Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Cuộc vận động và làm theo tấm gương đạo đước hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.84 KB, 30 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
----------

BÀI TIỂU
LUẬN
CUỘC VẬN ĐỘNG VÀ LÀM
THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO
ĐƯỚC HỒ CHÍ MINH

1

1


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

2

Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.

2

1.1 Khái quát đạo đức Hồ Chí Minh

2

1.2 Quan điểm đạo đức cơ bản của chủ tịch Hồ Chí Minh

5



1.2.1 Vai trị, vị trí của đạo đức

5

1.2.2 Vai trị, vị trí đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh

5

1.3 Phạm vi bao quát của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

7

Chương 2: Nội dung đạo đức Hồ Chí Minh

9

2.1 Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới 9
2.1.1 Trung với nước, hiếu với dân

9

2.1.2 Thương yêu con người

11

2.1.3 Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung

11


2.1.4. Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư

12

2.2 Những ngun tắc xây dựng đạo đức mới

14

2.1.1 Nói đi đơi với làm, phải nêu gương về đạo đức

14

2.2.2 Xây đi đôi với chống

16

2.2.3 Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời

19

Chương 3: Nêu ý nghĩa, đánh giá

20

3.1 Ý nghĩa

21

3.2 Đánh giá


22

KẾT LUẬN

26

LỜI MỞ ĐẦU
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi trọng, quan tâm xây dựng đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, với nội dung cốt lõi là trung với nước, hiếu
2


với dân; yêu thương con người; cẩn, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư; tinh thần quốc
tế trong sáng; nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức; xây đi đôi với chống; tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức suốt đời. Bài viết phân tích những nội dung cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, khẳng định những giá trị đặc sắc, mang
tính lịch sử trường tồn, những bài học thời sự đối với việc tiếp tục học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản tư tưởng tinh thần vô cùng quý báu cho
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong đó có tư tưởng về đạo đức cách mạng, giáo
dục, bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Tiếp biến giá trị
đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam, kế thừa văn hoá đạo đức phương Đông,
tinh hoa đạo đức nhân loại, trực tiếp là tư tưởng, tấm gương đạo đức của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin; với tư duy độc lập và sáng tạo, xuất phát từ thực tiễn Việt
Nam, trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh đã xác lập, tuyên truyền, giáo dục, xây dựng và thực hiện nền đạo đức cách
mạng cho mọi người, Việt Nam học tập, rèn luyện, noi theo.

Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.
1.1 Khái quát đạo đức Hồ Chí Minh

Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của người cộng sản mẫu mực, kiên định trên lập
trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước với
chủ nghĩa quốc tế chân chính của giai cấp cơng nhân. Đó là đạo đức của người chiến sĩ
suốt đời đấu tranh, dâng hiến cả cuộc đời và sự nghiệp của mình cho lý tưởng và mục
tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con
người. Do đó, đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, đạo đức hành động.
Đạo đức Hồ Chí Minh là cả một hệ thống lý thuyết, tư tưởng phong phú và tinh tế, nổi
bật các đức tính, chuẩn mực “cần, kiệm, liêm, chính” - bốn đức tính mà thiếu một đức
thì khơng thành người. Đó là u cầu ứng xử chí cơng vơ tư, là bản lĩnh biết qn
3


mình, biết vượt qua những vướng bận, toan tính cá nhân để vì người chứ khơng vì
mình, vị tha chứ không vị kỷ. Bản lĩnh này là sức mạnh bền bỉ để đánh bại chủ nghĩa
cá nhân, chiến thắng giặc nội xâm, suốt đời tu dưỡng đạo đức cách mạng, coi phục vụ
nhân dân là phục tùng một chân lý lớn nhất, là lẽ sống cao thượng nhất. Chủ tịch Hồ
Chí Minh ln tự mình nêu gương khơng chỉ thực hành mà cịn làm hết sức mình,
cơng phu rèn luyện, giáo dục đạo đức cách mạng cho lớp lớp cán bộ, đảng viên, cho
quần chúng nhân dân ở mọi tầng lớp, nghề nghiệp, lứa tuổi, giới tính. Làm cho cái
hay, cái tốt ở mỗi con người nảy nở, còn cái dở, cái xấu sẽ mất dần đi.
Có thể khẳng định Hồ Chí Minh là một nhà đạo đức học. Người không phải là nhà đạo
đức học hàn lâm, kinh viện mà là một nhà đạo đức học thực hành, thực hành một cách
biện chứng, sáng suốt, trí tuệ và nhân văn. Lý thuyết đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí
Minh chuyển hóa, lan tỏa vào thực tiễn đạo đức xã hội. Đó là một nét riêng, đặc thù, in
đậm dấu ấn, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người vẫn thường căn dặn chúng
ta nói ít làm nhiều, cái chủ yếu là hành động. Chỉ nói và viết khi cần thiết, lại phải nói
và viết ngắn gọn, giản dị sao cho quần chúng dễ hiểu, hiểu để làm, làm đúng và làm
tốt. Hơn nữa, để quần chúng noi theo, làm theo thì mỗi cán bộ, đảng viên phải gương
mẫu làm trước, đã nói thì phải làm, lời nói đi đơi với việc làm.
Đạo đức Hồ Chí Minh và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là thống nhất nhưng không

đồng nhất. Tư tưởng đạo đức là phần lý luận, là triết lý của Người. Đạo đức Hồ Chí
Minh cịn là đời sống đạo đức của bản thân Người với tư cách là một con người bình
thường giữa mn người khác, dù hết sức vĩ đại nhưng lúc nào và ở đâu, Người cũng
chỉ coi mình là một con người bình thường. Tìm hiểu nghiên cứu hoạt động thực tiễn
phong phú, đa dạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự phong phú của các mối quan hệ
giữa Người với nhân dân, với Đảng, với các địa phương, vùng, miền trong cả nước,
với bạn bè quốc tế, tình cảm yêu mến, sự kính trọng và lịng ngưỡng mộ của nhân dân
ta và nhân dân các dân tộc trên thế giới dành cho Người. Bỏ qua phương diện này
trong nghiên cứu sẽ là một thiếu hụt lớn, sẽ khơng thể hình dung được sự sâu sắc,

4


phong phú, đa dạng trong tư tưởng và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong thế
giới tinh thần, lối sống và nhân cách của Người.
Như vậy, đạo đức Hồ Chí Minh bao gồm nhiều nội dung cơ bản và tồn diện, cần
được hiểu một cách đầy đủ, đó khơng chỉ là tư tưởng mà cịn là thực tiễn đời sống đạo
đức của Người.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống những quan điểm cơ bản và tồn diện
về đạo đức, bao gồm vị trí, vai trò, nội dung; những phẩm chất đạo đức cơ bản và
những yêu cầu xây dựng nền đạo đức mới; yêu cầu rèn luyện đạo đức đối với người
cách mạng. Tư tưởng đạo đứcHồ Chí Minh trở thành tài sản tinh thần vơ giá đối với
Đảng, với nhân dân đó là bởi tấm gương đạo đức cao đẹp của Người. Tấm gương đó
được thể hiện qua hoạt động, hành vi và lối sống, qua các mối quan hệ với con người,
với công việc, trong giao tiếp, ứng xử hàng ngày. Ở đâu, lúc nào, với mọi đối tượng
khác nhau, Người cũng là hiện thân sinh động của tính nhất quán giữa nói và làm, tính
trung thực và sự khiêm tốn; tính kiên định về yêu cầu và niềm tin gắn liền với tính linh
hoạt và uyển chuyển trong phương pháp đối nhân xử thế; lòng dũng cảm, sự sáng suốt,
đức hy sinh và nghị lực phi thường vượt lên mọi khó khăn, thử thách; sự ân cần, chu
đáo, lòng khoan dung độ lượng đầy tính nhân ái, vị tha đối với mỗi con người. Đạo

đức cách mạng Hồ Chí Minh là tình người mênh mơng, nâng niu giá trị con người, là
tình nghĩa thủy chung son sắt. Suốt đời Người sống một cuộc sống đạm bạc mà tao
nhã vô cùng. Người chỉ viết và nói những lời, những chữ mộc mạc bình dị khơng màu
mè tơ vẽ nhưng đi thẳng vào lịng người. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức cốt ở
thực hành đạo đức, nêu gương đạo đức trong lao động, trong đấu tranh cho tình
thương và lẽ phải, cho cái hay, cái tốt. Đó là niềm tin vào chiến thắng của cái thiện đối
với cái ác.
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của một nhà tư tưởng lớn mang tầm vóc thời đại,
danh nhân văn hóa thế giới, cốt cách hiền triết Á Đông, tiêu biểu cho tinh hoa dân tộc.

5


Đạo đức Hồ Chí Minh đã trở thành cái vơ hạn trong lòng dân tộc Việt Nam để đi vào
đời sống nhân loại.
1.2 Quan điểm đạo đức cơ bản của chủ tịch Hồ Chí Minh
1.2.1 Vai trị, vị trí của đạo đức
Đạo đức được hiểu theo nghĩa chung nhất là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm
những nguyên tắc, chuẩn mực, định hướng giá trị được xã hội thừa nhận, có tác dụng
chi phối, điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với người khác và toàn xã
hội. Đạo đức được cấu thành từ 3 yếu tố cơ bản là ý thức đạo đức, hành vi đạo đức
và quan hệ đạo đức. Vai trò của đạo đức được thể hiện trong chức năng của đạo đức.
Xét về chức năng, đạo đức có 3 chức năng chính là phản ánh quan hệ lợi ích giữa cá
nhân với cá nhân khác, với tập thể và với xã hội, chức năng giáo dục lẫn nhau giữa
các cá nhân và cá nhân, cá nhân và công động, chức năng điều chỉnh. Mối quan hệ
giữa đạo đức và trình độ học vấn, trình độ nhận thức trong mỗi cá nhân khơng hẳn là
quan hệ tỷ lệ thuận. Người có trình độ học vấn cao chưa hẳn đã có ý thức và hành vi
đạo đức cao. Tuy nhiên, để có được nhân cách cao thượng thì phải có đạo đức tốt và
năng lực hiểu biết nất định. Từ những chức năng cơ bản trên, có thể thấy rằng đạo
đức đóng vai trị quan trọng đối với đời sống xã hội.

1.2.2 Vai trò, vị trí đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Ngay từ những năm tháng đầu hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo
đức chính là gốc của con người cách mạng. Điều này không chỉ thể hiện trong suốt
cuộc đời thực hành đạo đức cách mạng mẫu mực của Người mà còn được nhận thấy
rất rõ qua các tác phẩm Người để lại cho chúng ta. Trong tác phẩm “Đường Kách
Mệnh” in lần đầu tại Quảng Châu năm 1927, Người đã nêu lên 23 điểm về “Tư cách
người cách mạng”, trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn về đạo đức được phân tách rõ
ràng trong ba mối quan hệ “tự mình”, “đối với người” và đối với công việc (Tư cách
một người cách mệnh, 2007).
Với mỗi người, Bác so sánh đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như
gốc của cây, như ngọn nguồn của sơng suối. Bác viết “Cũng như sơng thì có nguồn
6


mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây
héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân” (Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 16, 2002, pp. 252-253).
Khi đánh giá vai trò của đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của
người cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối.Theo
Người, đạo đức cách mạng giúp con người vững vàng trong mọi thử thách vì đạo đức
là nền tảng tạo ra sức mạnh: “có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất
bại khơng rụt rè lùi bước”, “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần gian
khổ, chất phác, khiêm tốn”, mới “lo trước thiên hạ, vui sao thiên hạ”; “lo hoàn thành
nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan
liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”.
Đạo đức là gốc, là nền tảng và liên quan tới Đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền lãnh
đạo toàn xã hội, lãnh đạo nhà nước. Nếu cán bộ, đảng viên của Đảng khơng tu dưỡng
về đạo đức cách mạng thì mặt trái của quyền lực có thể làm tha hố con người. Vì vậy,
Hồ Chí Minh u cầu Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Người thường nhắc lại lời
của Lê-nin: Đảng Cộng Sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc

và thời đại. Người nói cán bộ, đảng viên muốn cho dân tin, dân u, dân phục thì
khơng phải “viết lên trán chữ cộng sản là được quần chúng yêu mến. Quần chóng chỉ
q mến những người có tư cách đạo đức”.
Vai trị của đạo đức cách mạng còn thể hiện ở chỗ đó là thước đo lịng cao thượng của
con người. Theo quan điểm của Hồ Chí minh, mỗi người có cơng việc, tài năng, vị trí
khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ nhưng ai giữ được đạo đức cách
mạng là người cao thượng.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, không phải một chiều phụ thuộc vào tồn tại xã
hội, vào những điều kiện vật chất kinh tế. Nó có khả năng tác động tích cực trở lại, cải
biến tồn tại xã hội. Giá trị đạo đức tinh thần một khi được con người tiếp nhận sẽ biến
thành một sức mạnh vật chất.
Chính vì vậy mà Người luôn luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức
cho cán bộ, Đảng viên. Người yêu cầu mỗi cán bộ Đảng viên phải thật sự thấm nhuần
7


đạo đức cách mạng, Đảng phải quan tâm chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho
đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xă
hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Ngoài ra, quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh khơng có nghĩa là tuyệt đối
hố mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng người có tài năng mà khơng có đạo đức
thì đó là người vơ dụng, nhưng ngược lại, người có đạo đức mà khơng có tài năng thì
trong bất kể cơng việc nào cũng sẽ gặp nhiều khó khăn. Cho nên, đức là gốc nhưng
đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
Với tư duy độc lập và sáng tạo, Hồ Chí Minh đă xuất phát từ thực tiễn Việt Nam thực
hiện một cơng việc kế thưa có chọn lọc, thâu hoá những giá trị đạo đức của quá khứ,
đề xuất những tư tưởng đạo đức mới phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam
trong thời đại mới. Hồ Chí Minh xem xét tới đạo đức trên cả hai phương diện lý luận
và thực tiễn. Về mặt lý luận, Người để lại cho chúng ta một hệ thống quan điểm sâu
sắc và toàn diện về đạo đức. Về thực tiễn, Người luôn coi thực hành đạo đức là một

mặt không thể thiếu của cán bộ, Đảng viên. Cũng như V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đào tạo
các chiến sĩ cách mạng khơng chỉ bằng chiến lược, sách lược mà cịn bằng chính tấm
gương đạo đức trong sáng của mình.
1.3 Phạm vi bao quát của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Những vấn đề đạo đức đã được Hồ Chí Minh xem xét một cách toàn diện:
- Đối với mọi đối tượng - từ cơng nhân, nơng dân đến trí thức, văn nghệ sĩ; từ các cụ
phụ lão đến phụ nữ, thanh thiếu niên nhi đồng; từ đồng bào các dân tộc đến đồng bào
các tôn giáo, các nhà tu hành... Cùng với việc đề cập đạo đức công dân, Người đặc
biệt quan tâm đến đạo đức của cán bộ, đảng viên. Có thể nói đây là nội dung chiếm
phần chủ yếu nhất trong tư tưởng đạo đức của Người.
- Trên mọi lĩnh vực hoạt động của con người - từ đời tư đến đời công, như sinh hoạt,
học tập, lao động, chiến đấu lãnh đạo, quản lý...
- Trên mọi phạm vi từ hẹp đến rộng - từ gia đình đến xã hội (làng xóm, phố phường,
một tập thể, một đơn vị, một tổ chức...), từ giai cấp đến dân tộc, từ các vùng - miền,
địa phương đến cả nước, từ quốc gia đến quốc tế.
8


- Trong cả ba mối quan hệ chủ yếu của mỗi người – đối với mình, đối với người, đối
với việc. Đối với người thì có quan hệ giữa cán bộ, đảng viên của Đảng và Nhà nước
với dân, quan hệ giữa cấp trên - cấp dưới, v.v...
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đặc biệt được mở rộng trong lĩnh vực đạo đức của cán
bộ, đảng viên, khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Hai mươi bốn năm trên cương
vị Chủ tịch nước, Người đã kiên trì giáo dục cán bộ, đảng viên về đạo đức mới, đạo
đức cách mạng. Nếu quyền lực là sức mạnh để giữ vững những thành quả cách mạng,
để tổ chức và xây dựng chế độ xã hội mới, để phát triển kinh tế và văn hóa, để biến đất
nước từ nghèo nàn, lạc hậu trở thành giàu mạnh, văn minh, thì quyền lực lại có mặt
trái của nó là có thể làm tha hóa con người nắm quyền lực, có thể đưa đến những tổn
thất lớn cho cách mạng. Người đã nhìn thấy điều này từ rất sớm, không phải chỉ ở
trong nước, mà còn ở nhiều nước, kể cả những nước xã hội chủ nghĩa khác. Nhưng

vấn đề về đạo đức mà Người đặt ra với cán bộ, đảng viên chính là nhằm ngăn chặn,
khắc phục những hiện tượng tha hóa có thể hoặc đã xảy ra, nhất là để chống lại những
khuynh hướng sai lệch về quyền lực như quan liêu, cậy thế cậy quyền, lợi dụng quyền
lực, lạm dụng quyền lực, say mê quyền lực, tham quyền cố vị, v.v. , những tệ nạn có
thể trở thành nguy cơ làm sụp đổ sự nghiệp của một người, thậm chí của cả một Đảng
Cộng sản.
Trong bài viết đăng báo Nhân Dân dịp kỷ niệm lần thứ 39 ngày thành lập Đảng (3-21969), Hồ Chí Minh đã tập trung vào vấn đề đạo đức của cán bộ, đảng viên với tiêu
đề Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân . Trong bản Di chúc để
lại cho toàn Đảng, toàn dân trước lúc đi xa, trước hết Người nói về Đảng, và vấn đề
đạo đức đã được đặc biệt nhấn mạnh: "Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên
và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính,
chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh
đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân".
Bốn lần nhấn mạnh chữ thật, và thật sự chỉ trong một đoạn ngắn nói về Đảng, chắc
chắn Người đã cân nhắc rất nhiều. Thật có nghĩa là đối lập với giả, với dối. Thật sự là
đối lập với qua loa, nửa vời, không đến nơi đến chốn. Thực hiện cho được một chữ
9


thật hay thật sự có khi suốt đời chưa chắc đã làm nổi, trong khi cái giả, cái dối, cái nửa
vời... lại vẫn thường trở đi trở lại hàng ngày. Điều căn dặn tâm huyết ấy của Người
mãi mãi có ý nghĩa đối với việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên, đối
với công tác xây dựng Đảng, Đảng phải là đạo đức, văn minh mới có thể lãnh đạo cả
dân tộc, xây dựng được một xã hội văn minh, đạo đức.
Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, những phẩm chất đạo đức được nêu ra là phù
hợp với từng đối tượng, hơn nữa Người nhấn mạnh phẩm chất này hay phẩm chất
khác là nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ nhất định.
Từ đó Người đã khái quát thành những phẩm chất chung, cơ bản nhất của con người
Việt Nam trong thời đại mới. Nói cách khác, đó là những chuẩn mực chung nhất của
nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng Việt Nam.


Chương 2: Nội dung đạo đức Hồ Chí Minh

2.1 Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới
2.1.1 Trung với nước, hiếu với dân
Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với
nhân dân, với dân tộc là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức quan
trọng nhất, bao trùm nhất.
Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt
Nam và phương Đơng, xong có nội dung hạn hẹp. “Trung với vua, hiếu với cha mẹ”,
phản ánh bổn phận của dân đối với vua, con đối với cha mẹ. Hồ Chí Minh đã vận dụng
và đưa vào nội dung mới. Hồ Chí Minh đã kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống
và vượt trội. Trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước.
Nước là của dân, còn nhân dân là chủ của đất nước. “Bao nhiêu quyền hạn đều của
dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân”. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng
hàng đầu.
10


Trung với nước, hiếu với dân là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của
Tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ
thù nào cũng đánh thắng. Bác vừa kêu gọi hành động vừa định hướng chính trị- đạo
đức cho mỗi người Việt Nam.
Đối với cán bộ đảng viên phải suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, đó
là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Phải tuyệt đối trung thàmh với Đảng, với
dân, phải tận trung, tận hiếu, thì mới xứng đáng vừa là đầy tớ trung thành, vừa là
người lãnh đạo của dân; dân là đối tượng để phục vụ hết lòng. Phải nắm vững dân
tình, hiểu rõ dân tâm, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí để dân hiểu được quyền và
trách nhiệm của người chủ đất nước.
Nội dung chủ yếu của trung với nước là:

- Đặt lợi ích của đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết.
- Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu của cách mạng.
- Thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Nội dung của hiếu với dân là:
- Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân.
- Tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức vận động nhân dân cùng thực hiện tốt
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
- Hiếu với dân là Đảng, Chính phủ, cán bộ nhà nước phải là "đầy tớ trung thành của
dân"; phải "tận trung với nước, tận hiếu với dân".
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trung với nước, hiếu với dân phải gắn bó với dân, gần
dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm
cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ trách nhiệm và quyền lợi của
người làm chủ đất nước
11


2.1.2 Thương yêu con người
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp truyền thống nhân nghĩa
với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều
thế kỷ, qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình u thương con người
là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Tình yêu rộng lớn dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp
bức, bóc lột. Hồ Chí Minh chỉ ham muốn cho đất nước được hoàn toàn độc lập, dân
được tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Chỉ có tình
yêu thương con người bao la đến như vậy mới có cách mạng, mới nói đến CNXH và
CNCS.
Nghiêm khắc với mình, độ lượng với người khác. Phải có tình nhân ái với cả
những ai có sai lầm, đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, đánh thức những gì tốt đẹp trong
mỗi con người. Bác căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương u lẫn nhau, trên

ngun tắc tự phê bình và phê bình chân thành.
Tình yêu thương con người cịn là tình u bạn bè, đồng chí, có thái độ tơn
trọng con người, điều này có ý nghĩa đối với người lãnh đạo
Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, sống cao đẹp hơn.
Yêu thương con người phải thực hiện tự phê bình, phê bình chân thành, giúp nhau
sửa chữa khuyết điểm.
2.1.3 Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung
Đó là tinh thần quốc tế vô sản, bốn phương vô sản đều là anh em. Đó là tinh
thần đồn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước. Đó là tinh
thần đồn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì
hồ bình, cơng lý và tiến bộ xã hội. Sự đoàn kết là nhằm vào mục tiêu lớn của thời đại
hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội

12


Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước chân chính
sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
2.1.4. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suất
cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa
dẫm. Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của con
người.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân
dân, của đất nước, của bản thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to; “Khơng xa sỉ,
khơng hoang phí, khơng bừa bãi,”
Liêm là “ln ln tơn trọng giữ gìn của cơng và của dân; khơng xâm phạm
một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân”. Phải trong sạch, không tham lam
địa vị, tiền của, danh tiếng, sung sướng. Không tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham là
ham học, ham làm, ham tiến bộ. Hành vi trái với chữ liêm là: cậy quyền thế mà đục

khoét, ăn của dân, hoặc trộm của cơng làm của riêng. Dìm người giỏi, để giữ địa vị và
danh tiếng của mình là trộm vị. Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, khơng dám
làm là tham uý lạo. Cụ Khổng nói: người mà khơng liêm, khơng bằng súc vật. Cụ
Mạnh nói: ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy.
Chính là khơng tà, thẳng thắn, đứng đắn. Đối với mình, với người, với việc.
Đối với mình, khơng tự cao, tự đại, ln chịu khó học tập cầu tiến bộ, ln kiểm
điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở.
Đối với người, không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới; ln giữ thái
độ chân thành, khiêm tốn, đồn kết, khơng dối trá, lừa lọc.
Đối với việc, để việc công lên trên việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến chốn,
khơng ngại khó, nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân cho nước.
Cần, kiệm, liêm, chính cần thiết đối với tất cả mọi người. Hồ Chí Minh viết:
13


“Trờicó bốn mùa: Xn, Hạ, Thu, Đơng
Đất có bốn phương: Đơng, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính
Thiếu một mùa thì khơng thành trời
Thiếu một phương thì khơng thành đất
Thiếu một đức thì khơng thành người”.
Cần, kiệm, liêm, chính rất cần thiết đối với người cán bộ, đảng viên. Nếu đảng
viên mắc sai lầm thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, nhiệm vụ của cách mạng. Cần,
kiệm, liêm, chính cịn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự
văn minh của dân tộc. “Nó” là cái cần để “làm việc, làm người, làm cán bộ, để phụng
sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại”.
Chí cơng vơ tư, là làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì
Đảng, vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lợi ích của cách mạng. Thực hành chí công vô tư là
quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. “phải lo trước thiên hạ, vui
sau thiên hạ (tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc). Chủ nghĩa cá

nhân chỉ biết đến mình, muốn “mọi người vì mình”. Nó là giặc nội xâm, cịn nguy
hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Hồ Chí Minh viết: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con
người, ngày hơm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay vẫn được
mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lịng dạ khơng trong sáng nữa, nếu sa vào chủ
nghĩa cá nhân”. Hồ Chí Minh cũng phân biệt lợi ích cá nhân và chủ nghĩa cá nhân. Chí
cơng vơ tư là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Bồi dưỡng phẩm
chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư là để vững vàng qua mọi thử
thách: “Giàu sang khơng quyến rũ, nghèo khó khơng thể chuyển lay, uy vũ không thể
khuất phục”.

14


2.2 Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
Để xây dựng một nền đạo đức mới, Hồ Chí Minh đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản
để định hướng cho sự lãnh đạo của Đảng, cũng như cho việc rèn luyện của mỗi người:
2.1.1 Nói đi đơi với làm, phải nêu gương về đạo đức
- Điều này đã được Hồ Chí Minh nói ngay trong Đường Kách mệnh, khi đề cập
tư cách của một người cánh mệnh. Trong suốt cuộc đời mình, Người đã giáo
dục mọi người và chính bản thân Người đã thực hiện điều đó một cách nghiêm
túc và đầy đủ nhất. Hơn nữa, chúng ta còn thấy Người nói ít nhưng làm nhiều,
có những vấn đề đạo đức Người làm mà khơng nói. Phải đi sâu vào hành vi đạo
đức của Người, chúng ta mới khám phá ra được những tầng bản chất sâu xa của
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
- Đối với mỗi người, lời nói phải đi đơi với việc làm thì mới đem lại hiệu quả
thiết thực cho chính bản thân mình và có tác dụng đối với người khác. Nếu nói
nhiều làm ít, nói mà khơng làm, hơn nữa nói một đằng, làm một nẻo thì chỉ đem
lại những hậu quả phản tác dụng. "Hãy làm theo tơi nói, đừng làm theo tơi làm",
thói đạo đức giả ấy là đặc trưng đạo đức của các giai cấp bóc lột đã từng tồn tại
trong lịch sử của xã hội loài người, trong mỗi quốc gia dân tộc, nó hồn tồn xa

lạ với đạo đức cách mạng, với nền đạo đức mới mà chúng ta cần xây dựng.
Chúng ta phải phấn đấu để làm sao trong xã hội ta khơng cịn những kẻ đạo đức
giả, càng không cho phép những kẻ đạo đức giả vẫn đi dạy dỗ người khác về
đạo đức Lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chủ nghĩa xã hội một phần
quan trọng phụ thuộc vào vấn đề này.
- Từ đó, chúng ta cũng thấy rằng khơng ở lĩnh vực nào mà vấn đề nêu gương lại
được đặt ra như trong lĩnh vực đạo đức. Trong gia đình thì đó là tấm gương của
bố mẹ đối với con cái, của anh chị đối với những người em; trong nhà trường
thì đó là tấm gương của thầy cơ giáo đối với học sinh; trong tổ chức, tập thể,
Đảng, Nhà nước là tấm gương của những người phụ trách, lãnh đạo, của cấp lên
đối với cấp dưới, trong xã hội thì đó là tấm gương của người này đối với người
khác, những gương "người tốt việc tốt" mà Hồ Chí Minh đã phát hiện để mọi
15


người học tập noi theo. Một trăm bài diễn văn hay khơng bằng một tấm gương
sống, điều mà Hồ Chí Minh nói về Lênin, đã đặt ra cho việc xây dựng đạo đức
mới một nguyên tắc rất cơ bản là sự nêu gương về đạo đức. Đó cũng là điều
chúng ta thấy ở Hồ Chí Minh - một tấm gương đạo đức trong sáng tuyệt vời của
một cuộc đời trọn vẹn.
- Trong xã hội, tấm gương của các thế hệ trước đối với các thế hệ sau là đặc biệt
quan trọng. Mỗi thế hệ đều có trách nhiệm của mình, nhưng thế hệ trước bao
giờ cũng có trách nhiệm rất nặng nề đối với thế hệ sau trong việc giáo dưỡng,
nhất là trong việc bồi dưỡng về đạo đức. Đương nhiên trong cuộc sống không
phải bao giờ cũng chỉ diễn ra một chiều ảnh hưởng, tác động như vậy, do đó Hồ
Chí Minh cũng đã nói đến việc người già có thể học tập người trẻ để khơng
ngừng hồn thiện đạo đức của mình.
- Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đã nêu ra một luận điểm quan trọng:
"Trước mặt quần chúng, khơng phải ta có viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta
được họ yêu mến.

- Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn
nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước". Luận điểm ấy đã
khẳng định rất rõ vấn đề nêu gương có tầm quan trọng đặc biệt trong đời sống
đạo đức, nhất là đối với trách nhiệm của cán bộ, đảng viên.
- Tấm gương đạo đức của Bác Hồ là tấm gương chung cho cả dân tộc, cho các thế
hệ người Việt Nam mãi mãi về sau. Nhưng còn nhiều tấm gương của các anh
hùng, chiến sĩ thi đua, những tấm gương của những người tiêu biểu trong từng
ngành, từng tập thể, những tấm gương "người tốt việc tốt" rất gần gũi trong đời
thường, có ở mọi nơi mọi lúc mà chúng ta không thể coi thường. Về vấn đề này,
Hồ Chí Minh đã nói: "Từng giọt nước nhỏ thấm vào lòng đất, chảy về một
hướng mới thành suối, thành sông. Biết bao nhiêu giọt nước nhỏ hợp lại mới
thành biển cả. Một pho tượng hay một lâu đài cũng phải có cái nền rất vững
chắc mới đứng vững được. Nhưng người ta dễ nhìn thấy pho tượng và lâu dài
mà không chú ý đến cái nền. Như thế chỉ thấy cái ngọn mà quên mất cái gốc.
16


- Người tốt, việc tốt nhiều lắm. Ở đâu cũng có. Ngành, giới nào, địa phương nào,
lứa tuổi nào cũng có".
=> Như vậy, những tấm gương đạo đức đã được hiểu theo một nghĩa rộng. Có những
tấm gương chung và riêng, lớn và nhỏ, xa và gần. Một nền đạo đức mới chỉ được xây
dựng trên một cái nền rộng lớn, vững chắc, khi những phẩm chất đạo đức, những
chuẩn mực đạo đức đã trở thành hành vi đạo đức ngày càng phổ biến trong toàn xã
hội, mà những tấm gương đạo đức của những người tiêu biểu, những người tất việc tốt
có ý nghĩa thúc đẩy cho q trình đó.
2.2.2 Xây đi đơi với chống
- Muốn xây dựng đạo đức mới, muốn bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức cách
mạng cho hàng triệu, hàng triệu con người - cán bộ, đảng viên, các công dân
trong các giai tầng khác nhau, thì cùng với việc xây dựng, bồi dưỡng những
phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết là phải chống những biểu hiện sai trái xấu xa, trái

với những yêu cầu của đạo đức mới, những hiện tượng vẫn thường gọi là tệ nạn,
tiêu cực, thối hóa biến chất. Trong đời sống hàng ngày, những hiện tượng tốt xấu, đúng - sai, cái đạo đức và cái vô đạo đức vẫn thường đan xen nhau, đối
chọi nhau, thông qua hành vi của những con người khác nhau. Hơn nữa những
đan xen và đối chọi ấy còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi người. Chính vì vậy
việc xây và chống trong lĩnh vực đạo đức hồn tồn khơng đơn giản. Xây phải
đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây.
- Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục
những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới từ trong gia đình đến nhà
trường và ngoài xã hội, nhất là trong những tập thể - nơi mà phần lớn thời gian
cuộc đời mỗi người gắn bó bằng hoạt động thực tiễn của mình. Những phẩm
chất chung nhất, cơ bản nhất lại phải được cụ thể hóa cho sát hợp với từng giai
tầng, từng lớp đối tượng khác nhau. Đó là điều Hồ Chí Minh đã làm trong việc
giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên, cho công nhân, nông dân, phụ nữ, trí
thức, văn nghệ sĩ. cho thiếu niên nhi đồng, cho bộ đội, công an, các tướng lĩnh,
v.v...
17


- Vấn đề quan trọng trong việc giáo dục đạo đức là phải khơi dậy ý thức đạo đức
lành mạnh ở mọi người, để mọi người tự giác nhận thức được trách nhiệm đạo
đức của mình và như Hồ Chí Minh đã nói, cảm nhận thấy sâu sắc việc trau dồi
đạo đức cách mạng là việc làm "sung sướng vẻ vang nhất trên đời này". Tiếp
nhận sự giáo dục đạo đức là vấn đề nhất thiết không thể thiếu được, nhưng sự tự
giáo dục, tự trau dồi đạo đức ở mỗi người còn quan trọng hơn nhiều. Phải chăng
sức mạnh của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là khơi dậy sự tự
giác của mỗi người nhằm đấu tranh tự loại bỏ cái thấp hèn để vươn tới cái cao
đẹp, loại bỏ cái ác; cái vô đạo đức để vươn tới cái thiện, cái đạo đức. Chắc chắn
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản tương lai càng phải như vậy, và đó cũng
chính là điều mà Hồ Chí Minh nói về niềm vui của việc trau dồi đạo đức phải
trở thành phổ biến trong xã hội.

- Trong khi xây dựng, bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức mới, phải đồng thời
chống lại cái xấu, cái sai, cái vô đạo đức vẫn thường diễn ra. Điều quan trọng là
phải phát hiện sớm, hướng mọi người vào cuộc đấu tranh cho sự trong sạch lành
mạnh về đạo đức. Hơn nữa cịn phải thấy trước những gì có thể xẩy ra để đề
phòng, ngăn chặn.
- Ngay trong thời kỳ 1925 - 1927, khi bồi dưỡng những lớp cán bộ cách mạng
đầu tiên theo đường lối cách mạng mới, Nguyễn Ái Quốc đã nhắc nhở mọi
người không được hiếu danh, kiêu ngạo, phải ít lịng ham muốn về vật chất. Chỉ
hai tháng sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong thư gửi Ủy ban nhân dân
các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Người đã phát hiện thấy nhiều loại lỗi lầm rất nặng
nề của nhiều cán bộ, đảng viên: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu
ngạo. Đến tháng 3 - 1947, trong thư gửi các đồng chí Bắc Bộ, Người chỉ ra hàng
chục thứ khuyết điểm cần phải tẩy sạch, đó là: địa phương chủ nghĩa, bè phái,
quân phiệt, quan liêu, hách dịch, hoạnh họe với dân, coi thường cấp trên, lấn áp
cấp dưới, hẹp hòi, ham chuộng hình thức, làm việc lối bàn giấy vơ kỷ luật - kỷ
luật khơng nghiêm, ích kỷ, hủ hóa, tranh giành địa vị, chỉ lo ăn ngon mặc đẹp,
chiếm của công làm của tư, lợi dụng địa vị công tác để buôn bán phát tài v.v.
18


Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc , viết tháng 101947 , Người lại vạch ra
nhiều khuyết điểm sai lầm cụ thể hơn như bệnh lười biếng, lười học, lười suy
nghĩ; bệnh thích người khác tâng bốc, khen ngợi mình; ưa sai khiến người khác,
làm thầy người khác; bệnh tham lam, sinh hoạt xa hoa, tiêu xài bừa bãi, xoay sở
của đồng bào, buôn lậu, bệnh hữu danh vô thực, bệnh cận thị, bệnh ba hoa nói
sng, bệnh "cá nhân" với không biết bao nhiêu biểu hiện rất tệ hại. Đến năm
1952, Người đã quy tụ những tệ nạn cần phải chống vào ba loại chính là tham ơ,
lãng phí, quan liêu. Người coi những tệ nạn đó là tội ác, là kẻ thù khá nguy
hiểm của nhân dân, là bạn đồng minh của thực dân, phong kiến, là thứ "giặc nội
xâm", "giặc ở trong lòng", phá từ trong phá ra. Người đã chỉ rõ tội lỗi của

những kẻ tham ơ, lãng phí, quan liêu cũng nặng như tội lỗi "việt gian, mật
thám".
- Phải kiên quyết chống lại những tệ nạn đó, vừa bằng giáo dục, vừa bằng xử phạt
với những mức độ nặng nhẹ khác nhau.
- Tuy nhiên, trong bài nói về Thực hành tiết kiệm, chống tham ơ, lãng phí. chơng
bệnh quan liêu lúc đó, có lẽ đây là lần duy nhất, Người đã trích dẫn khá dài
những ý kiến rất quyết liệt của Lênin về vấn đề này: "Cần phải nêu những đồng
chí đã ăn hối lộ ra để cho dư luận quở trách và cần phải đuổi họ ra khỏi Đảng...
Phải lập tức đề nghị một đạo luật để trừng trị những vụ hối lộ (ăn hối lộ, tặng
hối lộ, và những cách hối lộ khác), ít nhất cũng phải phạt 10 năm giam cầm và
l0 năm khổ sai". Trước việc Tòa án nhân dân Mạc Tư Khoa xử nhẹ một vụ ăn
hối lộ, Lênin khơng bằng lịng và viết: "Khơng xử bắn lũ ăn của đút lót, mà xử
một cách pha trị, mềm mỏng nhẹ nhàng như vậy, đó là một điều xấu hổ cho
những đảng viên cộng sản, cho những người cách mạng".
- Đến năm 1958, Người đã vạch rõ nguồn gốc của mọi thứ tệ nạn, đó là chủ nghĩa
cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ tệ nạn. Muốn xây dựng đạo đức mới,
chung quy lại là phải chống cho được chủ nghĩa cá nhân. Một bài báo gần cuối
cùng mà Người để lại là bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa
cá nhân, được công bố vào ngày 3 - 2 - 1969, nhân kỷ niệm lần thứ 39 ngày
19


thành lập Đảng đã mang ý nghĩa xây phải đi đôi với chống - muốn nâng cao đạo
đức cách mạng thì phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
- Để xây và chống có kết quả, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi, Hồ
Chí Minh đã phát động nhiều phong trào như vậy: Năm 1952, đó là phong trào
thi đua thực hành tiết kiệm, chống tham ơ, lãng phí - quan liêu; năm 1963, đó là
cuộc vận động "nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế - tài
chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ơ - lãng phí - quan liêu", gọi tắt là cuộc vận
động "3 xây, 3 chống". Có phong trào, có cuộc vận động chung cho tồn Đảng,

tồn dân; có phong trào, có cuộc vận động riêng cho từng ngành, từng giới. Qua
đó lơi cuốn mọi người vào cuộc đấu tranh nhằm xây gì, chống gì rất cụ thể, rõ
ràng, thơi thúc trách nhiệm đạo đức cá nhân, để mọi người phấn đấu tự bồi
dưỡng và nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng. Thực tiễn chứng minh,
những cuộc vận động đó đã mang lại kết quả rất lớn.
2.2.3 Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
- Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ: mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu
dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày, đấy cũng là cơng việc phải làm
kiên trì bền bỉ suốt đời, khơng người nào có thể chủ quan tự mãn. Người thường
nhắc lại luận điểm "chính tâm, tu thân...", của Khổng Tử, từ đó rút ra ý nghĩa
tích cực để vận dụng vào việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng của mỗi
người. Người cũng thường nêu lại tấm gương của người xưa, mỗi tối đều tự
kiểm điểm để bỏ đỗ đen, đỗ trắng vào hai cái lọ, để cứ nhìn vào đó có thể biết
mình tốt xấu ra sao. Người đưa ra lời khuyên rất dễ hiểu: "Đạo đức cách mạng
khơng phải trên trời sa xuống, đó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà
phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện
càng trong". Do không chú ý điều này, nên: Có những người trong lúc tranh đấu
thì hăng hái, trung thành, không sợ nguy hiểm, không sợ cực khổ, không sợ
qn địch, nghĩa là có cơng với cách mạng, song đến khi có ít quyền hạn trong
tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ơ, lãng phí, quan liêu, khơng tự
giác mà biến thành người có tội với cách mạng. Từ đó, Người đi đến một kết
20



×