất.
II.2. Thực Trạng Chi Ngân Sách Nhà Nước.
Giai đoạn 1991 – 2001, chi NSNN được kết cấu lại theo hướng chi trên
cả ba lĩnh vực chi đầu tư, chi thường xuyên và chi trả nợ. Trong đó, chi
19
đầu tư phát triển, nhất là chi đầu tư xây dựng cơ bản được quan tâm. Mặc
dù chi thường xuyên vẫn chiếm tỷ trọng lớn, bình quân khoảng 63,5%
tổng chi NSNN, nhưng tỷ trọng chi đầu tư phát triển đã vươn lên đạt mức
bình quân khoảng 25%, chi viện trợ và trả nợ chiếm hơn 11% trong tổng
chi NSNN.
Đầu năm 2003 các khoản chi mới phát sinh như chi phòng chống và
dập dịch SARS, chi công tác chuẩn bị SEA Games 22 và ASEAN
Paragames 2, chi bổ sung khắc phục hậu quả thiên tai đã dẫn đến chi
2003 tăng 6,1% so với dự toán ban đầu và chiếm 27,3% so với GDP,
trong đó chi đầu tư phát triển bằng 7,8% GDP và chi thường xuyên bằng
15,5% GDP. Cũng trong năm 2003 cải cách tiền lương khiến tổng quỹ
lương nhà nước tăng 13.302 tỷ đồng so với 2002 lấy từ khoản giảm chi

thường xuyên 10%, và một số nguồn khác.
Năm 2005 Quốc hội cũng đã quyết định chi bổ sung cho một số lĩnh
vực sau: chi đầu tư phát triển (tăng thêm 1.495 tỷ đồng, trong đó tăng chi
đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách địa phương tương ứng số tăng thu
về sử dụng đất là 800 tỷ đồng); chi thường xuyên (tăng thêm 190 tỷ đồng,
gồm y tế tăng 50 tỷ đồng, giáo dục - đào tạo - dạy nghề tăng 70 tỷ đồng,
quốc phòng tăng 40 tỷ đồng, an ninh tăng 30 tỷ đồng); chi dự phòng
NSNN (tăng thêm 1.600 tỷ đồng để xử lý những biến động bất thường
của giá dầu, đồng thời bảo đảm chủ động ngân sách thực hiện trong
phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai và thực hiện những nhiệm vụ
quan trọng phát sinh).
Những khoản chi mang tính bao cấp không thuộc chức năng, nhiệm vụ
của NSNN nhìn chung được cắt giảm đáng kể, giảm bớt gánh nặng chính
đáng cho NSNN trong điều kiện mới. Đồng thời các khoản chi bao cấp
cho DNNN cũng giảm đáng kể nhờ có biện pháp cổ phần hóa và kiên
quyết cắt giảm chi bao cấp từ NSNN. Bên cạnh đó, ta thấy được một xu
hướng mới đang hình thành. Chi đầu tư phát triển từ nguồn vốn tập trung
20
của Nhà nước đang được dành chủ yếu cho xây dựng cơ sở hạ tầng và
những khu vực khó hoặc không thu hồi được vốn. Xu hướng này tích cực,
phù hợp với thực tế nước ta, cần được củng cố và tăng cường trong giai
đoạn chuẩn bị bước đầu hội nhập.

Để kịp thời triển khai các giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và phát triển bền vững, Chính phủ
đã tập trung chỉ đạo các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương thực hiện
điều hành chi NSNN năm 2008 theo đúng dự toán đã được Quốc hội
quyết định, đồng thời thực hiện nghiêm ngặt chủ trương thắt chặt chi tiêu,
rà soát, sắp xếp giảm chi đầu tư các dự án chưa thực sự cấp bách để tập
trung vốn cho các dự án cần thiết, cấp bách, các dự án có khả năng hoàn

thành và đưa vào sử dụng trong năm 2008; thực hiện tiết kiệm thêm 10%
chi thường xuyên; sử dụng dự phòng ngân sách các cấp và nguồn tăng thu
NSNN năm 2008 thực hiện các chính sách an sinh xã hội nhằm hỗ trợ
người nghèo, đồng bào dân tộc, người lao động có thu nhập thấp vượt qua
khó khăn do ảnh hưởng của lạm phát. Trong đó:
21
• Đã rà soát lại danh mục các dự án, công trình đầu tư; đình hoãn và
giãn tiến độ thực hiện trong kế hoạch năm 2008 là 1.968 dự án, với
tổng số vốn là khoảng 5.992 tỷ đồng, bằng 8% kế hoạch năm 2008.
Toàn bộ số vốn dành ra từ việc đình hoãn, ngừng triển khai và giãn
tiến độ thực hiện này được tập trung bố trí cho các dự án hoàn thành
và có khả năng đẩy nhanh tiến độ để hoàn thành đưa vào sử dụng
trong năm 2008, các dự án cần thiết, cấp bách, có hiệu quả.
• Rà soát lại danh mục dự án được vay tín dụng ưu đãi của Nhà nước.
Đình hoặc giãn tiến độ cấp vốn tín dụng cho các dự án không triển
khai, triển khai chậm hoặc không mang lại hiệu quả. Hạn chế cấp bảo
lãnh Chính phủ cho các dự án không thuộc đối tượng cấp thiết và
trọng yếu của nền kinh tế.
• Thực hiện tiết kiệm thêm 10% dự toán chi thường xuyên còn lại trong
8 tháng cuối năm 2008 của các Bộ, cơ quan ở trung ương và địa
phương. Nguồn kinh phí tiết kiệm để bổ sung thực hiện các chính sách
an sinh xã hội; phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh.
• Dự toán Quốc hội quyết định là 398.980 tỷ đồng, ước thực hiện cả
năm đạt 474.280 tỷ đồng, vượt 18,9% so với dự toán, tăng 22,3% so
với thực hiện năm 2007. Trong đó:
Chi đầu tư phát triển: dự toán 99.730 tỷ đồng, ước thực hiện cả năm
đạt 117.800 tỷ đồng, tăng 18,1% (18.070 tỷ đồng) so với dự toán, chiếm
24,7% tổng chi NSNN (chiếm 7,9% GDP), tăng 5,0% so với thực hiện
năm 2007.
Tiến độ giải ngân chi đầu tư XDCB năm 2008 là chậm, chủ yếu do sự

biến động của giá nguyên vật liệu đã gây khó khăn cho cả công tác tổ
chức đấu thầu và việc xác định giá bỏ thầu của các nhà thầu; một số chủ
đầu tư trì hoãn thời gian đấu thầu để điều chỉnh tổng mức đầu tư. Tình
22
hình triển khai và giải ngân vốn đầu tư từ nguồn trái phiếu Chính phủ
cũng chậm. Ước cả năm, tổng vốn Trái phiếu Chính phủ thực hiện
khoảng 20.000 tỷ đồng, bằng 70% kế hoạch điều chỉnh.
Chi phát triển các sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh,
quản lý hành chính (bao gồm cả chi điều chỉnh tiền lương theo mức
lương tối thiểu 540.000 đồng/tháng): dự toán 237.250 tỷ đồng, ước thực
hiện chi cả năm đạt 262.580 tỷ đồng, tăng 10,7% so với dự toán, tăng
23,6% so với thực hiện năm 2007.
Chi thường xuyên còn đảm bảo tăng cường thực hiện các chính sách
bảo đảm an sinh xã hội, được chia thành 3 nhóm chính:
Một là: nhóm chính sách hỗ trợ trực tiếp, như: hỗ trợ dầu hoả đối
với đồng bào dân tộc thiểu số, hỗ trợ dầu cho ngư dân; chính sách bảo trợ
xã hội; miễn viện phí cho trẻ em dưới 6 tuổi, mua thẻ bảo hiểm y tế cho
người nghèo, người cận nghèo; cấp học bổng cho học sinh dân tộc nội
trú, bán trú; điều chỉnh mức tiền ăn đối với hạ sỹ quan, chiến sỹ lực lượng
vũ trang; khắc phục hậu quả thiên tai, lũ lụt
Hai là: nhóm chính sách miễn, giảm các khoản đóng góp của dân,
như: miễn giảm các khoản phí và lệ phí, miễn thuỷ lợi phí, không thu phí
dự thi, dự tuyển vào các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông,
miễn lệ phí trước bạ đối với nhà ở, đất ở của các hộ nghèo NSNN cấp
bù chi phí hoạt động cho một số đơn vị bị hụt giảm nguồn thu.
Ba là: nhóm chính sách tín dụng ưu đãi, bao gồm: cho vay đối với
đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, chính sách tín dụng đối với
học sinh và sinh viên có hoàn cảnh khó khăn
Tuy đã đạt được nhiều kết quả quan trọng và tạo được sự đồng thuận
trong xã hội về các giải pháp an sinh xã hội đã đề ra, song quá trình tổ

chức thực hiện thời gian đầu còn một số vướng mắc, lúng túng (một phần
23
do thủ tục giải quyết chưa sát với thực tế; một phần do là chính sách mới,
nên các địa phương cần có thời gian để tập hợp, thống kê số lượng đối
tượng, đảm bảo việc hỗ trợ theo đúng quy định của nhà nước, tránh thất
thoát, khiếu kiện), làm cho một số chính sách triển khai chậm đến với
người thụ hưởng.
Chi bù lỗ kinh doanh mặt hàng dầu nhập khẩu: Để thực hiện kiềm
chế tốc độ tăng giá tiêu dùng, Chính phủ đã quyết định chậm điều chỉnh
giá bán lẻ xăng dầu trong nước trong điều kiện giá dầu thế giới tăng cao,
tiếp tục bù lỗ dầu phát sinh năm 2008.
CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 2008
Đơn vị: tỷ đồng
STT Nội dung chi DT 2008 2008
A CHI CÂN ĐỐI NSNN 398,980 474,280
I Chi đầu tư phát triển 99,730 117,800
Trong đó: Chi đầu tư xây dựng cơ bản 96,110
110,05
0
II Chi trả nợ và viện trợ 51,200 51,200
1 Trả nợ trong nước 39,700 39,700
2 Trả nợ ngoài nước 10,700 10,700
3 Chi viện trợ 800 800
III Chi thường xuyên 208,850 262,580
Trong đó:
1 Chi SN giáo dục - đào tạo 54,060
2 Chi Y tế 16,643
3 Chi dân số KHH gia đình 615
4 Chi khoa học, công nghệ 3,827
5 Chi văn hoá, thông tin 2,440

6 Chi phát thanh và truyền hình 1,420
7 Chi thể dục, thể thao 880
8 Chi đảm bảo xã hội 35,793
9 Chi sự nghiệp kinh tế 15,622
10 Chi sự nghiệp môi trường 3,883
11 Chi quản lý HC, Đảng đoàn thể 28,438
12 Chi trợ giá mặt hàng chính sách 763
IV Hỗ trợ tài chính kinh doanh xăng dầu 28,500
V Chi dự phòng 10,700
24
VI Chi bổ sung Quỹ dự trữ tài chính 100 100
VII Chi cải cách tiền lương 28,400
VIII Chi chuyển nguồn 14,100
B CHI QUẢN LÝ QUA NSNN 47,698 31,059
C
VAY NƯỚC NGOÁI VỀ CHO VAY
LẠI
12,800 12,425
TỔNG CỘNG 459,478 517,764
II.3.Thực Trạng Thâm Hụt Ngân Sách Nhà Nước
Trong giai đoạn 2001-2007, bội chi NSNN về cơ bản đuợc cân đối ở
mức 5% GDP và thực hiện ở mức 4,9%-5% GDP. Nếu chỉ xét ở tỷ lệ so
với GDP, cũng thấy bội chi NSNN trong 7 năm trở lại đây tăng cao hơn
các năm trước đó khá nhiều (bình quân khoảng 4,95% GDP) vì giai đoạn
năm 1991-1995, mức bội chi NSNN so với GDP chỉ ở mức 2,63% và giai
đoạn từ năm 1996-2000 ở mức 3,87% so với GDP
BẢNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TỪ 2001 – 2007
Đơn vị tính: Tỷ Đồng
Năm Số thâm hụt Thâm hụt so với GDP
200

1
25.885 4,67%
200
2
25.597 4,96%
200
3
29.936 4,9%
200
4
34.703 4,85%
200
5
40.746 4,86%
200
6
48.500 5%
200
7
56.500 5%
25

×