Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Đề tài: Đặc điểm kinh tế của nước Nhật Bản trong những năm 1945-1973 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.59 KB, 22 trang )

Bài tiểu luận số 2.
Đề tài: Đặc điểm kinh tế của nước Nhật Bản trong những năm 1945-1973.
I. Mở đầu.
Nhật Bản là một nước được ví như con rồng của Châu Á với lịch
sử hình thành và phát triển trải qua rất nhiều giai đoạn thăng trầm
của chính trị, xã hội cũng như nền kinh tế. Vốn nổi tiếng là một nước
khan hiếm về tài nguyên thiên nhiên, lại thường xuyên xảy ra những
thiên tai động đất, sóng thần. Nhưng cho đến nay nhờ biết điều
hành nền kinh tế, áp dụng các phương tiện khoa học kĩ thuật hiện
đại….mà Nhật Bản đã vươn lên trở thành một cương quốc đứng
hàng thứ hai trên thế giới.

Điểm lại quá trình phát triển của nền kinh tế Nhật Bản, trong bài
tiểu luận này ta sẽ đi sâu vào nghiên cứu lịch sử kinh tế của Nhật
Bản giai đoạn 1945-1973-Một giai đoạn được mệnh danh là “phát
triển thần kì”.
II. Giai đoạn khôi phục kinh tế từ năm 1946-1951.
Sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, nền kinh tế Nhật
Bản lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng: năng lượng
thiếu, lạm phát nặng nề, 13,1 triệu người không có việc làm. Đất
nước Nhật Bản bị quân đội Mỹ chiếm đóng.

Ngay trong những năm đầu sau chiến tranh, dưới sự kiểm soát
của Mỹ, một số cải cách lớn về xã hội của Nhật Bản được thực hiện:
-Giải thể các nhóm Saibatsu nhằm tiêu diệt sức mạnh quân sự
của Nhật Bản, xóa bỏ kiềm quyển soát kinh tế đối với một số công ty
lớn ở Nhật Bản, cải tổ các công ty theo hướng phi tập trung hóa.
Biện pháp này tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ đối với ngành công
nghiệp và thúc đẩy cơ câu hoạt động thị trường mạnh , tự do hóa
thương mại
- Cải cách ruộng đất, quy định địa chủ chỉ được nắm một phần


ruộng đất nhất định, tối đa là 5 ha, sau giảm xuống còn có 1 ha, số
1
còn lại được nhà nước mua lại và trao cho những người nông dân
không có ruộng
- Giải quyết vấn đề việc làm, tăng lương cho công nhân. Để thực
hiện dân chủ hóa lao động, từ năm 1945-1947 có 5 đạo luật được
ban hành: luật công đoàn, luật tiêu chuân lao động, luật quan hệ lao
động
Những cải cách trên đây tạo điều kiền phát triển kinh tế cho Nhật
Bản, chuyển từ nhà nước quân sự sang nhà nước phát triển kinh tế
Tuy nhiên, trước năm 1948, tốc độ phát triển kinh tế của Nhật
bản còn chậm chạp và gặp nhiều khó khăn, một mặt vì nền kinh tế
bị tàn phá nặng nề, thiếu vốn và nguyên liệu…., mặt khác, người Mỹ
đã thực thi một cách cứng rắn đối với Nhật Bản. Song từ tháng 10-
1948, người Mỹ đối với Nhật Bản đã được thay đổi đáng kể, Nhật
Bản đã được Mỹ nâng đỡ để trở thành đồng minh đắc lực của Mỹ
trong chính sách xâm lược Châu Á- Thái Bình Dương. Kể từ tháng
10-1948 trở đi công cuộc khôi phục của Nhật Bản ngày càng thuận
lợi, đặc biệt là đối với đường lối kinh tế học thị trường Joshep
Dodge, việc ký hiệp ước an ninh Nhật –Mỹ,hiệp ước thương mại và
đầu tư…kế hoặch 5 năm khôi phục kinh tế của Nhật Bản đã thành
công. Đến năm 1951, các chỉ tiêu kinh tế cơ bản của Nhật Bản như
tổng sản phẩm quốc dân thực tế, sản xuất công nghiệp, kim ngạch
xuất khẩu thực tế đã bằng và vượt mức chiến tranh.
III. Những đặc điểm của nền kinh tế Nhật Bản thời kỳ 1952-
1973.
1. Sự khôi phục và phát triển kinh tế
Bị thất bại trong chiến tranh , bị tàn phá nặng nề về kinh tế: 34% máy
móc, 25% công trình xây dựng, 81% tàu biển bị phá hủy, sản xuất công
nghiệp tháng 8 - 1945 tụt xuống còn vài phần trăm so với một vài năm trước

đó, và chỉ bằng khoảng 10% trước mức chiến tranh (1934-1936), nước Nhật
chìm trong khủng hoảng về nhiều mặt. Nhưng đó chỉ là tiền đề cho một nước
Nhật khác hẳn hoàn toàn ra đời.

Nhật Bản đã có những biến đổi thần kỳ về kinh tế trong nước cũng như
trong quan hệ với nền kinh tế thế giới, những biến đổi này có tính liên tục và
2
tăng nhanh về lượng. Từ năm 1952 đến năm1958, tổng sản phẩm quốc dân
dã tăng với tốc độ 6,9% bình quân hằng năm. năm 1959, khi tốc độ tăng
trưởng vượt 10%, nền kinh tế Nhật Bản vẫn chưa gây được sự chú ý của thế
giới. Những năm sau, khi tốc độ tăng trưởng vượt tốc độ của những năm
trước thì thế giới bắt đầu kinh ngạc và gọi đó là Sự Thần Kì Về Kinh Tế. Tốc
độ cao này được duy trì suốt những năm 1960 với tổng sản phẩm quốc dân
tăng trung bình hằng năm là 10%. Trong những năm 1970 - 1973 tốc độ tăng
trưởng trung bình hơi giảm đi còn 7,8% nhưng vẫn cao hơn tiêu chuẩn quốc
tế (Bảng 1 ).Nhân tố hàng đầu trong tăng trưởng kinh tế của NB thời kì này
là sự phát triển nhanh chóng các ngành công nghiệp chế tạo. Chỉ số sản xuất
công nghiệp (1934 –1936:= 100) tăng từ 160 năm 1955 lên 1345 năm 1970.
Sự giảm bớt sức lao động trong nông nghiệp và lâm nghiệp cũng rất đáng chú
ý: Nó giảm từ 16 triệu năm 1955 xuống 8,4 triệu năm 1970 và phần của nó
trong tổng lực lượng lao động giảm từ 38,3% xuống 17,4% trong cùng thời
kì.
Bảng 1: Tăng trưởng GDP của Nhật Bản từ 1951-1972.
Năm tài chính Theo giá hiện hành % Theo giá bất biến của năm
1965 (%)
1951 38,8 13,0
1952 16,3 13,0
1953 18,1 7,9
1954 4,0 2,3
1955 13,3 11,4

1956 12,3 6,8
1957 13,0 8,3
1958 4,8 5,7
1959 15,5 11,7
1960 19,1 13,3
1961 22,5 14,4
1962 9,1 5,7
1963 18,1 12,8
1964 15,9 10,8
1965 10,6 5,4
1966 17,2 11,8
1967 17,9 13,4
1968 17,8 13,6
1969 18,0 12,4
3
1970 16,3 9,3
1971 10,7 5,7
1972 17,6 12,0
(Nguồn: Cục kế hoạch kinh tế)
Bảng 2: Chỉ số sản xuất công nghiệp của các ngành kinh tế (1965=100)
Nghành 1955 1960 1965 1970
Dệt 42,2 68,2 100 154,0
Giấy và bột giấy 34,1 63,9 100 175,9
Hóa chất 25,2 51,0 100 204,0
Dầu lửa và than 18,7 47,2 100 216,7
Gốm 32,0 62,5 100 175,8
Sắt và thép 24,6 56,3 100 230,9
Kim loại màu 25,9 61,6 100 211,4
Máy móc 14,6 51,2 100 291,6
Tổng cộng (CN chế

tạo)
26,0 56,9 100 218,5
(Nguồn: Bộ công nghiệp và mậu dịch quốc tế.)
Trong các ngành công nghiệp khu vực II, sự phát triển của các ngành
công nghiệp nặng và hóa chất (máy móc, kim khí, hóa chất) là nổi bật nhất
như ta đã thấy ở bảng 2. Sự phát triển của công nghiệp cơ khí là đáng chú ý vì
chỉ số của nó (1965=100) tăng 14,6 năm 1955 lên 291,6 năm 1970, hơn 20
lần trong vòng 20 năm. Tuy vậy, chỉ số của ngành công nghiệp dệt chỉ tăng
tương đối nhỏ: từ 42,2 năm 1955 lên 154,0 năm 1970. Kết quả của sự phát
triển nói trên có sự góp phần rất nhiều của các nghành công nghiệp nặng và
hóa chất trong tổng sản lượng chế tạo công nghiệp chế tạo đạt tới 57% năm
1970, cao hơn phần tương ứng ở Tây Đức hoặc Mỹ.

Quá trình tăng trưởng này không phải là sự phát triển nhẹ nhàng,
không gấp khúc. Trong thời gian này Nhật Bản đã trải qua những bước thăng
trầm rõ rệt, chia ra thành những chu kì dài khoảng hơn 3 năm, 2 năm, đôi khi
là 5 năm. Những sự lên xuống này diễn biến một cách có hệ thống và phần lớn
theo một lề lối nhất định. Tính từ năm 1951 đến năm 1973 có tất cả 7 lần
phồn thịnh và 8 lần suy thoái. Những lần suy thoái của chu kì này chỉ biểu
hiện ở tốc độ tăng trưởng chậm lại chứ không phải là giảm sút tuyệt đối.
2. Một số thành tựu đạt được
4
+) Về công nghiệp:
Nhật Bản rất chú trọng vào phát triển công nghiệp. Khoảng hơn hai
thập kỷ sau chiến tranh từ năm 1952 – 1973 là thời gian mà Nhật Bản đạt
được sự gia tăng mạnh mẽ nhất về công nghiệp. Điểm nổi bật nhất trong công
nghiệp Nhật Bản thời kì này là sự tăng trưởng cao của nghành công nghiệp
chế tạo. Năng suất và sản lượng của ngành này đã liên tục gia tăng trong khi
đó các ngành khác lại bị giảm sút.
Bảng 3: Sản phẩm quốc dân thuần túy của từng ngành sản xuất (thể

hiện qua chi phí của các yếu tố)
1952 1960 1968
Kinh
nghạch
Tỷ
trọng
Kinh
nghạch
Tỷ
trọng
Kinh
nghạch
Tỷ
trọng
-Nông – lâm – ngư
nghiệp
- Khai mỏ
- Chế tạo
- Xây dựng
- Điện lực, khí đốt,
cấp nước, vận tải,
bưu điện.
- Thương nghiệp
- Dịch vụ
- Tổng cộng
1170
150
1258
201
454

884
1008
5137
22,6
3,1
24,3
3,9
8,8
16,3
21,0
100,0
1941
213
3891
733
1224
2154
3141
13293
14,6
1,6
29,3
5,5
9,2
16,2
23,6
100,0
4167
291
122832

3230
3059
7413
10887
12299
9,9
0,7
30,3
7,6
8,3
17,5
25,7
100,0
Ngành hàng hải được chú trọng và phát triển. Từ năm 1951 đến năm
1970 số lượng tàu tăng đáng kể và số tiền tài trợ của chính phủ cũng tăng. Từ
năm 1966 – 1970 đã chiếm 69% tổng số tiền của chương trình đóng tàu của
Nhật Bản.
Nhờ khôi phục được nguồn nguyên nhiên liệu nên ngành công nghiệp chế
tạo ngày càng phát triển mạnh mẽ, được thể hiện trong từng phân ngành của
ngành công nghiệp chế tạo.
Bảng 4: Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng nămcủa giá trị sản phẩm.
Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của
giá trị sản phẩm (%).
Thập kỷ 1950 Thập kỷ 1960 1951 - 1970
Chế biến thực phẩm 16,9 10,3 13,4
5
Sản phẩm từ sợi
Đồ gỗ
Giấy – in ấn – xuất bản
Hóa chất

Sản phẩm từ dầu mỏ
Sản phẩm than đá
Đồ gồm, sản phẩm từ đá
Gang thép
Sản phẩm kim loại
Máy thông dụng
Máy điện
Máy vận tải
Máy chính xác
Bình quân toàn ngành
công nghiệp chế tạo
4,2
16,8
18,3
18,1
27,3
3,3
15,0
11,7
13,5
25,3
30,4
22,0
18,7
14,6
10,1
15,7
15,5
14,3
17,3

15,5
17,7
1,1
18,7
18,2
18,5
18,3
17,8
15,0
7,2
16,2
17,1
16,1
21,8
9,5
1,4
13,5
16,2
21,5
24,0
20,1
18,2
14,8
Thời kỳ này sản xuất điện tử, nghe nhìn và đồ điện gia dụng cũng phát
triển mạnh mẽ. Đặc biệt là ngành sản xuất tivi đã nhanh chóng chiếm lĩnh thị
trường thế giới.Trong lĩnh vực máy tính điện tử năm 1965 sản xuất đạt 4000
chiếc với giá 200.000 yên. Năm 1969 sane xuất đã tăng lên 10 lần, đạt
450.000 chiếc và đã giảm xuống còn 10.000 yên. Vào năm 1973 việc cải thiện
các nguyên liệu và các phương pháp sản xuất hàng loạt đã đẩy sản lượng
máy tính lên 10 triệu chiếc và giá đã giảm xuống còn vài ngàn yên. Những

loại máy tính lớn cũng được sản xuất trong thời kì này.

Riêng về đồ điện gia dụng, ngoài vô tuyến truyền hình, vào giữa những
năm 50 người ta đã chứng kiến sự khởi đầu của việc sản xuất hàng loạt các
đồ dùng gia đình khác.
Một lĩnh khác là ngành sản xuất ô tô. Trước chiến tranh nó hầu như
không hề tồn tại, tuy nhiên trong thời kỳ này đã thực hiện “bước nhảy” phi
thường.
Mức gia tăng sản lượng xe hơi của Nhật Bản (triệu chiếc)
Năm 1960 1965 1970 1975 1980
Sản xuât
Xuất khẩu
0,2
0,0
0,70
0,50
3,0
0,8
4,0
1,8
7,0
4,0
6
Tỉ lệ sản xuất công nghiệp của Nhật Bản trong thế giới Tư bản chủ
nghĩa
Tên nước Nhật Bản Mỹ Tây Âu
1938
1950
1960
1971

4,8
1,6
5,4
9,5
36,6
54,6
44,9
39,1
45,0
32,7
34,9
34,3
+) Về nông nghiệp:
Trong giai đoạn “thần kỳ” của nền kinh tế Nhật Bản sự tăng trưởng chủ
yếu được thể hiện qua ngành công nghiệp. Tuy nhiên, Nông nghiệp Nhật Bản
thời kỳ này cũng đạt được sự phát triển khá lớn và nó cũng trở thành một
trong những lực đẩy của nền kinh tế quốc gia. Giai đoạn 19952-1973 ở ngành
nông nghiệp đã có những biến đổi sâu sắc. Sự lớn mạnh của ngành công
nghiệp dẫn tới sự giảm sút của lực lượng lao động nông nghiệp.
Bảng: Tổng số lực lượng lao động và số lao động trong nông nghiệp
(Đơn vị: 1000 người)
1950 1955 1960 1965 1970
Tổng số lực lượng
lao động
Số lao động trong
nông nghiệp
35.626
16.102
39.261
14.890

43.719
13.128
47.633
10.857
52.110
9.334
Ngành nông nghiệp Nhật Bản thời kỳ này phát triển khá đa dạng và
phong phú, nhưng sản xuất chính vẫn là lúa gạo. Nhờ áp dụng được máy móc
hiện đại và các loại phân bón tốt nên sản lượng lúa đã không ngừng gia tăng.

Sự biến đổi sản lượng lúa nước
Năm Diện tích canh tác
(ngàn ha)
Thu hoạch trên
diện tích 10 ha
Sản lượng (nghìn
tấn)
1950
1955
1960
1965
1966
1967
1968
2877
3045
3124
3129
3149
3171

3173
327
396
401
390
400
453
449
9412
12073
12593
12181
125262
14257
14223
7
1969
1970
1971
1972
2836
2626
2734
2581
435
422
414
456
13497
12528

10782
11776
Tiến bộ nhất trong nông nghiệp thời kỳ này là chính là việc ứng dụng các
loại máy móc vào sản xuất, nhất là các loại máy lớn. Đồng thời hệ thống tổ
chức thí nghiệm và nghiên cứu cơ giới hóa nông nghiệp, được cải tiến và mở
rộng. Cho đến năm 1955 hầu như các loại máy nông nghiệp đã được triển
khai rộng khắp. Năm 1955 có 2 triệu máy tuốt hạt, đến năm 1965 lên tới gần
3 triệu máy.Còn máy làm đất, năm 1955 có 90000 máy, đến năm 1960 vọt lên
2526000 máy.
Tóm lại, thời kỳ 1952-1973, nông nghiệp Nhật Bản đã có bước tiến khá
mạnh theo hướng thâm canh với trình độ cơ giới hóa, hóa học hóa, thủy lợi
hóa và điện khí hóa rất cao. Từ tình trạng thiếu lương thực gay gắt sau chiến
tranh thế giới thứ hai, giờ đây nhân dân có thể tự túc về nông nghiệp, sản
lượng lương thực đã đủ cung cấp cho 80% nhu cầu trong nước, ngành chăn
nuôi giải quyết 2/3 nhu cầu thịt sữa, ngành đánh cá chỉ đứng sau Peru với
sản lượng cá tính theo đầu người hàng năm là 86kg. Tính chung về sản lượng
nông – lâm – ngư nghiệp cho đến đầu những năm 1970 Nhật Bản đã đạt trên
9 tỷ đô la.
+) Về thương nghiệp:
Là một nước có lãnh thổ hạn hẹn, dân số đông và tài nguyên thiên nhiên
khan hiếm, để phát triển đất nước Nhật Bản không còn cách nào hơn là phải
nhập khẩu nguyên liệu và thực phẩm. Từ đó một nhiệm vụ quan trọng trong
quá trình tăng trưởng kinh tế là phải xuất khẩu thu ngoại tệ để duy trùy nhập
khẩu.

Đặc điểm nổi bật trong quá trình phát triển kinh tế của Nhật Bản là sự
tác động mạnh của mức dự trữ ngoại tệ. Nhu vậy mức dự trữ ngoại tệ là yếu
tố quan trọng hàng đầu đối với sự tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản. Năm
1949 Nhật tái tham gia vào nền kinh tế thế giới với tỷ suất hối đoái là 360 yên
ăn 1 đô la. Nhờ vậy, sức cạnh tranh của Nhật Bản gia tăng mạnh mẽ. Tổng kết

hoạt động ngoại thương trong thời kỳ 1952-1973 Nhật Bản luôn có số xuất
khẩu nhiều hơn nhập khẩu.

Tổng ngạch xuất khẩu (triệu đô la)
8
1969 1970 1971
Tổng ngạch
nhập
15024 18881 19712
Tổng ngạch
xuất
15990 19318 24019
Tương quan xuất và nhập khẩu hàng tiêu dùng và dịch vụ so với tổng
sản phẩm quốc dân năm 1966
Các nước Xuất khẩu Nhập khẩu
Hoa kỳ
CHLB Đức
Anh
Pháp
Nhật
Ý
Hà Lan
Bỉ
Thụy Sĩ
4,9
20,9
18,4
14,5
11,5
7,9

42,2
36,3
30,8
4,8
19,4
18,9
14,3
9,8
15,8
45,3
37,4
30
Mức xuất khẩu của các cường quốc thương mại
Các nước 1955 1964 1955—1964
Hoa Kỳ
CHLB Đức
Anh
Pháp
Nhật
Canada
Ý
Ấn Độ
15,38
6,14
8,47
4,85
2,01
4,42
1,86
1,28

27,00
17,81
13,72
10,06
8,45
8,11
7,19
1,68
1,76
2,91
1,62
2,07
4,02
1,83
3,87
1,31
Nguồn: OECD

Trong giai đoạn này các cường quốc thương mại như Ấn Độ đã bị loại
khỏi cuộc cạnh tranh. Từ năm 1955-1965 xuất khẩu quốc tế của Nhật Bản
hãy còn khá khiêm tốn, tuy vậy nó đã tăng từ 2,2% lên 4,6%.
Cơ cấu hàng nhập khẩu
1962 1965 1968 1971
Tổng loại
Thực phẩm và hàng tiêu
dùng
100,0
16,2
100,0
21,5

100,0
17,2
100,0
17,3
9
Nguyên liệu công nghiệp
Hàng tư bản
Hàng tiêu dùng mau
hỏng
Hàng tiêu dùng lâu bền
Các loại khác
68,2
14,0
0,3
0,7
0,6
67,3
8,8
0,6
1,3
0,5
70,2
9,7
0,8
1,4
0,7
66,5
11,7
1,2
2,1

1,2
Như vậy, nhìn chung ngoại thương Nhật Bản trong giai đoạn 1952-1973
đã có sự phát triển cao nhờ kích thích của ngành công nghiệp và một số điều
kiện thuận lợi khác. Trong giai đoạn này cả nhập khẩu và xuất khẩu đều tăng
vọt nhưng xuất khẩu tăng mạnh hơn. Chỉ số gia tăng của xuất khẩu năm 1960
là 43,9, năm 1965 đã là 100 và năm 1970 đã lên đến 200,8. Đặc biệt xuất khẩu
hóa chất đã đạt kỷ lục, chỉ số gia tăng từ 29 vào năm 1960, lên 100 vào năm
1965 và 280 vào năm 1970. Lĩnh vực sản xuất máy móc cũng có những chỉ số
tương ứng là 26,100 và 263.

Sự phát triển của ngoại thương tác động rất lớn đến tăng trưởng kinh tế
của Nhật Bản. Ngoài việc thúc đẩy nhanh quá trình sản xuất công nghiệp và
nông nghiệp, lợi nhuận thu được từ xuất khẩu hàng hóa còn được tái đầu tư
và phục vụ cho các ngành kinh tế khác như giao thông vận tải, bưu điện, dịch
vụ…thúc đẩy các ngành này phát triển mạnh mẽ.

Tóm lại, từ một nền kinh tế đổ nát sau chiến tranh, Nhật Bản đã vươn lên
bằng chính bàn tay và khối óc, bằng chính ý chí và nghị lực của mình, xây
dựng một nền kinh tế phát triển cao độ trên hầu hết mọi ngành kinh tế, nhanh
chóng khẳng định sức mạnh và nâng cao vị trí của mình trên thị trường quốc
tế.
3. Nguyên nhân của việc phát triển “thần kì”
+) Những nhà kinh doanh xí nghiệp tích cực:
Các nhà kinh doanh xí nghiệp đã tỏ rõ năng lực kinh doanh rất tích cực
của mình. Tháng 4 - 1946 Hội đồng hữu kinh tế (Katai – Doyukai – tổ chức
các nhà kinh doanh – ND) đã được thành lập với quyết tâm của những nhà
kinh doanh trẻ dưới 50 tuổi như ông Kanichi Mroi, otsuka phê phán những
nhà kinh doanh lỗi thời không chịu tuân thủ nguyên tắc dân chủ hoá sau
chiến tranh và phong trào công nhân quá khích tuyên bố xác lập vị trí riêng
10

của tổ chức mình, phân chia gianh giới giữa tư bản và kinh doanh, nhằm thực
hiện chủ nghĩa tư bản xét lại trong đó dựa vào sự thoả hiệp giữa chủ và thợ.
Những người kinh doanh xí nghiệp ở NB sau chiến tranh có thể phân
thành ba loại :
-Loại 1: Những nhà kinh doanh trẻ được đề bạt với tư cách là người thay thế
các nhà lãnh đạo các xí nghiệp hàng đầu đã bị buộc phải rời khỏi chức vụ theo
luật giải tán các tập đoàn tài phiệt. Tiêu biểu là các ông Chikara Kurata (hãng
chế tạo Hitachi), Kikuo Ssoyama(hãng Toyo Rayon).
- Loại 2:Những nhà kinh doanh lập nghiệp sau chiến tranh, tức là trước chiến
tranh chỉ là các xí nghiệp trung tiểu, sau chiến tranh phát triển nhảy vọt. Tiêu
biểu là Konosuke Mastu(công ty điện Mastu Shita), Sazo Idemitsu (Idemitsu
Hunsan).
- Loại 3: các nhà doanh nghiệp nổi lên sâu chiến tranh. Đại diện là Ohibuka, A
Kio morita (Sony), Shoi chiro honda(hãng nghiên cứu kỹ thuật Honda).
+) Lực lượng lao động ưu tú:
Nhật Bản có một lợi thế lớn là có một nguồn lao động dồi dào. Sau chiến
tranh một lực lượng lớn người rút ra từ các thuộc địa của NB về giải ngũ ra
từ quân đội. Nguồn cung cấp lao động lúc đó là quá thừa và họ sẵn sàng làm
việc với đồng lương rẻ mạt. Nói theo thuật ngữ kinh tế học của Mác thì lao
động tạo ra giá trị thặng dư và có khả năng tích luỹ tư bản. Dù đồng lương
thấp đến mức nào, nhưng vì chất lượng lao động tồi, năng suất lao động thấp
thì cũng không phát sinh giá trị thặng dư. Nhưng phần lớn lao động ở NB có
trình độ giáo dục cao và được đào tạo về kỹ năng lao động. ảnh hưởng của
chủ nghĩa Mac đã phát triển rất nhanh chóng nhưng chủ yếu ở trong một bộ
phận trí thức và công nhân ở các thành phố, còn phần lớn công nhân vẫn còn
tiếp tục theo quan niệm có từ trước chiến tranh là trung thành vơí các xí
nghiệp.

Từ năm 1947 đến năm 1949 là những năm sau chiến tranh, số trẻ sơ sinh
tăng vọt. Trong 3 năm đó, tỷ lệ sinh rất cao đạt 3,4% năm. Người ta lo rằng

cứ đà đó thì sẽ đẫn đến tình trạng quá thừa lao động và làm trầm trọng thêm
vấn đề thất nghiệp. Tuy vậy lớp trẻ sinh ra trong thời kỳ này đạt đến tuổi lao
động đúng vào thời kỳ kinh tế NB tăng trưởng với tốc độ cao, nhu cầu lao
động tăng mạnh.
Sau chiến tranh, tỷ lệ thanh thiếu niên đi học ngày càng cao, trình độ học vấn
cao đã đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cách mạng kỹ thuật.
+) Sự hợp tác chủ thợ:
11
Có thể nói rằng công nhân trong thời kỳ này của các công ty sản xuất đều
có một quyết tâm, và ý chí làm việc rất cao.

+) Lãnh đạo tài ba.
Sự hướng dẫn hành chính: Việc chế định pháp luật được tiến hành dưới
sự lãnh đạo của các quan chức, cả các thông tư và chỉ thị của bộ. Phạm vi để
họ được tự do quyết định khá rộng rãi. Trên cơ sở quyền hạn giám sát nói
chung, các quan chức có thể tham gia ý kiến đến cả những vấn đề không
thuộc quyền hạn về mặt pháp lệnh. Lí do để có khả năng đó chính là sự tin
tưởng vào kiến thức và năng lực của các quan chức, ở sự trong sáng và sự
công bằng và tập quán các xí nghiệp tư nhân phục tùng sự lãnh đạo của các
cơ quan chính phủ.

Hoạch định kế hoạch: Ngoài việc họ phải lập kế hoạch tổng hợp như kế
hoạch tăng thu nhập và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, các quan chức ở
các bộ còn phải lập kế hoạch dài hạn trong lĩnh vực do bộ mình quản. Trong
quá trình hoạch định này thường lập ra cơ quan tư vấn tập hợp các chuyên
gia lẫn các xí nghiệp tư nhân và qua đó là cách để tập hợp kiến thức và đạt
tới sự thoả thuận. Trong hầu hết các trường hợp, lãnh đạo kế hoạch là quan
chức.
Hình thành mục tiêu phải đạt tới trong tương lai: các quan chức đã
phát huy năng lực lãnh đạo thông qua việc hoạch định mục tiêu đối với kế

hoạch phát triển kinh tế và ngành trong tương lai. Về điểm này, cơ quan có
sự chuyển biến rõ rệt nhất là Bộ công nghiệp và mậu dịch quốc tế. Những kế
hoạch có tính định hướng này sớm chỉ ra cho nền kinh tế NB, phải chuyển
biến theo hướng phát triển kinh tế có sử dụng nhiều chất xám, đồng thời tác
động ít nhiều đến cách tư duy của từng ngành.
+) Đổi mới kỹ thuật:
Nguồn gốc của cuộc cách mạng kỹ thuật thì lại từ nước Mỹ. Các kỹ thuật
tiên tiến nhanh chóng được đưa vào NB. Những mặt hàng mới lần đầu tiên
xuất hiện ở thị trường NB như nilon, sợi Polieste, penicilin, nguyên tử năng,
bán dẫn, vô tuyến truyền hình, máy tính có những mặt hàng xưa cũng đã sản
xuất, nhưng nay nhờ có kỹ thuật mới mà phương pháp sản xuất thay đổi hẳn.
NB đã du nhập phương thức sản xuất sắt thép liên hoàn, lò quay, phương
12
pháp phân giải dầu mỏ, phương thức đóng tầu theo khối lớn, phương thức
sản xuất xe hơi hàng loạt.
Sau chiến tranh, ngay trên nước Mỹ cũng đã đạt được những tiến bộ khoa
học kỹ thuật rất lớn. Nhờ những kỹ thuật tiên tiến phát minh ở Mỹ trước và
sau chiến tranh được đưa vào NB trong thập kỷ 50 mà tốc độ tiến bộ kỹ thuật
ở NB cũng nhanh đến mức chưa từng có trong lịch sử NB.
Bước vào thập kỷ 60 tiến bộ kỹ thuật phổ biến diễn ra dưới hình thức kết
hợp với những kỹ thuật đã có. Trong số các chuyên gia kỹ thuật, có người nói
rằng tiến bộ kỹ thuật do sự kết hợp như vậy không hẳn là cách mạng kỹ
thuật. Đó là quan điểm của các nhà khoa học tự nhiên. Trong kinh tế học thì
khác, chính sự “ kết hợp mới” với những kỹ thuật sẵn có là cách mạng kỹ
thuật có ý nghĩa về mặt kinh tế. Những đổi mới kỹ thuật mang tính chất như
vậy là phổ biến trong thập kỷ 60. Và cũng chính trong thời gian này xuất hiện
các liên hiệp hoá dầu, liên hợp gang thép, phương thức bán hàng tự động các
siêu thị.
*/ Năm lĩnh vực lớn của cách mạng kỹ thuật:
• Lĩnh vực điện tử

• Cách mạng trong lĩnh vực vật liệu
• Cách mạng trong lĩnh vực thông tin.
• Cách mạng trong lĩnh vực sinh học.
• Lĩnh vực năng lượng mới.
+) Tỷ lệ tiết kiệm cao và ngân hàng cho vay tích cực :

Tỷ lệ tiết kiệm của các hộ người lao động ở thành phố vào năm 1952 là
4,4%. Nhưng sau đó tỷ lệ này mỗi năm một tăng. Đến năm 1960 tăng lên
15%; năm 1970 là 20%. Tỷ lệ đó đạt mức cao nhất 24% năm 1974. Sau đó có
giảm đi, nhưng nếu so với các nước Mỹ, Anh, Đức thì NB cao hơn nhiều.

Vì sao tỷ lệ tiền gửi tiết kiệm ở NB lại cao như vậy. Có ý kiến cho rằng do
tính cộng đồng, trung thực của người NB, đạo đức Nho giáo coi sống giản dị
là đức tính tốt đẹp, cơ cấu lứa tuổi của người NB trẻ thì tỷ lệ tích luỹ càng
cao, có ý kiến lại cho rằng tỷ lệ tăng trưởng ở NB rất cao nên thu nhập tăng
nhanh hơn tiêu dùng dẫn đến kết quả là tỷ lệ tiền gửi cũng cao (tiêu dùng
không tăng mấy do ảnh hưởng của tập quán lâu đời); Có ý kiến lại cho rằng vì
chế độ bảo hiểm xã hội ở NB lạc hậu nên mọi người phải giữ tiền để phòng khi
đau ốm hoặc về già; lại có ý kiến cho rằng gửi tiền tích luỹ để sau này mua
nhà ở hoặc để cho con cái học hành. Có người lại nói rằng chế độ tiền thưởng
13
ở NB giúp cho người gửi tiết kiệm tăng lên. Vì qua điều tra người ta thấy tỷ lệ
người gửi tiền từ khoản tiền thưởng cao hơn tỷ lệ tiền gửi từ lương tháng.
Như vậy tỷ lệ tiền gửi cao ở NB có nhiều nguyên nhân nhưng không rõ
nguyên nhân nào có ý nghĩa quyết định.Có lẽ tổng hợp những nguyên nhân
nói trên đẵ dẫn đến kết quả cuối cùng là tỉ lệ tiền tiết kiệm cao ở Nhật Bản
Còn một nguyên nhân nữa giúp cho nền kinh tế NB tăng trưởng với tốc độ cao
là quan niệm cho vay tích cực của ngân hàng. Hoạt động cho vay của ngân
hàng thay thế cho tích luỹ vốn. Có lẽ NB thành công được là nhờ tỉ lệ tiền gửi
trong chi tiêu gia đình là rất cao. Tỉ lệ tiền gửi cao gắn với hoạt động cho vay

tích cực của ngân hàng đã tạo nên khả năng tích luỹ vốn cần thiết cho nền
kinh tế NB tăng trưởng với tốc độ cao.
+) Môi trường quốc tế hoà bình:

Sau chiến tranh thế giới thứ II, trên thế giới đã nổ ra nhiều cuộc chiến
tranh khu vực, cục bộ, nhưng không có những cuộc chiến tranh lớn trên quy
mô toàn thế giới. Trong khuân khổ IMF và GATT, thể chế mậu dịch tự do được
duy trì là điều rất may mắn đối với NB. Nếu thương mại được tự do hoạt
động, thì một nước không có tài nguyên cũng không lo ngại về sự bất lợi
trong phát triển kinh tế. NB có thể mua than đá, dầu hoả và các nguyên liệu
dưới dạng quặng từ những khu vực nào đó có giá rẻ nhất trên thế giới nên có
lợi thế trong cạnh tranh quốc tế hơn nước Anh và Đức, phải dùng than trong
nước có giá thành cao. Tất nhiên hoà bình thế giới là điều kiện cơ bản cho sự
phát triển của NB. Nhưng đôi khi sự rối loạn lại có lợi cho NB.

Thứ nhất là sau năm 1947, cuộc chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Xô bắt
đầu nổ ra. Trong chiến tranh thế giới lần II, Mỹ – Liên Xô bắt tay với nhau.
Nhưng chiến tranh vừa kết thúc, quan hệ hai nước trở nên xấu đi.Trong tình
hình đó, Mỹ đã nhanh chóng thay đổi chính sách đối với NB. Cụ thể là: Mỹ đã
cho kế hoạch ban đầu phi quân sự hoá NB sang xây dựng một nước NB tự lập,
biến NB thành tuyến phát triển của các lực lượng cộng sản ở Châu Á. Nếu
không có chiến tranh lạnh lúc đó chắc là Mỹ đã tìm cách kiềm chế sự phát
triển kinh tế của NB.
Hai là cuộc chiến tranh Triều Tiên. Ngày 25 tháng 06 năm 1950, quân
đội Bắc Triều Tiên vượt qua vĩ tuyến 38, xâm nhập Nam Triều Tiên, bắt đầu
cuộc chiến tranh Triều Tiên, Mỹ đã giúp Hàn Quốc, Liên Hợp Quốc cũng quyết
định trừng phạt Bắc Triều Tiên. NB đã trở thành căn cứ của quân đội Mỹ
14
trong cuộc chiến tranh đó, đã thu được những khoản ngoại tệ lớn, tuy lúc đó
không có viện trợ nhưng NB đã cân bằng được cán cân thanh toán quốc tế.

Ở trong nước, kinh tế phát triển thuận lợi nhờ có những đơn đặt hàng đặc
biệt, hoạt động đầu tư, tiêu thụ cũng sôi nổi hẳn lên. Nhờ vậy mà NB đã thoát
khỏi tình trạng khó khăn khốn đốn sau chiến tranh.
+) Chi phí quốc phòng ít.
Theo hiến pháp mới của NB được ban hành năm 1946, NB tuyên bố từ bỏ
chiến tranh. Quy định từ bỏ chiến tranh được ghi trong hiến pháp đã hạn chế
đến mức thấp nhất chi tiêu cho phòng thủ ở NB và sử dụng quốc lực vào mục
đích phát triển kinh tế. Trong chiến tranh không chỉ riêng tiền bạc, nhân tài
cũng được động viên vào các binh chủng lục, hải không quân. Trong thời bình
được động viên vào các ngành kinh tế. Điều đó cũng được coi là sự đóng góp
to lớn cho sự phát triển kinh tế.
+) Ổn định chính trị và xã hội.
Trong suốt hơn 40 năm sau chiến tranh, có những sự kiện đôi lúc đã
gây ra sự chia rẽ trong xã hội. Nhưng nhìn chung đã nhanh chóng được giải
quyết. Một xã hội mà trong đó một số đông nhân dân coi mình thuộc tầng lớp
trung lưu đã được hình thành. Trên chính trường, trừ thời gian nội các
Katayama của Đảng Xã Hội chỉ tồn tại được khoảng 7 tháng kể từ tháng 6
năm 19947, còn hầu hết thời gian sau chiến tranh, chính phủ do Đảng Bảo
Thủ nắm giữ. Tình hình trên đây có ưu điểm là đã mang lại sự ổn định xã hội,
duy trì được tính nhất quán của chính sách. Chính sách của Đảng bảo thủ
không phải cố giữ thể chế đã lỗi thời mà đã có không ít những mặt tiến bộ
mang lại sự thay đổi. Có thể đó là một lí do Đảng Bảo Thủ ở NB duy trì được
chính quyền trong một thời gian dài.
+) Cơ cấu hai tầng:
Nói “cơ cấu hai tầng” là một đặc điểm nổi bật của nền kinh tế NB, không
có nghĩa là ở các nước Tư bản phát triển khác không còn tồn tại bộ phận sản
xuất nhỏ nữa. Hơn nữa, khoảng cách về cơ cấu trong một nền kinh tế chỉ vừa
mới phát triển công nghiệp như NB thì cũng không có gì đáng ngạc nhiên.
15
Nhưng nét phát triển độc đáo của NB là sự đóng góp to lớn của khu vực sản

xuất truyền thống, kinh doanh nhỏ trong suốt quá trình hiện đại hoá nước
NB, và sự tồn tại rất phổ biến của loại hình sản xuất, kinh doanh nhỏ (bảng 3)
và khả năng thích ứng của nó khi NB đã đạt trình độ hiện đại hoá cao. ở đây,
Ta chỉ đi sâu vào sự đóng góp của nó, vào sự tăng trưởng sau chiến tranh.
+) Chính sách mở cửa và phát triển khoa học kỹ thuật:
Sự tiếp nhận các tri thức, thành tựu khoa học kỹ thuật phương tây được
phân tích kỹ lưỡng thận trọng và có chọn lọc. Các tri thức này đem lại kết quả
thiết thực cho phát triển kinh tế, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất
nước.Những tri thức du nhập này được vận dụng sáng tạo trong điều kiện
kinh tế – xã hội của NB. Việc nhập khẩu kỹ thuật nước ngoài để đổi mới kỹ
thuật trong nước diễn ra hết sức mạnh mẽ trong suốt 40 năm sau chiến
tranh. Đó là một nguyên nhân quyết định, giúp nền kinh tế NB tăng trưởng
với tốc độ chưa từng thấy.
+) Tính cách của nhân dân Nhật Bản:
• Tôn trọng truyền thống
• Tinh thần cộng đồng
• Lòng trung thành
• Tính hiếu học
• Sáng tạo.
• Ham mê lao động
IV. Mặt trái của sự “thần kỳ” kinh tế Nhật Bản.

Sau chiến tranh, với ý chí xây dựng một quốc gia vững mạnh, nhân dân
Nhật Bản đã cùng bắt tay nhau vào lao động sản xuất, làm việc quên mình và
đạt được tốc độ phát triển chưa từng có. Với một nền kinh tế phát triển vùn
vụt theo qui mô của một siêu cường trên một diện tích nhỏ hẹp, Nhật Bản
đang biến môi trường của mình thành một kho rác thải. Đằng sau nhiều tỷ đô
la lợi nhuận là bầu không khí không trong lành lẫn nguồn nước sạch đứng
trước nguy cơ bị hủy hoại. Còn người dân đang bị chịu sự tra tấn hàng ngày
bởi tiếng máy chạy hết công suất, của xe cộ và rất nhiều thứ gây ồn khác mà

người ta ví như “một bản nhạc liên hoan biểu lộ sự vui mừng khi người ta có
khả năng thoát khỏi sự nghèo khổ, tùng đói một cách nhanh chóng” nhưng
đồng thời cũng như một “cuộc nhảy múa của một lũ yêu ma mà nhịp điệu chết
người mỗi lúc một dồn dập hơn nữa”.
16

Vào đầu những năm 60, ô nhiễm môi trường trở thành một vấn đề xã hội
lớn. Với sự phát triển tốc độ của công nghiệp, hàng ngày Nhật Bản phải đón
nhận lượng khí chất độc hại khổng lồ thải ra từ các nhà máy. Các nghành sản
xuất bột giấy, thép, hóa chất….được xem là những con quái vật gây nhiễm
bẩn. Thêm vào đó lượng ô tô tăng nhanh ở Nhật làm cho khói phun ra từ
những chiếc xe này ngày một nhiều hơn. Theo tình toán của các nhà phân tích
môi trường thì lượng khói phun ra từ các xe ở Nhật dày gấp 14 lần Thụy
Điển, nước bị khói ô tô nhiều nhất thế giới tính theo đầu người.

Nhân dân Nhật Bản vốn là những người nhẫn nại và biết chịu đựng, thậm
chí thái độ phổ biến lúc đó của họ là: “vì sự phát triển của công nghiệp nên
cần phải có sự hi sinh”. Tuy nhiên, khi ô nhiễm lên mức báo động họ đã lên
tiếng. Bốn vụ kiện lớn về môi trường đã được đưa ra xét xử ở thời kì này, đó
là những yêu cầu bồi thường do ô nhiểm ở Nigiata, việc nhiễm độc ở vịnh
Minamata, nhiễm độc catmi ởToyama và bệnh hen suyễn ở Yokkaichi. Những
đám mây nhiễm độc ngày càng phủ dày trên các thành phố khiến nhân dân
phản ứng gay gắt. Chính phủ buộc phải nhượng bộ cho thông qua các đạo
luật về môi trường và thi hành nghiêm chỉnh các đạo luật đó.

Bên cạnh ô nhiễm môi trường là sự gia tăng tai nạn xe cộ. Năm 1969
một triệu người Nhật đã bị thương về tai nạn xe cộ trong khi đó ở Hoa Kỳ chỉ
có hai triệu người. Lý do gây tai nạn vì hầu hết các thành phố ở Nhật không
có vỉa hè, trừ các trung tâm nên đường xá trở nên chật chội và người đi bộ
thường bị xe cán. Điều đó cho thấy sự khan hiếm đất đai ở đô thị Nhật Bản.

Do giá đất quá đắt nên người ta đã tận dụng hết những gì có thể, không muốn
dùng đất để làm vỉa hè. Dự tính nếu cứ phát triển như nhịp độ hiện nay thì các
vụ tai nạn giao thông sẽ làm từ 20 đến 25 triệu người Nhật bị thương trong
vòng 15 năm tới, tức khoảng 1/5 dân số sẽ gặp rủi ro do tai nạn xe cộ, làm
cho nhà sản xuất bị thiệt hại mỗi năm số lượng tài sản không nhỏ.
Cái giá quá đắt cho sự tăng trưởng trên là nguyên nhân dẫn đến sự hoài
nghi và bất bình của dân chúng đối với Chính phủ. Phong trào đấu tranh của
quần chúng lao động, sự nổi dậy của sinh viên là những biểu hiện tập trung
của sự bất bình đó.

Những năm 1968-1969 biểu tình của sinh viên nổ ra trên khắp nước Nhật,
với mong muốn xã hội sẽ có tình người hơn, tự do hơn. Còn với nhân dân do
mức sống được cải thiện nên họ hướng sự chú ý sang những điều khiếm
17
khuyết và nhận ra những khía cạnh “kém hoàn hảo” của sự tăng trưởng. Làn
sóng phẫn nộ ngày càng dâng cao trong quần chúng.

Mâu thuẫn kinh tế xã hội dâng lên gay gắt và người ta thấy rằng cần
phải nhanh chóng có những chính sách để thay đổi tình hình, chính sách đó
không chỉ quan tâm đến sự phát triển kinh tế mà còn chú trọng các giá trị
khác của sự phát triển.
V. Ý nghĩa của sự phát triển kinh tế đối với Nhật Bản.
Sự phát triển thần kì của kinh tế Nhật Bản giai đoạn 1952-1973 đã đưa
đất nước Nhật Bả thoát khỏi tình trạng kiệt quệ do những hậu quả của cuộc
chiến tranh thế giới thứ 2. Nhật Bản đã phục hồi nhanh chóng và phát triển
mạnh mẽ , vươn lên trở thành cường quốc kinh tế thứ 2 sau Mỹ.
Kinh tế được phục hồi và phát triển kéo theo tình hình chính trị xã hội
cũng ổn định. Sau chiến tranh, kinh tế Nhật Bản kiệt quệ, tình hình chính trị
mất ổn định, xã hội rối loạn. Nhờ có những chính sách khôi phục, phát triển
kinh tê kịp thời đã đưa Nhật Bản trở lại ổn định.


Con người Nhật Bản luôn có tính kỉ luật cao, cần cù chịu khó và năng
động, tích cực có ý chí vươn lên. Đây chính là yếu tố quan trọng làm nền móng
giúp nền kinh tế Nhật Bản có thể phục hồi và phát triển sau chiến tranh. Qua
sự thần kì đã khẳng định vai trò quan trọng mang tính chất quyết định của
yếu tố con người. Chính tính cách con người đã làm nên sự phát triển thần kì
lớn lao, đã làm thay đổi toàn diện đất nước Nhật Bản, đã làm nên sự thần kì.
Vai trò của yếu tố con người có ý nghĩa vô cùng lớn lao của thành tựu đã đạt
được.
Sự phát triển thần kì đã nâng cao vị thế của Nhật Bản trên trường quốc tế.
Nhật Bản từ một nước bại trận sau chiến tranh đã thế giới thứ 2, đất nước bị
tàn phá nặng nề, bị các nước đồng minh chiếm đóng, phải bồi thường cho
chiến tranh,…. Đã trở thành một cường quốc lớn mạnh về mọi mặt. Nhật Bản
đã có tiếng nói ảnh hưởng lớn đến trường quốc tế, mở rộng quan hệ ngoại
giao với nhiều nước trên thế giới, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế

Tình hình đất nước ổn định và phát triển đời sống nhân dân cũng được
nâng cao chất lượng cuộc sống được cải thiện. Một nhân tố lớn dẫn đến sự
phát triển thần kì của Nhật Bản chính là yếu tố con người. Nhân dân được ấm
18
lo hạnh phúc sẽ trở thành nền tảng để phát triển đất nước. Sự phát triển thần
kì đã mang đến sự thay đổi lớn trong xã hội Nhật Bản, nâng cao chất lượng
cuộc sống góp phần cũng cố thêm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Nhà nước.
Sự thành công của nền kinh tế Nhật Bản đã điều hòa thu nhập giữa khu
vực kinh tế Nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân, điều hòa phúc lợi xã hội từ đó
kích thích sản xuất và tạo nên sự tăng trưởng trong nền kinh tế.
VI. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam rút ra từ sự phát triển
của nền kinh tế Nhật Bản giai đoạn này.
1. Nhứng đặc điểm của Việt Nam.

-Tiềm năng chủ yếu của Việt Nam là nguồn lao động rồi dào và giá
rẻ. Tài nguyên thiên nhiên cũng đều ít ỏi, hạn chế về trữ lượng,
không đủ để phát triển mộ ngành công nghiệp khai thác đóng vai
trò chủ lực trong tích lũy cho công nghiệp hóa quốc gia.
- Việt Nam trải qua thời kì dài trong quá khứ là nước thuộc địa phụ
thuộc, trình độ phát triển thấp, nghèo nàn lạc hậu là phổ biến, bị
chiến tranh khốc liệt tàn phá nặng nề.
- Nền kinh tế Việt Nam mang tính chất nông nghiệp là chủ yếu, lại ở
trình độ thô sơ về kĩ thuật, phương tiện sản xuất, dân số đông, diện
tích đấtđại canh tác trên đầu người quá nhỏ, điều kiện thời tiết
không thuận hòa, quy mô đất dai manh mún không đủ để tổ chức
sản xuất lớn đạt hiệu quả cao … Trong khi đó, các ngành công
nghiệp địa phương chỉ thỏa mãn nhu cầu nội địa nên không có khả
năng cạnh tranh mạnh trên thị trường thế giới. Điều đó đã tác động
xấu đến tích lũy và tái sản xuất mở rộng, cán cân thanh toán không
được cải thiện, kìm hãm sự phát triển và mở rộng kĩ thuật dẫ đến
kìm hãm sự sản xuất. Tóm lại nền kinh tế Việt Nam trong tình trạnh
trì trệ.
2. Những biện pháp.
- Tăn trưởng kinh tế là biểu hiện cao nhất của nền kinh tế năng
động, là kết quả tổng hợp của các nhân tố trông quá trình sản xuất
xã hội. Do vậy mốn đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao thì phải
19
có đủ các yếu tố và kết hợp chúng một cách hài hòa. Thế mạnh là
lao động nhưng nếu không có chính sách vĩ mô và vi mô phù hợp để
khai thác thế mạnh thì không đạt được thế mạnh mong muốn. Tất
cả các nguồn lực phải được phân bổ hợp lý, đem lai hiệu quả tối đa,
người lao động được đóng góp và hưởng thụ đúng như phần đóng
góp của mình. Một cơ cấu hài hòa cân đối sẽ làm cho nền kinh tế
tăng trưởng. Do vậy chiến lược tăng trưởng nhan sẽ là cầu nối để

các quốc gia lạc hậu bước ra khỏi tình trạng nghèo khổ, dần dần
vươn lên văn minh và tiến bộ xã hội.
- Để duy trì được tốc độ tăng trưởng nhan cần có năng lực chính
phủ đủ mạnh, nghĩa là cần một chính phủ có tổ chức gọn nhẹ, điều
hành hoạt động với hiệu suất cao, biết dẫn dắt mọi hoạt động kinh
tế đi đúng quỹ đạo, chống đỡ một cách hiệu quả đối với những khó
khăn bất thường xảy ra, biết tạo ra một môi trường hoạt dộng kinh
tế- thương mại thuận lợi cho mọi thành phần trong xã hội. Chính
phủ đó hơn tất cả mọi yêu cầu, biết cách can thiệp như thế nào đồi
với nền kinh tế, việc định hướng đúng vai trò, can thiệp của nhà
nước sẽ có tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển. Mô hình kết hợp
giữa chủ trương đẻ mặc tư nhân với điều tiết có lựa chọn của nhà
nước ở Việt Nam là một điển hình đối với các nước đang phát triển
trên con đường công nghiệp hóa của mình.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao là kết quả của xu hướng mở cửa-
xu hướng tích cực để các nước chậm tiến hòa nhập và phát triển
theo lịp trình độ văn minh thế giới. Mặc dù có lao động giá rẻ nhưng
nhìn trung Việt Nam là nước có quy mô dân số trung bình,nguồn tài
nguyên tương đối nghèo nàn và không là chỗ dựa ban đầu thuận lợi
cho công nghiệp hóa. Vỉ vậy hướng về xuất khẩu dường như là yêu
câù bắt buộc đặc biệth vào thừoi kì đầu tích lũy vốn cũng như tich
lũy những kinh nghiệm cần thiết cho các chương trình mửo rộng về
sau này.
- Sau khi quyết định mở cửa, các quan hệ kinh tế đối ngoại của một
nước chậm tiến cần được triển khai từ thấp đến cao, trước tiên phải
đáp ứng đòi hỏi của phân công lao động và hợp tác quốc tế với các
nước có tiềm lực công nghippẹ lớn và giàu có hơn là với các nước
20
nghèo. Tất nhiên trong quá trình này nước nghèo có thể trả giá
nhất định, có thể đi đường vòng hơn là đường thẳng nhưng không

vì thế mà thay đổi định hướng lâu dài của mình.
- Công nghiệp hóa gắn liền với sự hình thành cơ cấu công nghiệp và
kinh tế xã hội mới trong đó năng suất lao động cao hơn. Để đạ được
mục tiên này căn cứ để lựa chọn kỹ thuật công nghệ không thể dựa
trên nền tảng nào khác là nó phải phù hợp với trình độ dân trí, kỹ
thuật thích hợp cần được coi trọng không kém việc quy định vốn lớn
và sức lao động dồi dào. Trong nhiều trường hợp,rõ ràng là bí quyết
công nghệ đóng vai trò qua trọng hơn vốn, nó quyết định khả năng
cạnh tranh và tốc độ tăng trưởng. Mở cửa và hội nhập quốc tế,
tranh thủ điều kiện thuận lợi của quốc tế để phát triển đất nước
thông qua các chính sách thương mại và đầu tư.
-Xóa bỏ cơ cấu kinh tế tập trung chống độc quyuền trong kinh
doanh.
-thực hiện giao đất cho nông thôn. Việc giao đất cho nông dân đã
chuyển sở hữu ruộng đất trực tiếp cho nông dân trực tiếp canh tác,
kích thích sản xuất đầu tư, áp dụng khoa học kĩ thuật trong nông
nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất.
- Trong tập trung phát triển công nghiệp. Đầu tư lớn vào các ngành
công nghiệp nặng và các ngành sử dụng cường độ lao động cao.
-Trình độ công nghiệp phải hiện đại. Mô hình quản lí xí nghiệp
tương đối hoàn chỉnh, chi phí ít, năng suất lao động cao, chất lượng
tốt để sức cạnh tranh hàng hóa của Việt Nam trên thị trường thế
giới cao.
-Chính sách của Việt Nam hướng về xuất khẩu, vừa thay thế nhập
khẩu nhằm khai thác lợi thế so sánh.
-Nhanh chóng hoàn thành thời kì tự do hóa thương mại và đầu tư.
-Phải tạo ra nhiều việc làm cho người lao động.
-Đổi mới và đơn giản hóa các thủ tục đầu tư, giao quyền nhiều hơn
cho các cơ quan có liên quan đến xét duyệt dự án đầu tư đồng thời
giao quyền chủ tịch UBND Tỉnh, Thành, Phố các khu công nghiệp

cấp phép đầu tư.
21
- Nhanh chóng giải quyết các vấn đề phát sinh khi thực hiện luật
đầu tư nước ngoài.
-Ban hành một số chính sách khuyến khích nội địa hóa sản phẩm.
Từng bước tạo ra mặt bằng pháp luật và áp dụng chính sách thuế,
các loại giá cả, dịch vụ đối với các nhà đầu tư trong nước.
-Mở rộng thị trường vốn thông qua các hình thức huy động vốn như
liên doanh, lien kết, góp phần bảo hiểm song song với với việc phát
triển thị trường vốn ngắn hạn, xúc tiến việc làm thành lập và phát
triển thị trườn vốn trung hạn và dài hạn, đặc biệt là thị trường mua
bán cổ phiếu và trái phiếu, tiến tới lập thị trường chứng khoán.
Nói tóm lại, nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa-hiện
đại hóa đất nước, công cuộc đổi mới kinh tế đòi hỏi phải tập trung
mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế. Có thể nói răng Nhật Bản là
tấm gương sáng trong việc tổ chức phát triển knh tế. Những bài học
về huy động và sử dụng vốn, kết hợp khéo léo cấu trúc kinh tế 2
tầng, mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài, vai trò điều
chỉnh kinh tế của nhà nước là là bài học quý giá cho nước ta trong
phát triển kinh tế. Tuy nhiên nền kinh tế Nhật Bảnt cũng bộc lộ
nhiều hạn chế, đó là những điểm yếu mà nền kinh tế nước ta phải
tránh để đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế, phát triển
kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi trường, phát triển cân đối, bảo
đảm phúc lợi xã hội, cân bằng xã hội và giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc.
Đất nước ta đang phát triển đi lên được trước hết là tùy thuộc
vào đườn lối chính sách của Đảng và Nhà nước và sau đó là năng
lực trí tuệ bản thân và kinh nghiệm học được từ các nước khác. Đặc
điểm phát triênt kinh tế của mỗi nước là những bài học kinh nghiệm
cho chúng ta học hỏi, từ đó ta co thể tránh được những sai lầm mà

các nước khác vấp phải đồng thời học hỏi được những cái hay để từ
đó có thể áp dụng vào nền kinh tế Việt Nam phù hợp với hoàn cảnh
đất nước.
22

×