A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cuối thế kỉ XX, trước cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế-xã hội, các nước
XHCN đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường.
Dù với phương thức chuyển đổi khác nha, những bước đi và mức độ thành công khác
nhau nhưng thực tế cho thấy những kết quả tốt hơn so với trước khi chuyển đổi. Đó là sự
ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, phục hồi và bước đầu tăng trưởng kinh tế; các
thể chế của nền kinh tế thị trường đã dâầndần hình tha nhf và phát huy tác dụng tích cực
song song với việc chuyển đổi hệ thống pháp luật và thiết chế Nhà nước; từ nội dung đén
phương thức quản lí kinh tế ở các nước đã được chuyển đổi. Tuy không phải tất cả các
nước chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạchhóa tập trung sang nền kinh tế thị trường đều
giữ định hướng XHCN nhưng từ thực tiễn của công cuộc chuyển đổi sang nền kinh tế thị
truờng ở một số nước, có thể rút ra được những vấn đề chung như sau:
Một là không thể có một mô thức đồng nhất và giản đơn cho mọi nước trong
chuyển đổi. Hai là Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng và tích cực trong quá trình cải
cách chuyển đổi. Có thể khẳng định rằng chất lượng của chính sách Nhà nước cũng như
sự điều tiết có hiệu quả của Nhà nước mới có ý nghĩa quyết định sự thành công của công
cuộc chuyển đổi (Xem: Nguyễn Minh Tú, Về mô hình chuyển đổi kinh tế của một số
nước và định hướng vận dụng ở VIệt Nam,Nxb Chính trị Quốc gia,h.1997,tr.24, 49-50).
Ba là quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi sự đồng bộ không phải chỉ
trong các chính sách kinh tế mà còn cả hệ thống thể chế, cơ cấu xã hội, những thiết chế
Nhà nước và hệ thống lập pháp (Xem Mười vấn đề lớn về kinh tế hiện đại, Viện
NCQLTƯ, H.1995,tr.66).
Như vậy, với những quan niệm về vai trò kinh tế của Nhà nước trên thế giới như đã
nêu trên, có thể thấy cuộc tìm kiếm mô hình kinh tế hợp lí và chức năng đích thực của
Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế ở các nước từ xưa đến nay vẫn đang tiếp tục. Mỗi mô
hình kinh tế cũng như mỗi lí thuyết kinh tế ở các nước đều có những yếu tố hợp lí và
những giá trị tham khảo nhất định; đặc biệt là vấn đề chức năng tổ chức, quản lí của Nhà
nước trong nền kinh tế thị trường hiện đại và chức năng của Nhà nước XHCN trong quá
trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị truờng là
những vấn đề có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
Đó cũng chính là cơ sở lí luận và thực tiễn trong lịch sử quốc tế cho việc nhận thức
vai trò và chức năng tổ chức, quản lí kinh tế của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam.Trên cơ sở phân tích tình hình cụ thể của nước ta trong giai đoạn đầu của thời kì
quá độ, tổng kết việc tổ chức và quản lí kinh tế trong thời gian qua, Đại hội Đảng cộng
sản Việt Nam lần thứ VI đã khẳng đinh “Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính
sách kinh tế là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm
tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực
lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất”.Tư tưởng chỉ đạo đó
thể hiện trong các chính sách và biện pháp lớn chỉ đạo nội dung của chức năng tổ chức
và quản lí kinh tế của Nhà nước ta.
Trong phạm vi bài viết này chúng ta sẽ tìm hiểu chức năng tổ chức, quản lí của
nhà nước XHCN trong lĩnh vực kinh tế của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1.Một số khái niệm cần biết liên quan đến vấn đề chức năng tổ chức, quản lí
kinh tế của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
Cuộc sống xã hội bao gồm rất nhiều lĩnh vực vận động. Các lĩnh vực ấy đều cần có
sự tác động của nhà nước-sự tác động được thực hiện dưới những hình thức và mức độ
khác nhau. Mỗi lĩnh vực ấy có những quy luật vận động đặc thù, do vậy đòi hỏi ở nhà
nước một sự tác động cũng đặc thù, phù hợp với tùng đặc điểm của từng lĩnh vực.Sự
hình thành các lĩnh vực khác nhau với những đặc trưng khác nhau của xã hội xã hội chủ
nghĩa quy định những phương hướng hoạt động khác nhau của nhà nước, mà mỗi
phương hướng hoạt động đều nhằm vào các mục tiêu và nhiệm vụ đang được đặt ra bởi
sự phát triển khách quan của đời sống trong từng lĩnh vực cụ thể. Đó có thể là lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội,có thể là lĩnh vực thuộc đời sống xã hội trong nước
hoặc thuộc quan hệ với các quốc gia bên ngoài.Các phương hướng hoạt động cơ bản của
nhà nước trong khoa học pháp lí được gọi là các chức năng của nhà nước .
Chức năng của Nhà nước thể hiện các yêu cầu của đời sống xã hội với Nhà nước,
thể hiện năng lực thực tế, những giới hạn hợp pháp của hoạt động Nhà nước. Chức
năng của Nhà nước nói chung là hoạt động của Nhà nước thể hiện vai trò của Nhà nước
đối với xã hội.
Nếu quan niệm đời sống xã hội tồn tại những lĩnh vực khác nhau thì chức năng của
Nhà nước cũng được phân chia thành các chức năng khác nhau. Trên cơ sở sự phân chia
đời sống xã hội thành hai lĩnh vực lớn là chính trị, kinh tế-xã hội, ta có thể nhận thức
chức năng kinh tế của Nhà nước nói chung là hoạt động của Nhà nước thể hiện vai trò
của Nhà nước đối với sự phát triển của nền kinh tế. Như vậy, từ phạm trù chức năng của
Nhà nước với ý nghĩa là hoạt động của Nhà nước thể hiện vai trò của Nhà nước đối với
đời sống xã hội, có thể hình thành trên phạm trù chức năng kinh tế của Nhà nước nói
chung như là bộ phận của khái niệm chức năng Nhà nước.Chức năng kinh tế của Nhà
nước cũng là thể thống nhất giữa các dấu hiệu phản ánh nhu cầu khách quan của đời
sống kinh tế, năng lực thực tế của bộ máy nhà nước và phạm vi hoạt động hợp pháp của
Nhà nước trên lĩnh vực kinh tế.
Tổ chức quản lí kinh tế là chức năng có tầm quan trọng đặc biệt của bất kì Nhà
nước XHCN nào. Nội dung của chức năng tổ chức và quản lí kinh tế của Nhà nước
XHCN rất rộng, bao gồm nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ cần giải quyết, trong đó công
tác kế hoạch hóa, xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN và cơ chế quản lí là
những vấn đề then chốt.
Vậy chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa là những phương hướng (hay
phương diện, mặt) hoạt động cơ bản của nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu nhiệm
vụ của nhà nước trong sự nghiệp xây dựng XHCN.
Vai trò của nhà nước rất quan trọng và không thể thiếu vắng trong mỗi mô hình
kinh tế nhưng vấn đề đặt ra ở đây là những cơ sở lí luận và thực tiễn về vai trò kinh tế
của Nhà nước trong bước chuyển từ nền kinh tế hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam cần phải được làm sáng tỏ từ mối quan hệ giữa Nhà
nước và kinh tế thông qua phạm trù chức năng kinh tế của Nhà nước XHCN. Chức năng
kinh tế của nhà nước XHCN nói chung là hoạt động của nhà nước thể hiện vai trò của
nhà nước đối với nền kinh tế xã hội .Chúng ta có thể khái quát những vấn đề thuộc về lí
luận chức năng kinh tế của nhà nước XHCN Việt Nam thành những điểm nhận xét sau:
1.Lịch sử kinh tế cũng như lịch sử nhà nước ở các nước trên thế giới và ở Việt Nam
qua những thời địa với những mô hình kinh tế khác nhau là lịch sử xác định vai trò kinh
tế của nhà nước đồng thời cũng là lịch sử tìm kiếm sự tối ưu trong các chính sách kinh tế
của nhà nước .Dựa trên cơ sở kinh tế chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhà nước
XHCN có chức năng quản lí nền kinh tế một cách có kế hoạch và chức năng này đã từng
được coi là chức năng đặc thù của nhà nước XHCN. Tuy nhiên, trong thời kì quá độ, với
những bước quanh co của lịch sử, CNXH hiện thực đang phải chuyển đổi từ nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa .Trong
điều kiện đó thì vai trò kinh tế của nhà nước XHCN nói chung và của nhà nước Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa VIệt Nam nói riêng không giảm đi so với cơ chế kinh tế kế hoạch
hóa tập trung mà ngược lại càng phải được tăng cường nhưng theo những nội dung và
phương thức mới.
2.Vai trò kinh tế của nhà nước thể hiện tập trung mối quan hệ biện chứng giữa nhà
nước vói kinh tế và đó là cơ sở trực tiếp xác định chức năng kinh tế của nhà nước.Xuất
phát từ phạm trù chức năng của Nhà nước-phạm trù biểu đạt vai trò của nhà nước đối
với xã hội thể hiện qua hoạt động của bộ máy nhà nước.Chức năng kinh tế của Nhà nước
được nhận thức là hoạt động của Nhà nước trên lĩnh vực kinh tế phù hợp với mô hình
kinh tế tương ứng.
3.Với những phạm vi giới hạn nhất định, chức năng kinh tế của Nhà nước có mối
quan hệ biện chứng với các chức năng khác trong hệ thống các chức năng của Nhà
nước .Tính đặc thù trong hức năng kinh tế của Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước quản lí nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở phạm vi vĩ mô.
4.Chức năng kinh tế của nhà nước đươc giới hạn bởi hệ thống pháp luật.Nhà nước
không thể quản lí kinh tế nếu không có hệ thống pháp luật, ngược lại pháp luật kinh tế
không thể tồn tại và phát huy vai trò, tác dụng nếu không có hoạt động của bộ máy Nhà
nước .
5.Cả lí luận và thực tiễn đều chỉ ra rằng không có công thức chung để áp dụng cho
mọi nhà nước và mọi nền kinh tế trên thế giới nên vấn đề đặt ra ở đây là cần tiếp tục
nghiên cứu chức năng kinh tế của Nhà nước theo những nội dung và phương thức thực
hiện cụ thể.
2.Vai trò kinh tế của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa.
Vai trò kinh tế của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam là quá trình đổi mới về thể chế và thiết chế nhà nước, thể
hiện ở sự thay đổi căn bản về vai trò kinh tế của Nhà nước. Đặc trưng của mô hình kinh
tế ấy đã quy định những vai trò kinh tế tương ứng của Nhà nước Việt Nam. Nền kinh tế
quốc dân của Việt Nam ngày nay là nền sản xuất hàng hóa có nhiều thành phần tham gia
theo cơ chế thị trường.Trong cơ chế thị trường, trên nguyên tắc tự do kinh doanh, các
doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh độc lập về tài sản, nhân danh chính mình tham gia
vào các quan hệ kinh tế một cách bình đẳng theo nguyên tắc tự định đoạt. Mặt khác, nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam được xác định là nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN.Việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không chỉ nhằm mục đích đơn
thuần về tăng trưởng kinh tế mà phải lấy sự tăng trưởng kinh tế làm cơ sở, làm điều kiện
để phát triển hài hòa, đáp ứng các nhu cầu đa dạng của xã hội, phát triển con người toàn
diện.
Những đặc điểm trên đã quyết định sự thay đổi vai trò kinh tế của Nhà nước khi
chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Trong cơ chế kinh tế hóa tập trung, Nhà nước đóng vai trò lãnh đạo thống nhất
toàn bộ nền kinh tế quốc dân đồng thời cũng vừa là người điều hành, tổ chức các hoạt
động kinh tế. Còn trong nền kinh tế thị trường, yêu cầu đặt ra là phải xác định rõ tư cách
của Nhà nước là người quản lí nền kinh tế quốc dân trên tầm vĩ mô.Hoạt động kinh tế và
quản lí sản xuất kinh doanh là quyền của chủ thể hoạt động kinh tế. Nhà nước tác động,
điều chỉnh các hoạt động kinh tế với tư cách là cơ quan công quyền mà không can thiệp
một cách trực tiếp vào các quan hệ thị trường.
Phạm vi và nội dung hoạt động thể hiện vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh
tế thị trường đã có những thay đổi cơ bản. Xét trên tổng thể, Nhà nước quản lí kinh tế
chính là nhà nước trực tiếp tổ chức hoạt động kinh tế trên các lĩnh vực khác nhau
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đặc trưng vai trò kinh tế của Nhà
nước được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
-Nhà nước bằng pháp luật quy định tư cách chủ thể, tạo ra khung pháp lí cho các
hoạt động kinh tế;
-Nhà nước tạo ra môi trường thuận lợi về quốc phòng, an ninh, chính trị, xã hội,
ngoại giao cho hoạt động kinh tế;
-Nhà nước bằng pháp luật ngăn ngừa và phòn chống các yếu tố phản thị trường,
phản kinh doanh; duy trì trật tự kinh tế, giữ gìn văn hóa, bản sắc dân tộc trong phát triển
nền kinh tế-xã hội;
-Nhà nước bằng pháp luật định ra các phương thức giải quyết tranh chấp trong hoạt
động kinh tế và thực thi sứ mạng đảm bảo trật tự kinh tế;
-Nhà nước thông qua các công cụ như chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng… tác
động đến nền kinh tế nhằm kiểm soát và hạn chế hậu quả trong các biến động bất lợi của
thị trường;
-Nhà nước thông qua kinh té nhà nước đảm bảo tính hiệu quả, tính ổn định của nền
kinh tế quốc dân, đảm bảo phúc lợi chung cho toàn xã hội;
-Nhà nước bằng pháp luật đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa kinh tế và xã hội,
đảm bảo sử dụng khai thác hợp lí các nguồn tài nguyên, bảo vệ môi sinh;
-Nhà nước đóng vai trò là người mở đường và bảo trợ cho nền kinh tế đất nước hội
nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vai trò kinh tế ủa nhà nước Việt
Nam và vai trò của htị trường không loại trừ mà bổ sung cho nhau trong mối liên hệ biện
chứng giữa quy luật kinh tế khách quan và sự vận dụng các quy luật đó thông qua hoạt
động quản lí nhà nước. Nói cách khác, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
vai trò của Nhà nước được xác định từ chính những yêu cầu nội tại của nền kinh tế thể
hiện sự phân công phối hợp vai trò cảu các yếu tố trong hệ thống hoàn chỉnh là Nhà nước
và các chủ thể kinh tế và thị trường. Như vậy nếu trong nền kinh tế kếhoạch hóa tập
trung, vai trò kinh tế của nhà nước Việt Nam được thể hiện một cách trực tiếp thì trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vai trò đó lại được thể hiện một cách gián tiếp
trên cơ sở thừa nhận và tôn trọng vai trò của thị trường.
Các cơ sở lí luận, pháp lí và thực tiễn vừa nêu về vai trò kinh tế của nhà nước, cho
phép xác định cơ sở chức năng kinh tế của Nhà nước theo những nội dung và phương
thức thực hiện tương ứng với vai trò của Nhà nước ở mỗi mô hình kinh tế.
Thật ra kinh tế nhà nước đều có tính tất yếu khách quan ở các mô hình kinh tế thế
giới(Xem: Ngân hàng thế giới, Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, Nxb chính
trị quốc gia, H.1998,tr.41).Nhưng với bản chất của dân, do dân, vì dân, Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam không phải nhà tư bản lớn và kinh tế nhà nước ở Việt Nam không
phải là hình thức biểu hiện của CNTB độc quyền nhà nước mà là hình thức của nền kinh
tế công hữu phục vụ cho lợi ích của nhân dân trong đó Nhà nước là người đại diện.Vì thế
thực hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN là vấn đề thực tiễn và lí luận mới ở Việt Nam hiện nay. Về mặt nhận thức cần
thấy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là “sản
phẩm” của sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế phát triển theo định hướng XHCN; nếu
không có sự phân công, phối hợp tốt vai trò của các thành phần kinh tế thì cũng không có
đựơc vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
Vai trò của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
đwocj thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
-Kinh tế nhà nước là cơ sở vật chất cho việc thực hiện chức năng kinh tế của nhà
nước; là công cụ để hướng dẫn, điều tiết các thành phần kinh tế phát triển theo định
hướng XHCN;
-Kinh tế nhà nước là công cụ hỗ trợ và phục vụ cho các thành phần kinh tế, tạo điều
kiện và thúc đẩy các thành phần kinh tế đều phát triển;
-Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế hợp tác tạo thành nền tảng của nền kinh tế quốc
dân.
Với vai trò của nền kinh tế nhà nước như trên thì việc đổi mới cơ cấu kinh tế nhà
nước cũng như quản lí nhà nước đối với kinh tế nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả và
năng lực cạnh tranh ở thị trường trong nước cũng như trênthị trường quốc tế của các chủ
thể kinh tế nhà nước đã và đang là một trong những nội dung quan trọng nhất trong chính
sách kinh tế của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay (theo Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.Chính trị quốc gia,H.1996,tr93-94)
3.Thực trạng tổ chức, quản lí kinh tế của nhà nước Cộnghòa XHCN Việt Nam hiện
nay
3.1.Khái quát về thành tựu đạt được trong việc tổ chức, quản lí kinh tế của nhà
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
Bằng chính sách, pháp luật và các công cụ quản lí vĩ mô khác, qua gần hai thập kỉ
dổi mới đất nước, Nhà nước ta thực sự đã đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển
đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
tạo ra những chuyển biến to lớn về mọi mặt của đất nước.
Đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu rõ nét và đồng bộ,
trong đó tốc độ tăng trưởng khá cao ở tất cả các ngành, các lĩnh vực.Nếu tốc độ tăng
trưởng bình quân hằng năm từ 1976-1980 chỉ có 0,4% thì từ năm 1991-1999, tốc độ tăng
trưởng bình quân hằng năm là 7,7%.Nếu nhìn khái quát giai đoạn từ 1996 đến nay thì
những thành tựu phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam được thể hiện ở những điểm chủ
yếu sau:
*Nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân được duy trì
Sản xuất nông nghiệp liên tục phát triển, sản lượng lương thực bình quân đầu
người đã tăng từ 360kg năm 1995 lên trên 444kg năm 2000.Các ngành công nghiệp và
xây dựng vượt qua những khó khăn, thách thức đạt được nhiều tiến bộ với nhịp độ tăng
trưởng bình quân 13,5%/năm; giá trị các ngành dịch vụ tăng 6,8%/năm
*Cơ cấu nền kinh tế quốc dân đã có chuyển biến tích cực
Nhìn chung cơ cấu kinh tế đất nước đang được chuyển đổi theo hướng công nghiệp
háo, hiện đại hóa; cơ cấu thành phần kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng sắp xếp lại
và đổi mới kinh tế nhà nước, phát huy tiềm năng kinh tế ngoài quốc doanh, kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài. Tỉ trọng kinh tế nhà nước trong GDP: khoảng 39%, kinh tế tập
thể: 8,5%, kinh tế tư nhân: 3,3%, kinh tế cá thể : 32%, kinh tế hỗn hợp: 3,9%, kinh tế có
vốn đầu tư nứơc ngoài: 13,3%. (Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX, Nxb.Chính trị quốc gia, H,tr.229)
*Các cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân được đảm bảo
Các cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân được đảm bảo như cân đối giữa tích
lũy và tiêu dùng, trong đó tiỉệ tích lũy để phát triển tăng; cân đối tài chính-tiền tệ. Chính
sách của Nhà nước đã tạo môi trường thuận lợi cho việc huy động các nguồn vốn phát
triển, nhất là nguồn vốn trong nước.Năng lực của các ngành sản xuất, dịch vụ và kết cấu
hạ tầng kinh tế-xã hội được nâng lên rõ rệt.
*Kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển
Nhờ có những đổi mới trong những chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước, đặc
biệt là Luật đầu tư nước ngoài tại Việ Nam được bổ sung, sửa đổi ngày càng thông
thoáng hơn; Luạt thương mại đuợc ban hành và có hiệu lực mà hoạt động xuất nhập khẩu
những năm qua được đánh giá là phát triển khá, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp
tục tăng góp phần tích cực vào phát triển kinh tế-xã hội của đất nước; vôốnhỗ trợ phát
triêểnchính thức (ODA) tiếp tục tăng góp phần phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội.
Đồng thời các doanh nghiệp VIệt Nam cũng đang từng bước mở rộng hoạt động đầu tư
ra nước ngoài
*Cơ chế quản lí nền kinh tế thị trường định hướng XHCN được xác lập, tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước đã được đổi mới
Các chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Nhaànước
đang dần được thể chế hóa bằng các đạo luật như Luật doanh nghiệp, Luật ngân hàng và
các tổ chức tín dụng, Luật đất đai(sửa đổi), Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam(sửa
đổi), Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Bộ luật lao động, Luật kinh doanh bảo hiểm,
Luật khoa học và công nghệ … Nhiều loại thị trường hàng hóa dịch vụ như thị trường
vốn, tiền tệ, tài chính, lao động, bất động sản, khoa học và công nghệ đã được thừa nhận
và bước đầu được tạo lập khuôn khổ pháp lí. Cơ chế quản lí kinh tế vĩ mô của nhà nước
đã được định hình; hành lang pháp lí cho hoạt động đầu tư, kinh doanh và các hoạt động
của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế dã đựoc xác lập. Các thủ tục hành chínhđã giảm
bớt, tổ chức và cơ chế hoạt động của bộ máy nhà nước đã được đổi mới một bước quan
trọng theo các yêu cầu của việc đảm bảo cho quyền tự do kinh doanh. Chính sách chủ
động hội nhập với nền kinh tế quốc tế và khu vực đang được tăng cường trên cơ sở phát
huy năng lực của nền kinh tế đất nước.
Đánh giá tình hình chung sau 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế-xã hội 1991-2000, Đảng cộng sản Việt Nam nêu rõ Việt Nam đã đạt được những
thành tựu to lớn và rất quan trọng, đó là tổng sản phẩm trong nước năm 2000 tăng gấp
đôi so với năm 1990. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều. Nền
kinh tế từ tình trạng hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng nay sản xuất đã đáp ứng được các
nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế .
Đặc biệt là nhà nước đã kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản lí tập trung quan liêu bao
cấp, chuyển đổi sang cơ chế thị trường định hướng XHCN; cơ cấu nền kinh tế quốc dân
từ chỗ chủ yếu có hai thành phần là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể nay đã huyển
sang nền kinh tế với cơ cấu nhiều thành phần trong đó nền kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo.
Đời sống nhân dân những năm qua được cải thiện, đất nước đã ra khỏi khủng
hoaảng kinh tế-xã hội, vượt qua được cơn chấn động chính trị và sự hẫng hụt về thị
trường do những biến động ở Liên Xô và các nước Đông Âu gây ra; phá được thế bị bao
vây, cấm vận, mở rộng được quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
không để bị cuốn sâu vào cuộc khủng hoảng tài chính-kinh tế ở một số nước Châu Á mà
hậu quả của nó đối với Việt Nam cũng khá nặng nề, tình hình chính trị-xã hội cơ bản ổn
định, quốc phòng, an ninh được tăng cường.
3.2.Những tồn tại và bất cập trong tổ chức, quản lí kinh tế của Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam
Mỗi bước phát triển kinh tế đều thể hiện mặt thành công và những tồn tại, bất cập
trong việc thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước. Nhìn chung, những tồn tại và bất
cập trong hoạt động quản lí kinh tế của Nhà nước hiên nay thể hiện trên những điểm chủ
yếu sau:
*Về hệ thống pháp luật và các công cụ quản lí vĩ mô khác của Nhà nước
Biểu hiện chung là chính sách đối với các thành phần kinh tế của Nhà nước hiện
nay chưa thật sự đồng bộ và nhất quán. Trong thực tế từ các nguyên tắc hiến pháp cho
đến các đạo luật, các văn bản duới luật và hoạt động thực thi chính sách hàng ngày của
các cơ quan và cán bộ công chức nhà nước… là cả chặng đường dài mà ở đó có thể có sự
khúc xạ, biến tướng so với các chủ trương, chính sách lớn. Chẳng hạn, giá dịch vụ các
loại, giá thuê đất, chế độ tín dụng khác nhau giữa các loại hình doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đến nay, các yếu tố của
kinh tế thị trường chưa được hình thành đồng bộ, môi trường hợp tác, cạnh tranh bình
đẳng chưa đượctạo lập đầy đủ. Trong chính sách, thể chế quản lí của Nhà nước còn tồn
tại những hình thức bao cấp, vẫn mang tính chất “xin-cho” gắn với thủ tục phiền hà,
thiếu công khai nhưng lại có nhiều mặt buông lỏng quản lí, không giữ được trật tự, kỉ
cương (Báo cáo của Chính phủ tại kì họp Quốc hội khóa X, 2000)
Từ năm 2000, Việt Nam đã khắc phục đượ tình trạng suy giảm nhuưg nhìn chung,
cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lao động của Việt Nam chưa có sự chuyển biến rõ rệt.
Lao động trong nông nghiệp chiếm 67%; xuất khẩu chủ yếu là hàng nguêyn liệu thô hoặc
hàng gia công, đời sống kinh tế-xã hội còn nhiều vấn đề bức xúc, tình trạng phân hóa
giàu nghèo, chênh lệch thu nhập và mức sống giữa thành thị và nông thôn còn cao..
(theo “Kinh tế Việt Nam trong quá trình cải cách”,Cải cách kinh tế, tài chính Việt Nam&
Trung Quốc và thành tựu và triển vọng, Nxb. Tài chính,tác giả Nguyễn Công Nghiệp, H,
tr.14)
Trong gần 20 năm đổi mới đất nước, bên cạnh những kết quả đã đạt được, về xây
dựng hệ thống pháp luật cũng như hoạt động thi hành pháp luật và giáo dục nâng cao ý
thức pháp luật trong các tầng lớp nhân dân còn nhiều vấn đề cần phải khắc phục để phát
triển kinh tế-xã hội theo chiều sâu của sự nghiệp đổi mới đất nước. So với nhu cầu của
đất nước trong sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội hiên nay thì có thể thấy hệ thống pháp
luật còn những khuyết điểm như sau :