§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
18
T¹p chÝ luËt häc
Ths. NguyÔn ViÖt C−êng *
ộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) có một
chương (Chương III) với 14 điều quy
định về thẩm quyền của toà án. Khác với các
văn bản pháp luật tố tụng được ban hành
trước đó, BLTTDS chia các việc thuộc thẩm
quyền của toà án thành các tranh chấp, các
yêu cầu về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động và quy định liệt
kê các tranh chấp, yêu cầu này thuộc thẩm
quyền của toà án. Việc quy định này thuận
lợi cho cơ quan, người tiến hành tố tụng,
tham gia tố tụng dễ dàng xác định được vụ
việc dân sự nào thuộc thẩm quyền của toà
án. Tuy nhiên, việc liệt kê cũng dẫn đến tình
trạng không liệt kê hết được những quan hệ
tranh chấp phát sinh trong thực tế. Do vậy,
muốn xác định tranh chấp, yêu cầu nào khác
thuộc thẩm quyền của toà án phải căn cứ vào
các quy định ở văn bản pháp luật khác có
quy định về vấn đề này.
1. Những tranh chấp, yêu cầu dân sự
thuộc thẩm quyền của toà án
Khác với quy định tại Điều 10 Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, các điều
25, 26 BLTTDS đã quy định tách những
tranh chấp, những yêu cầu về hôn nhân và
gia đình trong những điều luật khác và loại
những việc khiếu nại cơ quan hộ tịch về việc
từ chối đăng ký hoặc không chấp nhận yêu
cầu sửa đổi những điều ghi trong giấy tờ về
hộ tịch, những khiếu nại về danh sách cử tri
khỏi những tranh chấp, những yêu cầu về
dân sự. Những loại việc này sẽ được giải
quyết theo tố tụng hành chính. Điều 25
BLTTDS đã quy định cụ thể hơn về những
tranh chấp về dân sự, trong đó có những
tranh chấp mà Điều 10 Pháp lệnh thủ tục giải
quyết vụ án dân sự chưa quy định như tranh
chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch
Việt Nam.
Tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về
quốc tịch Việt Nam đã được Luật quốc tịch
Việt Nam (LQTVN) quy định do toà án
giải quyết theo thủ tục giải quyết các vụ án
dân sự (Điều 40 khoản 2 LQTVN). Song
thực tế đến nay chưa có tranh chấp nào đưa
đến toà án giải quyết. Tranh chấp giữa cá
nhân với cá nhân về quốc tịch Việt Nam là
việc tranh chấp giữa người cha và người
mẹ trong đó có một bên là người không có
quốc tịch, người có quốc tịch nước ngoài
với một bên là người có quốc tịch Việt
Nam hay giữa người cha và người mẹ là
người không có quốc tịch nhưng có nơi
thường trú tại Việt Nam về quốc tịch của
người con (Điều 17 LQTVN).
Đối với tranh chấp về quyền sử dụng đất
và tài sản gắn liền với đất. Theo quy định
của Luật đất đai năm 2003 thì thẩm quyền
của toà án được mở rộng hơn so với quy
định của Luật đất đai năm 1993. Toà án
không những có thẩm quyền giải quyết các
B
* Chánh toà Toà lao động
Toà án nhân dân tối cao
§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
T¹p chÝ luËt häc
19
tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương
sự đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
theo Luật đất đai năm 1987, 1993, 2003 mà
còn có thẩm quyền giải quyết cả những tranh
chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự
chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nhưng đã có một trong các loại giấy tờ quy
định tại khoản 1, 2, 5 Điều 50 Luật đất đai
năm 2003. Ngoài ra, Luật đất đai năm 2003
còn quy định đây là thẩm quyền giải quyết
tranh chấp của toà án là có điều kiện. Theo
Điều 136 Luật đất đai năm 2003 chỉ những
tranh chấp về quyền sử dụng đất đã được ủy
ban nhân dân cấp xã hoà giải nhưng các
đương sự không nhất trí được với nhau mới có
quyền khởi kiện ra toà án. Vì vậy, Công văn số
116/2004/KHXX ngày 22/7/2004 của Toà án
nhân dân tối cao đã nêu: Các tranh chấp về
quyền sử dụng đất chưa qua ủy ban nhân dân
cấp xã hoà giải nếu đương sự khởi kiện tại toà
án thì toà án phải trả lại đơn cho đương sự.
Tuy nhiên, Luật đất đai năm 2003 có hiệu lực
từ ngày 1/7/2004 vì vậy những vụ việc tranh
chấp đất đai toà án đã thụ lý trước ngày
1/7/2004 thì vẫn tiếp tục giải quyết không phải
trả lại đơn cho đương sự.
Một vấn đề đặt ra có phải tất cả các tranh
chấp về đất đai như tranh chấp về hợp đồng
chuyển quyền sử dụng đất, hợp đồng cho
thuê đất, thừa kế về đất đai… đều phải qua
ủy ban nhân dân cấp xã hoà giải hay chỉ có
một số loại tranh chấp đất đai như tranh chấp
ranh giới, tranh chấp về hành vi vi phạm
quyền sử dụng đất hợp pháp mới phải qua ủy
ban nhân dân cấp xã hoà giải trước khi khởi
kiện ra toà án.
Vấn đề này hiện có 2 loại ý kiến khác
nhau. Ý kiến thứ nhất cho rằng Điều 135,
136 Luật đất đai năm 2003 và Nghị định số
181/2004/NĐ ngày 29/10/2004 của Chính
phủ hướng dẫn thi hành Luật đất đai không
chỉ rõ loại tranh chấp nào phải qua ủy ban
nhân dân cấp xã hoà giải, hơn nữa hoà giải là
cơ hội tốt để các bên tranh chấp có điều kiện
thỏa thuận giải quyết việc tranh chấp, không
những giải quyết được mâu thuẫn giữa các
bên tranh chấp mà còn góp phần bảo đảm
đoàn kết trong khu dân cư, góp phần giữ gìn
trật tự an ninh xã hội, vì vậy tất cả các tranh
chấp đất đai đều cần phải qua ủy ban nhân
dân cấp xã hoà giải trước khi khởi kiện đến
toà án. Ý kiến thứ hai cho rằng khoản 6 Điều
105 Luật đất đai năm 2003 quy định quyền
của người sử dụng đất là “khiếu nại, tố cáo,
khởi kiện về những hành vi vi phạm quyền sử
dụng đất hợp pháp của mình và những hành
vi khác vi phạm pháp luật về đất đai” và
Điều 135 Luật đất đai năm 2003 quy định:
“Trường hợp kết quả hoà giải khác với hiện
trạng sử dụng đất thì ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn chuyển kết quả hoà giải đến
cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải
quyết theo quy định về quản lý đất đai”. Với
các quy định trên thì ủy ban nhân dân cấp xã
chỉ hoà giải những tranh chấp liên quan đến
quyền đối với đất đai như tranh chấp về mốc
giới đất, về thừa kế đất còn các tranh chấp
khác không liên quan đến việc phải xác định
ranh giới đất như tranh chấp về hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thế chấp
quyền sử dụng đất, cho thuê quyền sử dụng
đất… thì không nhất thiết phải qua ủy ban
cấp xã hoà giải. Chúng tôi đồng tình với
quan điểm thứ hai vì nếu theo quan điểm thứ
§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
20
T¹p chÝ luËt häc
nhất thì có những tranh chấp ủy ban cấp xã
không thể hoà giải được. Ví dụ: Hai bên mua
bán đất mà đất đó nằm trong quy hoạch, sau
khi ký kết hợp đồng, người mua mới phát
hiện ra nên yêu cầu hủy hợp đồng hay đất do
lấn chiếm mà có, các bên mua bán với nhau,
sau đó bị Nhà nước thu hồi, người mua yêu
cầu hủy hợp đồng, lấy lại tiền… hay việc ly
hôn trong đó có tranh chấp về quyền sử dụng
đất, toà án chưa giải quyết quan hệ hôn nhân
thì uỷ ban làm sao có thể hoà giải về tranh
chấp quyền sử dụng đất.
Đối với tranh chấp về quyền sở hữu trí
tuệ, trước khi có BLTTDS thì loại tranh chấp
này là những tranh chấp dân sự vì Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế không
quy định giải quyết loại tranh chấp này. Nay
BLTTDS phân loại tranh chấp này thành hai
loại tranh chấp về dân sự và tranh chấp về
kinh doanh, thương mại. Những tranh chấp
về sở hữu trí tuệ, bao gồm tranh chấp về
quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp. Vì
vậy, chỉ những tranh chấp về quyền tác giả,
quyền sở hữu công nghiệp mà các bên tranh
chấp không cùng có mục đích lợi nhuận thì
mới thuộc nhóm tranh chấp dân sự.
Đối với những tranh chấp về sở hữu trí tuệ,
chuyển giao công nghệ mà cả hai bên đều có mục
đích lợi nhuận thì không phải là tranh chấp dân
sự. Thông tư liên tịch số 01/2001/TANDTC-
VKSNDTC-BVHTT Ngày 25/12/2001 của Toà
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Bộ văn hóa thông tin hướng dẫn thi
hành một số điều của Bộ luật dân sự trong
việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến
quyền tác giả tại toà án nhân dân có liệt kê 6
loại tranh chấp được giải quyết theo thủ tục
giải quyết các vụ án dân sự. Thông tư này có
trước BLTTDS, vì vậy, có những loại tranh
chấp được nêu trong Thông tư này cần phải
xem xét lại như các tranh chấp về quyền tác
giả đối với phần mềm máy tính giữa người
cung cấp tài chính hoặc các điều kiện vật chất
có tính quyết định cho việc xây dựng, phát
triển phần mềm máy tính với người thiết kế,
xây dựng phần mềm máy tính. Tranh chấp này
theo chúng tôi chỉ khi người cung cấp tài chính
cho người xây dựng phần mềm máy tính để
nhận được một sản phẩm phục vụ cho nhu cầu
sinh hoạt của họ, không dùng sản phẩm đó và
mục đích kinh doanh thì tranh chấp này mới
thuộc nhóm tranh chấp dân sự. Còn nếu người
cung cấp tài chính dùng sản phẩm phần mềm
máy tính vào phục vụ cho nhu cầu sản xuất
kinh doanh thì tranh chấp này không còn là
tranh chấp dân sự.
2. Những tranh chấp, yêu cầu về hôn nhân
và gia đình thuộc thẩm quyền của toà án
Kế thừa các quy định trong pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Luật
hôn nhân và gia đình, Pháp lệnh công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết
định của toà án nước ngoài, Điều 27, 28
BLTTDS đã liệt kê tất cả các tranh chấp,
yêu cầu về hôn nhân và gia đình mà toà án
đã và đang giải quyết. Trong đó có 5 loại
tranh chấp và 6 loại yêu cầu cụ thể, ngoài
ra còn có tranh chấp và yêu cầu khác do
pháp luật quy định.
Nhìn chung những quy định tại Điều 27,
28 BLTTDS khá rõ, chỉ còn một vài vấn đề
không lớn hiện còn đang có những ý kiến
khác nhau, đó là:
- Việc xác nhận cha, mẹ cho con.
§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
T¹p chÝ luËt häc
21
Điều 65 Luật hôn nhân và gia đình quy
định: “Con có quyền xin nhận cha, mẹ của
mình kể cả trong trường hợp cha, mẹ đã
chết”. Trong trường hợp cha, mẹ còn sống
nếu người con yêu cầu xin nhận cha, mẹ
hoặc cha, mẹ yêu cầu nhận con nếu không có
sự tranh chấp thì thuộc thẩm quyền của cơ
quan hộ tịch giải quyết, nếu có sự tranh chấp
sẽ do toà án giải quyết. Vấn đề đặt ra người
con xin xác nhận cha, mẹ mà người cha,
người mẹ họ đã chết thuộc thẩm quyền của
toà án hay thuộc thẩm quyền của cơ quan hộ
tịch. Theo chúng tôi điểm 5 Điều 27
BLTTDS đã quy định chỉ khi có tranh chấp
về việc xác định cha, mẹ cho con hoặc xác
định con cho cha, mẹ mới thuộc thẩm quyền
của toà án. Vì vậy, nếu việc người con xin
xác nhận cha, mẹ mà cha, mẹ đã chết không
có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền của cơ
quan hộ tịch. Thông thường khi cha, mẹ còn
sống, con xin nhận cha, mẹ hoặc ngược lại,
nếu có tranh chấp thì là tranh chấp giữa
người xin nhận với người có quyền đồng ý
hay không đồng ý nhận, tức giữa con với
cha, mẹ. Còn trong trường hợp cha, mẹ đã
chết mà con xin nhận cha, mẹ, theo chúng
tôi vẫn có thể xảy ra tranh chấp giữa người
xin nhận cha, mẹ với những người có
quyền lợi liên quan, do vậy, toà án vẫn có
thẩm quyền giải quyết. Ví dụ: Tranh chấp
giữa những người xin nhận cha, mẹ với
những người của người được nhận là cha,
mẹ đã chết.
- Vợ chồng không đăng ký kết hôn, nay
họ thỏa thuận được cả ba mối quan hệ hôn
nhân, con cái, tài sản và yêu cầu toà án công
nhận, đây là yêu cầu hay tranh chấp về hôn
nhân và gia đình.
Điểm 2 Điều 28 BLTTDS quy định:
“Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn; nuôi
con, chia tài sản khi ly hôn”. Việc công
nhận thuận tình ly hôn là đối với hôn nhân
phải có đăng ký kết hôn. Nam nữ sống với
nhau như vợ chồng không có đăng ký kết
hôn cần phân biệt, nếu quan hệ vợ chồng xác
lập trước ngày 3/1/1987 mà không đăng ký
kết hôn thì theo Nghị quyết số
35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội
khóa X không bắt buộc phải đăng ký kết
hôn, do đó nếu họ đã thỏa thuận được cả ba
quan hệ hôn nhân, con cái, tài sản và yêu cầu
toà án công nhận thuận tình ly hôn thì đây là
việc yêu cầu về hôn nhân gia đình. Nếu
nam nữ sống chung như vợ chồng từ ngày
3/1/1987 đến nay vẫn chưa đăng ký kết
hôn thì theo Luật hôn nhân gia đình năm
2000 và Nghị quyết số 35/2000/QH không
được coi đó là quan hệ vợ chồng, vì vậy,
phải coi trường hợp này là vụ án về hôn
nhân gia đình bằng bản án toà án tuyên
không công nhận quan hệ vợ chồng.
3. Những tranh chấp, yêu cầu kinh
doanh thương mại thuộc thẩm quyền của
toà án
3.1. Những tranh chấp về quan hệ tài sản
Khác Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
an kinh tế, BLTTDS không dùng khái niệm
tranh chấp hợp đồng kinh tế mà dùng khái
niệm tranh chấp kinh doanh thương mại.
Để phân biệt giữa tranh chấp về dân sự
và tranh chấp về kinh doanh thương mại
§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
22
T¹p chÝ luËt häc
trong các quan hệ về tài sản, khoản 1 Điều
29 BLTTDS lấy tiêu chí về đặc điểm và mục
đích của chủ thể tranh chấp. Đó là tranh chấp
phát sinh giữa các cá nhân, tổ chức có đăng
ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận
thì đó là tranh chấp kinh doanh thương mại
tương ứng với vụ án kinh tế được quy định
trong Luật tổ chức toà án nhân dân năm
2002. Như vậy, nếu tranh chấp phát sinh từ
các quan hệ tài sản được liệt kê từ điểm a
đến điểm o khoản 1 Điều 29 BLTTDS
nhưng không thỏa mãn tiêu chí về đặc điểm
và mục đích của các chủ thể tranh chấp, tức
nếu cả 2 bên hoặc 1 trong 2 bên tranh chấp
đều có đăng ký kinh doanh nhưng không có
mục đích lợi nhuận thì tranh chấp đó vẫn là
tranh chấp dân sự. Đây là sự khác biệt giữa
quy định của BLTTDS với quy định của
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh
tế. Vì Pháp lệnh lấy tiêu chí “các tranh chấp
hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp
nhân, giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký
kinh doanh” để xác định thẩm quyền. Với
quy định tại Điều 29 BLTTDS, các tranh
chấp giữa cơ quan nhà nước với tổ chức có
tư cách pháp nhân phát sinh từ các giao dịch
trước đây được coi là hợp đồng kinh tế thì
nay không thuộc nhóm tranh chấp kinh
doanh, thương mại. Chính vì vậy trong
khoản 1 Điều 29 BLTTDS đã loại chủ thể là
cơ quan nhà nước. Mặt khác, khoản 1 Điều
29 BLTTDS lại mở rộng chủ thể tranh chấp
hơn so với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án kinh tế ở chỗ không đòi hỏi tổ chức
phải là pháp nhân và cũng không đòi hỏi
tranh chấp phải phát sinh giữa pháp nhân với
cá nhân có đăng ký kinh doanh mà có thể
giữa cá nhân với cá nhân có đăng ký kinh
doanh và đều có mục đích lợi nhuận.
Cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh
đòi hỏi phải do cơ quan có thẩm quyền cấp
giấy đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật. Ví dụ: Hợp tác xã thì do uỷ ban
nhân dân cấp huyện nơi hợp tác xã dự định
đặt trụ sở chính cấp giấy chứng nhận.
Về nguyên tắc, các chủ thể chỉ được hoạt
động sản xuất kinh doanh sau khi được cấp
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nhưng
trên thực tế nhiều hợp tác xã, doanh nghiệp
hoạt động sản xuất kinh doanh trước khi
được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh nhưng đến khi xảy ra tranh chấp họ đã
có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Ngược lại, có trường hợp khi hoạt động các
chủ thể đã có giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh nhưng khi xảy ra tranh chấp thì họ bị
thu hồi giấy chứng nhận đó. Cũng có trường
hợp có chủ thể hoạt động ngoài phạm vi giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh, tức là kinh
doanh những ngành nghề mà doanh nghiệp
đó không đăng ký kinh doanh nhưng đều có
mục đích lợi nhuận, trong những trường hợp
này nếu xảy ra tranh chấp theo chúng tôi
những tranh chấp đó được coi là tranh chấp
kinh doanh, thương mại.
(1)
Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày
31/3/2005 của HĐTPTANDTC hướng dẫn:
“Toà kinh tế có nhiệm vụ, quyền hạn giải
quyết các tranh chấp và yêu cầu về kinh
doanh, thương mại quy định tại Điều 29 và
30 BLTTDS; các tranh chấp về kinh doanh
thương mại mà một bên hoặc các bên không
có đăng ký kinh doanh nhưng đều có mục
đích lợi nhuận”. Đây là sự quy định về thẩm
§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
T¹p chÝ luËt häc
23
quyền giải quyết cho toà kinh tế. Tuy nhiên,
cần phải hiểu quy định trên là các bên đều có
đăng ký kinh doanh nhưng tranh chấp xảy ra
đối với hoạt động cụ thể nào đó mà một hoặc
cả 2 bên đều không đăng ký kinh doanh với
hoạt động đó. Ví dụ: Công ty nuôi trồng thủy
sản không đăng ký kinh doanh mặt hàng
phân bón nhưng công ty đó vẫn cứ nhận
phân bón của công ty sản xuất phân bón về
bán, nếu xảy ra tranh chấp thì được coi là
tranh chấp kinh doanh thương mại. Còn nếu
một bên hoặc các bên đều không có đăng ký
kinh doanh nhưng cùng có mục đích lợi
nhuận theo khoản 1 Điều 29 BLTTDS thì
không phải là tranh chấp thương mại. Ví dụ:
Một cá nhân không có đăng ký kinh doanh
nhưng họ vẫn mua nhà của các công ty kinh
doanh địa ốc về bán lại cho những người
khác để kiếm lời. Nếu xảy ra tranh chấp giữa
cá nhân đó với công ty kinh doanh địa ốc thì
không thể coi đây là tranh chấp kinh doanh
thương mại.
Mục đích lợi nhuận của cá nhân, tổ chức
quy định tại khoản 1 Điều 29 BLTTDS là mục
đích sinh lợi mà cá nhân, tổ chức mong muốn
đạt được trong hoạt động kinh doanh, thương
mại không phân biệt có thu được lợi nhuận hay
không thu được lợi nhuận trong hoạt động đó.
Theo Nghị quyết số 01/2005 NQ - HĐTP ngày
31/3/2005 của HĐTPTANDTC, “hoạt động
kinh doanh, thương mại không chỉ là hoạt
động trực tiếp theo đăng ký kinh doanh,
thương mại mà còn bao gồm cả hoạt động
khác phục vụ thúc đẩy nâng cao hiệu quả
hoạt động kinh doanh, thương mại”. Vì vậy,
ngoài những hoạt động kinh doanh thương
mại mang lại lợi nhuận trực tiếp như mua
hàng về bán lấy lời thì có những hoạt động
phục vụ cho nhu cầu kinh doanh, thương mại
tuy không phát sinh lợi nhuận nhưng vẫn
được coi là có mục đích lợi nhuận. Ví dụ: Để
phục vụ cho nhu cầu kinh doanh thương mại
công ty X đã thuê văn phòng của công ty
kinh doanh địa ốc Y, giao dịch trên của
Công ty X không trực tiếp mang lại lợi
nhuận nhưng vẫn được coi là có mục đích lợi
nhuận vì nó phục vụ cho hoạt động kinh
doanh, thương mại. Trên thực tế việc xác
định mục đích lợi nhuận không phải đơn
giản. Ví dụ: Một cá nhân có đăng ký kinh
doanh ký hợp đồng với công ty vận
chuyển hành khách chở toàn bộ gia đình
họ đi nghỉ mát đồng thời trong thời gian
nghỉ đó, họ có gặp đối tác để ký kết hợp
đồng hay cá nhân có đăng ký kinh doanh
thuê công ty xây dựng xây cho họ ngôi
nhà để ở trong đó có một phòng dùng để
kinh doanh. Những trường hợp trên khi
xảy ra tranh chấp thì đó là tranh chấp dân
sự hay kinh doanh, thương mại. Theo
chúng tôi trong những trường hợp khó
phân định được loại tranh chấp thì nên
cho đó là tranh chấp dân sự, vì nguồn gốc
đầu tiên của mọi tranh chấp là tranh chấp
dân sự. Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP
nêu trên cũng đã quy định trong những trường
hợp khó xác định tranh chấp hoặc yêu cầu thuộc
nhiệm vụ quyền hạn của toà chuyên trách nào thì
chánh án toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương quyết định phân công cho một
toà chuyên trách giải quyết theo thủ tục chung.
§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
24
T¹p chÝ luËt häc
3.2. Những tranh chấp về sở hữu trí tuệ
So với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án kinh tế, BLTTDS đã quy định thêm
các tranh chấp về sở hữu trí tuệ, chuyển giao
công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và
đều có mục đích lợi nhuận thuộc tranh chấp
về kinh doanh thương mại. Khác với các
tranh chấp về tài sản, loại tranh chấp này
BLTTDS chỉ lấy tiêu chí mục đích của các
bên tranh chấp để phân biệt tranh chấp dân
sự hay tranh chấp kinh doanh thương mại.
Việc xác định khi nào các bên tranh chấp
“đều có mục đích lợi nhuận”, Nghị quyết số
01/2005/NQHĐTP nêu trên chưa có hướng
dẫn cho loại tranh chấp này. Theo chúng tôi,
đối với các tranh chấp về sở hữu trí tuệ phát
sinh giữa tác giả, chủ sở hữu tác phẩm với
người sử dụng tác phẩm đó, hay giữa chủ sở
hữu đối tượng sở hữu công nghiệp với người
sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp đó
mà tác giả, chủ sở hữu tác phẩm hay chủ sở
hữu đối tượng sở hữu công nghiệp đã được
người sử dụng trả một khoản tiền do các bên
thỏa thuận, còn người sử dụng dùng tác
phẩm, hay đối tượng sở hữu công nghiệp đó
để khai thác kiếm lời với những điều kiện hai
bên đã thỏa thuận. Ví dụ: Một tác giả chuyển
kịch bản của mình cho xưởng phim để lấy
một khoản tiền nhất định còn xưởng phim
khai thác kịch bản đó để thu lợi nhuận. Với
những quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ
của các bên, nếu xảy ra tranh chấp thì đây là
tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Còn việc chuyển giao công nghệ theo
chúng tôi các bên đều có mục đích lợi
nhuận, vì theo Điều 2 Nghị định số
45/1998/NĐ-Chính phủ ngày 1/7/1998 của
Chính phủ quy định chi tiết về chuyển giao
công nghệ thì “chuyển giao công nghệ” là
hình thức mua và bán công nghệ trên cơ sở
hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được
thỏa thuận phù hợp với các quy định của
pháp luật. Bên bán có nghĩa vụ chuyển giao
các kiến thức tổng hợp của công nghệ hoặc
cung cấp các máy móc, thiết bị, dịch vụ đào
tạo… kèm theo các kiến thức công nghệ cho
bên mua và bên mua có nghĩa vụ thanh toán
cho bên bán để tiếp thu, sử dụng kiến thức
công nghệ đó theo các điều kiện đã thỏa
thuận và ghi nhận trong hợp đồng chuyển
giao công nghệ. Giá thanh toán cho việc
chuyển giao công nghệ là tổng số tiền bên
nhận phải chuyển cho bên giao trong suốt
thời gian thực hiện hợp đồng.
3.3. Những tranh chấp giữa công ty với
các thành viên của công ty
Đối với các tranh chấp giữa công ty với
các thành viên của công ty… so với các
quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án kinh tế thì BLTTDS chỉ bổ sung
thêm các tranh chấp có liên quan đến việc
sáp nhập, hợp nhất, chia tách, chuyển đổi
hình thức của công ty cho phù hợp với
thực tế. Việc phân biệt cụ thể các trường
hợp tranh chấp này đã được hướng dẫn cụ
thể trong điểm 3.5 mục 3 Phần I của Nghị
quyết số 01/2005/NQ - HĐTP nêu trên.
3.4. Những yêu cầu về kinh doanh thương mại
Những yêu cầu kinh doanh thương mại
thuộc thẩm quyền của toà án quy định tại
Điều 30 BLTTDS. Tuy nhiên, những loại
việc này đã được các văn bản pháp luật khác
§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
T¹p chÝ luËt häc
25
quy định như yêu cầu liên quan đến việc
trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết
các vụ tranh chấp, đã được quy định trong
Pháp lệnh trọng tài thương mại và Nghị
quyết số 05/2003 ngày 31/7/2003 của
HĐTPTANDTC hướng dẫn thi hành Pháp
lệnh này. Yêu cầu công nhận và cho thi hành
tại Việt Nam bản án, quyết định kinh doanh
thương mại của toà án nước ngoài hoặc
không công nhận bản án, quyết định kinh
doanh thương mại của toà án nước ngoài đã
được quy định trong Pháp lệnh công nhận và
cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định
dân sự của toà án nước ngoài ngày
17/4/1993. Yêu cầu công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam quyết định kinh doanh
thương mại của trọng tài nước ngoài đã được
quy định tại Pháp lệnh công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài
nước ngoài ngày 14/9/1995 nay được pháp
điển hóa vào BLTTDS.
4. Các tranh chấp, yêu cầu lao động
thuộc thẩm quyền của toà án
Điều 31, 32 BLTTDS đã quy định liệt kê
tất cả các tranh chấp và yêu cầu về lao động
thuộc thẩm quyền của toà án. So với Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao
động thì BLTTDS đã mở rộng các loại tranh
chấp lao động cá nhân không nhất thiết phải
qua hoà giải cơ sở. Nếu Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các tranh chấp lao động chỉ quy
định 3 loại tranh chấp không phải qua hoà
giải thì BLTTDS quy định 6 loại tranh chấp
không phải qua hoà giải. Đối với loại tranh
chấp lao động cá nhân trước đây không
thuộc thẩm quyền của toà án nay được quy
định thuộc thẩm quyền của toà án đó là tranh
chấp giữa người lao động đã nghỉ việc với
cơ quan bảo hiểm, giữa người sử dụng lao
động với cơ quan bảo hiểm, tranh chấp về
bồi thường thiệt hại giữa người lao động với
doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
Khác với Pháp lệnh, BLTTDS quy định
những loại tranh chấp lao động cá nhân bắt
buộc phải qua hoà giải cơ sở trước khi khởi
kiện đến toà án, nếu các đương sự đã yêu
cầu hội đồng hoà giải lao động cơ sở hay hoà
giải viên lao động cấp huyện hoà giải nhưng
nếu hội đồng hoà giải lao động cơ sở hay
hoà giải viên lao động không tiến hành hoà
giải trong thời hạn do pháp luật quy định thì
họ cũng có quyền khởi kiện ra toà. Theo
Điều 164 BLLĐ thì “thời hạn do pháp luật
quy định” là 7 ngày kể từ ngày hội đồng hoà
giải cơ sở hay hoà giải viên lao động nhận
được đơn yêu cầu hoà giải.
Theo Điều 31 BLTTDS thì “tranh chấp
về bồi thường thiệt hại giữa người lao động
và doanh nghiệp xuất khẩu lao động” là
tranh chấp lao động nhưng thực tế giữa
người lao động và doanh nghiệp xuất khẩu
lao động còn có nhiều tranh chấp khác như
tranh chấp về thanh lý hợp đồng; tranh chấp
tiền bảo hiểm xã hội… Những tranh chấp
này là tranh chấp lao động hay tranh chấp
dân sự. Theo chúng tôi, hợp đồng đưa người
lao động đi làm việc ở nước ngoài không
phải là hợp đồng lao động vì doanh nghiệp
xuất khẩu lao động không phải là người sử
dụng lao động. Mà người sử dụng lao động
là người nước ngoài ký hợp đồng lao động
trực tiếp với người lao động Việt Nam. Song
việc tranh chấp giữa người lao động và
§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
26
T¹p chÝ luËt häc
doanh nghiệp xuất khẩu lao động có liên
quan đến việc thực hiện quan hệ lao động
giữa người lao động Việt Nam và người sử
dụng lao động là người nước ngoài mà theo
Nghị định số 81/2003/CP của Chính phủ thì
doanh nghiệp xuất khẩu lao động có trách
nhiệm giải quyết, vì vậy, các tranh chấp phát
sinh giữa người lao động và doanh nghiệp
xuất khẩu lao động là tranh chấp lao động.
Đối với tranh chấp lao động tập thể “về
quyền thành lập, gia nhập, hoạt động công
đoàn”, theo Điều 153 Bộ luật lao động năm
2002 (BLLĐ) thì “người sử dụng lao động
có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để tổ
chức công đoàn sớm được thành lập” và
“nghiêm cấm hành vi cản trở việc thành lập
và hoạt động công đoàn tại doanh nghiệp”.
Điều 154 BLLĐ quy định: “Người sử dụng
lao động phải cộng tác chặt chẽ và tạo điều
kiện thuận lợi để công đoàn hoạt động theo
các quy định của BLLĐ và Luật công đoàn”.
Như vậy, trong những trường hợp người sử
dụng lao động gây khó khăn, cản trở việc
thành lập công đoàn, hoạt động của công
đoàn thì tập thể người lao động thông qua
đại diện của họ là ban chấp hành công đoàn
lâm thời yêu cầu người sử dụng lao động
phải chấm dứt những hành vi cản trở, gây
khó khăn cho việc thành lập, gia nhập, hoạt
động công đoàn của người lao động.
Đối với những yêu cầu về lao động, đây
là loại việc mới trước đây Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các tranh chấp lao động chưa quy
định. Hiện nay, những yêu cầu về lao động
được quy định tại Điều 32 BLTTDS.
5. Thẩm quyền của toà án các cấp
Điều 33, 34 BLTTDS quy định thẩm
quyền của toà án các cấp khác với các văn
bản pháp luật tố tụng trước đó. BLTTDS
không lấy các tiêu chí đương sự là người
nước ngoài hoặc là người Việt Nam ở nước
ngoài hay “có nhân tố nước ngoài”, “có yếu
tố nước ngoài” hay “giá trị tranh chấp” mà
lấy tiêu chí các tranh chấp, yêu cầu “có
đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần
phải ủy thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự của
Việt Nam ở nước ngoài, cho toà án nước
ngoài” (khoản 3 Điều 33 BLTTDS) để phân
định thẩm quyền của toà án cấp huyện và toà
án cấp tỉnh trong việc giải quyết tranh chấp,
yêu cầu. Quy định như vậy của BLTTDS
bảo đảm được sự bình đẳng giữa các đương
sự là người Việt Nam, tổ chức Việt Nam với
đương sự là người nước ngoài, tổ chức nước
ngoài và phù hợp thực tế mở rộng quan hệ
giao lưu, làm ăn kinh tế với nước ngoài của
nước ta. Mặt khác, việc xác định một vụ án
phức tạp hay không phức tạp không phải là
giá trị tranh chấp mà phần lớn do chứng cứ,
phạm vi tranh chấp, số lượng các chủ thể
tham gia quan hệ tranh chấp đó. Hơn nữa, bỏ
tiêu chí lấy giá trị tranh chấp để phân biệt
thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế để
bảo đảm sự thống nhất trong việc giải quyết
các tranh chấp dân sự, kinh doanh, thương
mại, hôn nhân và gia đình, lao động.
(xem tiếp trang 61)
(1).Xem: Nghị quyết số 04/2003 NQ-HĐTP ngày
27/5/2003 của HĐTPTANDTC).