Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Báo cáo "Thủ tục giải quyết các yêu cầu liên quan đến hoạt động của trọng tài thương mại Việt Nam " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.39 KB, 8 trang )



§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
T¹p
chÝ luËt häc
41





TS. Phan ChÝ HiÕu *
1. Khái quát về thủ tục giải quyết các
yêu cầu liên quan đến hoạt động trọng tài
thương mại của Việt Nam
Trong quá trình giải quyết tranh chấp
kinh doanh bằng trọng tài, các bên tranh
chấp thường có nhu cầu áp dụng một số biện
pháp mang tính cưỡng chế như: Chỉ định
trọng tài viên để tham gia hội đồng trọng tài,
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo
toàn chứng cứ hoặc để đảm bảo thi hành
phán quyết trọng tài, huỷ hoặc công nhận
quyết định trọng tài nhưng do không đại
diện cho quyền lực tư pháp của Nhà nước
nên bản thân trọng tài không thể áp dụng các
biện pháp này. Trong những trường hợp đó,
các bên tranh chấp có thể yêu cầu toà án xem
xét áp dụng các biện pháp hỗ trợ nhằm đảm
bảo hiệu quả của hoạt động giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài thương mại. Bộ luật tố


tụng dân sự (BLTTDS) gọi các yêu cầu này
là những việc dân sự liên quan đến hoạt
động trọng tài thương mại Việt Nam.
Theo các điều 30, 340 BLTTDS và các
điều 26, 27, 30, 33, 50 Pháp lệnh trọng tài
thương mại (PLTTTM) thì các bên tranh
chấp có thể yêu cầu toà án xem xét giải
quyết các việc dân sự liên quan đến hoạt
động trọng tài thương mại Việt Nam sau:
Chỉ định, thay đổi trọng tài viên; áp dụng,
thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm
thời; huỷ quyết định trọng tài và các việc dân
sự khác mà pháp luật về trọng tài thương
mại Việt Nam có quy định như yêu cầu toà
án xem xét hiệu lực của thoả thuận trọng tài.
Cơ sở pháp lý để toà án giải quyết các việc
dân sự liên quan đến hoạt động trọng tài
thương mại Việt Nam là BLTTDS, PLTTTM
và Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP của Hội
đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
ngày 31/7/2003 hướng dẫn thi hành một số
điều của PLTTTM. Theo quy định của các
văn bản này, thủ tục giải quyết các việc dân
sự liên quan đến hoạt động trọng tài thương
mại Việt Nam có những điểm chung đáng
lưu ý như sau:
Thứ nhất, toà án Việt Nam chỉ giải quyết
các việc dân sự liên quan đến hoạt động của
trọng tài thương mại Việt Nam, nghĩa là các
hoạt động giải quyết tranh chấp được tiến

hành bởi các trung tâm trọng tài thương mại
hoặc hội đồng trọng tài do các bên thành lập
trên lãnh thổ Việt Nam và hoạt động theo
pháp luật về trọng tài thương mại của Việt
Nam. Các yêu cầu phát sinh từ hoạt động
giải quyết tranh chấp của trọng tài nước
ngoài không thuộc thẩm quyền của toà án
Việt Nam.
Toà án có thẩm quyền giải quyết việc
* Phó ch
ủ nhiệm Khoa đ
ào t
ạo thẩm phán

Học viện tư pháp


§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
42 T¹p chÝ luËt häc

dân sự liên quan đến hoạt động của trọng tài
thương mại Việt Nam là toà án tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương. Tuy PLTTTM không
quy định cụ thể toà kinh tế hay toà dân sự của
toà án cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết
nhưng xuất phát từ tính chất thương mại của
tranh chấp mà các việc dân sự liên quan đến
hoạt động của trọng tài do toà kinh tế giải
quyết. Theo Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP
thì chánh án toà án cấp tỉnh cần chỉ định thẩm

phán toà kinh tế xem xét giải quyết việc dân sự
liên quan đến hoạt động của trọng tài thương
mại; đối với toà án cấp tỉnh chưa thành lập toà
kinh tế thì có thể chỉ định thẩm phán toà dân
sự xem xét giải quyết.
Thứ hai, toà án chỉ thụ lý yêu cầu giải
quyết việc dân sự liên quan đến hoạt động
của trọng tài thương mại khi được một hoặc
các bên yêu cầu. Toà án không tự mình áp
dụng các biện pháp cưỡng chế đối với một
hoặc các bên hoặc theo yêu cầu của chính
bản thân trọng tài đang giải quyết tranh
chấp. Ngoài đơn yêu cầu thì người đưa ra
yêu cầu phải chứng minh việc giữa các bên
tranh chấp có thoả thuận trọng tài.
Thứ ba, các việc liên quan đến hoạt động
của trọng tài thương mại không phải là vụ án
dân sự mà là một loại việc dân sự thuộc
thẩm quyền của toà án. Bởi vậy, BLTTDS
quy định khi giải quyết toà án không ra bản
án mà chỉ ra các quyết định.
Phần viết dưới đây sẽ lần lượt giới thiệu thủ
tục giải quyết các việc dân sự liên quan đến
hoạt động của trọng tài thương mại Việt Nam.
2. Thủ tục giải quyết yêu cầu chỉ định
trọng tài viên hoặc thay đổi trọng tài viên
Theo quy định của PLTTTM thì các bên
tranh chấp có thể thoả thuận với nhau để giải
quyết tranh chấp đã hoặc sẽ phát sinh giữa
họ tại các trung tâm trọng tài hoặc bằng hội

đồng trọng tài do các bên thành lập (giống
trọng tài ad-hoc ở nước ngoài). Về nguyên
tắc, các bên tranh chấp phải chỉ định hoặc
tham gia chỉ định trọng tài viên của mình để
thành lập hội đồng trọng tài. Nhưng thực tế
có thể xảy ra tình huống một bên (thường là
bên bị kiện) không chỉ định trọng tài viên
của mình nhằm trì hoãn việc giải quyết tranh
chấp. Nếu tranh chấp được giải quyết tại
trung tâm trọng tài thương mại thì chủ tịch
trung tâm trọng tài sẽ chỉ định trọng tài viên.
Còn nếu tranh chấp được giải quyết bằng hội
đồng trọng tài do các bên thành lập thì toà án
sẽ chỉ định trọng tài viên theo yêu cầu của
một bên. Toà án có thể chỉ định trọng tài
viên để thành lập hội đồng trọng tài hoặc
thay đổi trọng tài viên trong hội đồng trọng
tài đã được thành lập.
- Chỉ định trọng tài viên để thành lập hội
đồng trọng tài
Theo yêu cầu của một bên tranh chấp,
toà án có thể chỉ định trọng tài viên cho bị
đơn trong trường hợp bị đơn không chỉ định
trọng tài viên trong thời hạn mà các bên đã
thoả thuận hoặc pháp luật có quy định; chỉ
định trọng tài viên thứ ba làm chủ tịch hội
đồng trọng tài trong trường hợp hai trọng tài
viên do các bên chỉ định hoặc toà án chỉ định
không chọn được trọng tài viên thứ ba này.
Người yêu cầu toà án chỉ định trọng tài viên

phải làm đơn gửi toà án có thẩm quyền. Đơn
yêu cầu phải có các nội dung: Ngày, tháng,
năm viết đơn; tên, địa chỉ của các bên; tóm
tắt nội dung vụ tranh chấp; nội dung yêu cầu


§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
T¹p
chÝ luËt häc
43

toà án hỗ trợ và lý do yêu cầu. Kèm đơn yêu
cầu là các tài liệu chứng minh cho yêu cầu
của mình. Toà án có thẩm quyền giải quyết
yêu cầu chỉ định trọng tài viên là toà án cấp
tỉnh, nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú. Nếu
trong tranh chấp có nhiều bị đơn thì nguyên
đơn có thể yêu cầu toà án cấp tỉnh, nơi có trụ
sở hoặc cư trú của một trong các bị đơn chỉ
định trọng tài viên cho các đồng bị đơn.
Thẩm phán phải chỉ định những người
đáp ứng được các điều kiện để làm trọng tài
viên và có chuyên môn phù hợp với lĩnh vực
mà các bên đang tranh chấp. Để việc quyết
định chỉ định trọng tài viên được đúng, thẩm
phán có thể tham khảo ý kiến của các trung
tâm trọng tài, liên hệ với hội luật gia cùng
cấp, hiệp hội ngành nghề ở trung ương hoặc
địa phương để các tổ chức này giới thiệu
người có thể được chỉ định làm trọng tài

viên. Khi chỉ định trọng tài viên, thẩm phán
cần phải cân nhắc tới nguyên tắc chỉ định
trọng tài viên mà các bên đã thoả thuận để có
thể tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên.
- Thay đổi trọng tài viên
Việc thay đổi trọng tài viên do các trọng
tài viên khác trong hội đồng trọng tài quyết
định. Trong trường hợp không quyết định
được hoặc nếu hai trọng tài viên hay trọng
tài viên duy nhất từ chối giải quyết vụ tranh
chấp thì nguyên đơn được quyền yêu cầu toà
án cấp tỉnh nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú
để xem xét, quyết định. Trọng tài viên có thể
bị thay đổi khi có các căn cứ sau: Không đáp
ứng các điều kiện để làm trọng tài viên theo
quy định tại Điều 12 PLTTTM; trọng
tài vi ên là người thân thích của một bên
hoặc đại diện của bên đó; trọng tài viên có
lợi ích trong vụ tranh chấp; có căn cứ rõ ràng
cho thấy trọng tài viên không vô tư, khách
quan trong khi làm nhiệm vụ.
3. Thủ tục xem xét hiệu lực của thoả
thuận trọng tài
Tiền đề của việc giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài là các bên tranh chấp phải có
thoả thuận trọng tài hợp lệ. Thoả thuận trọng
tài là sự thống nhất ý chí của các bên nhằm
đưa tranh chấp đã hoặc sẽ phát sinh giữa họ
ra giải quyết bằng trọng tài. Nếu các bên
không có thoả thuận trọng tài hoặc có thoả

thuận trọng tài nhưng thoả thuận trọng tài bị
vô hiệu thì trọng tài không có thẩm quyền
giải quyết vụ việc và vì vậy, các quyết định
giải quyết tranh chấp của trọng tài có thể bị
toà án huỷ theo đơn yêu cầu của một bên. Do
đó, việc xem xét hiệu lực của thoả thuận
trọng tài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
PLTTTM quy định hai trường hợp các bên
tranh chấp được quyền yêu cầu toà án xem
xét hiệu lực của thoả thuận trọng tài.
- Trường hợp sau khi khi ký thoả thuận
trọng tài, nếu có dấu hiệu lừa dối, đe doạ thì
một bên được quyền yêu cầu toà án tuyên bố
thoả thuận trọng tài vô hiệu. Trình tự và thủ
tục yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài vô
hiệu giống như yêu cầu tuyên bố một giao
dịch dân sự vô hiệu. Thời hiệu yêu cầu toà
án tuyên bố thoả thuận trọng tài vô hiệu là 6
tháng, kể từ ngày ký kết thoả thuận trọng tài
nhưng phải trước ngày hội đồng trọng tài mở
phiên họp đầu tiên giải quyết vụ tranh chấp.
- Trường hợp sau khi hội đồng trọng tài
được thành lập và trước khi hội đồng trọng
tài xem xét nội dung vụ việc, các bên có
quyền khiếu nại với hội đồng trọng tài về


§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
44 T¹p chÝ luËt häc


việc vụ tranh chấp không có thoả thuận trọng
tài hoặc thoả thuận trọng tài vô hiệu. Khi
nhận được khiếu nại, hội đồng trọng tài phải
xem xét, quyết định. Trong trường hợp
không đồng ý với quyết định của hội đồng
trọng tài, một hoặc các bên có quyền yêu cầu
toà án cấp tỉnh nơi hội đồng trọng tài đã ra
quyết định xem xét lại quyết định của hội
đồng trọng tài. Chánh án toà án giao cho một
thẩm phán xem xét, giải quyết đơn yêu cầu.
Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày được
giao, thẩm phán phải xem xét, quyết định.
Quyết định của toà án là chung thẩm. Trong
trường hợp toà án quyết định vụ tranh chấp
không có thoả thuận trọng tài hoặc thoả
thuận trọng tài vô hiệu thì hội đồng trọng tài
ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ tranh
chấp. Nếu không có thoả thuận khác, các bên
có quyền khởi kiện vụ tranh chấp ra toà án.
Việc xem xét hiệu lực thoả thuận trọng
tài trong thời gian qua đang gặp nhiều vướng
mắc. Thứ nhất, một số thoả thuận trọng tài
không rơi vào các trường hợp vô hiệu quy
định tại Điều 10 PLTTTM nhưng không có
khả năng thi hành trong thực tế (ví dụ, thoả
thuận trọng tài chỉ định một trung tâm trọng
tài giải quyết tranh chấp nhưng lại lựa chọn
quy tắc tố tụng của một trung tâm trọng tài
khác; thoả thuận trọng tài xác định một
trung tâm trọng tài cụ thể nhưng theo điều

lệ hoạt động của trung tâm trọng tài thì
trung tâm này không có thẩm quyền giải
quyết loại tranh chấp đó; thoả thuận trọng
tài xác định trung tâm trọng tài nhưng khi
tranh chấp xảy ra thì trung tâm này đã giải
thể). Những loại thoả thuận trọng tài này có
giá trị thi hành hay không?
Thứ hai, thế nào là thoả thuận trọng tài
không quy định hoặc quy định không rõ tổ
chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ
tranh chấp để có thể áp dụng khoản 4 Điều
10 PLTTTM tuyên bố vô hiệu. Thực tiễn
giải quyết tranh chấp trong thời gian qua đã
gặp nhiều thoả thuận trọng tài quy định
chung chung dạng: "tranh chấp được giải
quyết bằng trọng tài"; "tranh chấp được giải
quyết bằng trọng tài thương mại của Việt
Nam" hoặc thoả thuận trọng tài diễn đạt
nhầm tên trung tâm trọng tài dạng: "tranh
chấp được giải quyết bằng hội đồng trọng
tài của Phòng thương mại và công nghiệp
Việt Nam", "tranh chấp giải quyết bằng
trọng tài theo tiêu chuẩn của Phòng thương
mại và công nghiệp Việt Nam" Tác giả cho
rằng, tuy thoả thuận trọng tài có thể diễn đạt
sai tên của trung tâm trọng tài nhưng nếu cho
phép các bên hiểu giống nhau về một trung
tâm trọng tài cụ thể thì thoả thuận trọng tài
đó vẫn có hiệu lực pháp luật. Ví dụ, thoả
thuận trọng tài với nội dung: "tranh chấp

được giải quyết bằng hội đồng trọng tài của
Phòng thương mại và công nghiệp Việt
Nam" cho phép suy đoán rằng các bên đã
thoả thuận để chọn Trung tâm trọng tài
quốc tế Việt Nam, bởi vì bên cạnh Phòng
thương mại và công nghiệp Việt Nam chỉ
có một trung tâm trọng tài duy nhất là
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam
(VIAC). Tuy nhiên, để tránh các vấn đề
phức tạp có khả năng phát sinh thì toà án và
trọng tài phải thống nhất cách hiểu về các
thoả thuận trọng tài không quy định hoặc
quy định không rõ tổ chức trọng tài có thẩm
quyền giải quyết vụ tranh chấp.


§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
T¹p
chÝ luËt häc
45

4. Thủ tục giải quyết yêu cầu áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời
Trong quá trình hội đồng trọng tài giải
quyết vụ tranh chấp, các bên có thể nảy sinh
nhu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời để bảo toàn chứng cứ hoặc bảo đảm cho
việc thi hành quyết định trọng tài. Bản thân
trọng tài không thể ra các quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trong các

trường hợp như vậy, một bên tranh chấp có
thể làm đơn yêu cầu toà án ra quyết định áp
dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp
tạm thời. Theo Điều 33 PLTTTM thì các bên
tranh chấp có thể yêu cầu toà án xem xét áp
dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời như:
Bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng
cứ đang bị tiêu huỷ hoặc có nguy cơ bị tiêu
huỷ; kê biên tài sản tranh chấp; cấm chuyển
dịch tài sản tranh chấp; cấm thay đổi hiện
trạng tài sản tranh chấp; kê biên và niêm
phong tài sản ở nơi gửi giữ; phong toả tài
khoản tại ngân hàng.
Để thực hiện quyền này, bên có yêu cầu
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải
làm đơn gửi đến toà án cấp tỉnh nơi hội đồng
trọng tài đã thụ lý vụ tranh chấp. Đơn yêu
cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
phải gửi kèm theo các bản sao có chứng thực
hợp lệ đơn kiện, thoả thuận trọng tài và các
giấy tờ, tài liệu có liên quan đến yêu cầu.
Tuỳ theo yêu cầu áp dụng loại biện pháp
khẩn cấp tạm thời mà bên yêu cầu phải cung
cấp cho toà án bằng chứng cụ thể về các
chứng cứ cần được bảo toàn, các chứng cứ
về việc bị đơn tẩu tán, cất giấu tài sản có thể
làm cho việc thi hành quyết định trọng tài
không thể thực hiện được.
Sau khi nhận được hồ sơ yêu cầu hợp lệ,
chánh án toà án cấp tỉnh giao cho một thẩm

phán giải quyết. Thẩm phán được phân công
phải ấn định một khoản tiền bảo đảm mà bên
yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
phải nộp. Trước khi ấn định khoản tiền bảo
đảm, thẩm phán phải giải thích cho bên yêu
cầu biết các nghĩa vụ và trách nhiệm của
mình. Thẩm phán quyết định khoản tiền bảo
đảm được gửi giữ tại một trong các ngân
hàng nơi có trụ sở của toà án do bên nộp tiền
lựa chọn. Trong quyết định cần ghi rõ việc
xử lý các khoản tiền bảo đảm do toà án
quyết định.
Trước khi quyết định áp dụng biện pháp
kê biên tài sản tranh chấp hoặc biện pháp
cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp hoặc
cấm thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp,
thẩm phán cần xác định rõ tài sản đó có
phải là tài sản mà các bên có tranh chấp hay
không? Trường hợp quyết định áp dụng
biện pháp kê biên và niêm phong tài sản ở
nơi gửi giữ hoặc biện pháp phong toả tài
khoản tại ngân hàng, thẩm phán cần tính
toán sao cho giá trị tài sản bị kê biên hoặc
niêm phong; số tiền bị phong toả không
được vượt quá nghĩa vụ tài sản mà người có
nghĩa vụ phải thực hiện.
Về mặt thủ tục, trong thời hạn năm ngày
làm việc, kể từ ngày được phân công, thẩm
phán phải kiểm tra tính chính xác của những
tài liệu trong hồ sơ yêu cầu và ra quyết định

áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp
tạm thời. Quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời phải được gửi ngay cho hội
đồng trọng tài, các bên tranh chấp và viện
kiểm sát nhân dân cùng cấp. Quyết định áp


§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
46 T¹p chÝ luËt häc

dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được thi
hành ngay.
Bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời có thể làm đơn yêu cầu thay đổi
hoặc huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Khi nhận được đơn yêu cầu huỷ bỏ biện
pháp khẩn cấp tạm thời thì toà án cần chấp
nhận ngay. Trong trường hợp này nếu xét
thấy yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời của họ là đúng thì toà án cho họ
được nhận lại toàn bộ số tiền bảo đảm đã gửi
ở ngân hàng. Nếu bên yêu cầu áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời có đơn xin thay đổi
biện pháp khẩn cấp tạm thời có lợi hơn cho
phía bên kia thì toà án cần chấp nhận ngay
đơn yêu cầu của họ. Toà án có thể quyết
định cho họ nhận lại một phần số tiền bảo
đảm đã gửi tại ngân hàng. Nếu yêu cầu thay
đổi không có lợi cho bị đơn thì toà án phải
yêu cầu họ chứng minh; trường hợp cần

thiết, thẩm phán có thể yêu cầu họ nộp bổ
sung tiền bảo đảm tại ngân hàng.
Bên yêu cần áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời phải chịu trách nhiệm về yêu cầu
của mình. Trong trường hợp bên yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không
đúng và gây thiệt hại cho bên kia, cho người
thứ ba thì phải bồi thường. Trường hợp bên
yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
không đúng và gây thiệt hại cho bên kia
hoặc cho người thứ ba nhưng những người
này không yêu cầu bồi thường thì toà án
quyết định cho họ được nhận lại toàn bộ số
tiền bảo đảm. Trường hợp bên yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không
đúng và gây thiệt hại cho bên kia hoặc cho
người thứ ba và bị những người này yêu cầu
bồi thường thiệt hại với số tiền thấp hơn số
tiền bảo đảm thì toà án quyết định cho
người yêu cầu được lấy lại số tiền vượt quá
mức đó.
5. Thủ tục huỷ quyết định trọng tài
Trong quá trình giải quyết tranh chấp,
nếu các bên không hoà giải được với nhau
thì hội đồng trọng tài sẽ ra quyết định để giải
quyết tranh chấp về mặt nội dung (quyết
định trọng tài). Quyết định trọng tài là chung
thẩm và mang tính cưỡng chế thi hành đối
với các bên, trừ trường hợp toà án huỷ quyết
định trọng tài theo quy định của pháp luật.

Như vậy, PLTTTM áp dụng cơ chế huỷ
quyết định trọng tài chứ không áp dụng cơ
chế công nhận quyết định trọng tài như đối
với các quyết định của trọng tài nước ngoài
có nhu cầu được công nhận và cho thi hành
trên lãnh thổ Việt Nam. Liên quan đến việc
giải quyết yêu cầu huỷ quyết định trọng tài,
cần lưu ý các vấn đề sau:
Thứ nhất, bên không đồng ý với quyết
định trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu toà
án xem xét huỷ quyết định trọng tài trong
thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được
quyết định trọng tài. Nếu có sự kiện bất khả
kháng làm cho bên đó không nộp đơn yêu
cầu huỷ đúng thời hạn thì thời gian có sự
kiện bất khả kháng không tính vào thời hạn
yêu cầu huỷ quyết định trọng tài.
Thứ hai, hồ sơ yêu cầu toà án huỷ quyết
định trọng tài gồm: Đơn yêu cầu huỷ quyết
định trọng tài trong đó ghi rõ tên và địa chỉ
của bên yêu cầu huỷ, lý do yêu cầu huỷ
quyết định trọng tài; bản chính hoặc bản sao
được chứng thực hợp lệ quyết định trọng tài
và bản chính hoặc bản sao được chứng thực


§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
T¹p
chÝ luËt häc
47


hợp lệ thoả thuận trọng tài. Sau khi nhận đủ
các giấy tờ hợp lệ, toà án thông báo ngay
cho bên yêu cầu phải nộp lệ phí. Toà án thụ
lý kể từ ngày bên có yêu cầu nộp lệ phí.
Thứ ba, toà án có thẩm quyền xem xét
yêu cầu huỷ quyết định trọng tài là toà án
cấp tỉnh nơi hội đồng trọng tài ra quyết định
trọng tài. Để giải quyết yêu cầu huỷ quyết
định trọng tài, chánh án toà án nhân dân cấp
tỉnh chỉ định một hội đồng xét xử gồm 3
thẩm phán, trong đó có một thẩm phán làm
chủ toạ. Hội đồng xét xử phải mở phiên toà
để xét đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài.
Phiên toà được tiến hành với sự có mặt của
các bên tranh chấp, luật sư của các bên (nếu
có), kiểm sát viên viện kiểm sát cùng cấp.
Trường hợp một trong các bên yêu cầu toà
án xét đơn vắng mặt hoặc đã được triệu tập
hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính
đáng hoặc bỏ phiên họp mà không được hội
đồng xét xử đồng ý thì hội đồng xét xử vẫn
tiến hành xét đơn yêu cầu huỷ quyết định
trọng tài.
Thứ tư, khi xét yêu cầu huỷ quyết định
trọng tài, hội đồng xét xử không xem xét lại
nội dung vụ tranh chấp mà chỉ kiểm tra có
hay không có căn cứ để huỷ quyết định trọng
tài trên cơ sở xem xét hồ sơ yêu cầu huỷ và
nghe ý kiến của những người được triệu tập,

ý kiến của kiểm sát viên. Hội đồng xét xử
thảo luận và quyết định theo đa số. Hội đồng
xét xử có quyền ra các quyết định sau: Quyết
định huỷ quyết định trọng tài; quyết định
không huỷ quyết định trọng tài; quyết định
đình chỉ việc xét đơn yêu cầu nếu người nộp
đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài rút đơn
hoặc đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt
không có lý do chính đáng hoặc bỏ phiên
họp mà không được hội đồng xét xử đồng ý.
Toà án ra quyết định huỷ quyết định
trọng tài nếu bên yêu cầu chứng minh được
rằng hội đồng trọng tài đã ra quyết định
trọng tài thuộc một trong các trường hợp sau
đây: Không có thoả thuận trọng tài; thoả
thuận trọng tài bị vô hiệu; thành phần hội
đồng trọng tài, tố tụng trọng tài không phù
hợp với thoả thuận của các bên theo quy
định của pháp luật; vụ tranh chấp không
thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài;
trong trường hợp quyết định trọng tài có một
phần không thuộc thẩm quyền của hội đồng
trọng tài thì phần quyết định này bị huỷ;
những người tham gia hội đồng trọng tài
không đủ điều kiện làm trọng tài viên hoặc
trọng tài viên vi phạm nghĩa vụ của mình
như quy định tại khoản 2 Điều 13
PLTTTM; quyết định trọng tài trái với lợi
ích công cộng của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.

Nếu không có căn cứ để huỷ quyết định
trọng tài thì toà án phải ra quyết định không
huỷ quyết định trọng tài. Trong thời hạn 15
ngày, kể từ ngày ra quyết định, toà án phải
gửi bản sao quyết định cho các bên, trung tâm
trọng tài hoặc hội đồng trọng tài do các bên
thành lập và viện kiểm sát cùng cấp.
Thứ năm, các bên có quyền kháng cáo,
viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát
nhân dân tối cao có quyền kháng nghị quyết
định huỷ hoặc không huỷ quyết định trọng tài
của toà án. Thời hạn kháng cáo của các bên là
15 ngày; thời hạn kháng nghị của viện kiểm
sát cùng cấp là 15 ngày; thời hạn kháng nghị
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao là 30


§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
48 T¹p chÝ luËt häc

ngày, kể từ ngày toà án ra quyết định. Trong
trường hợp có bên không có mặt tại phiên
toà sơ thẩm thì thời hạn kháng cáo được tính
từ ngày bản sao quyết định được giao cho
bên vắng mặt; nếu kháng cáo quá hạn vì có
sự kiện bất khả kháng thì thời hạn được tính
từ ngày không còn sự kiện bất khả kháng.
Đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị phải
nêu rõ lý do và yêu cầu của kháng cáo,
kháng nghị. Đơn kháng cáo, quyết định

kháng nghị phải gửi cho toà án đã ra quyết
định. Sau khi nhận được đơn kháng cáo, toà
án thông báo ngay cho bên kháng cáo nộp lệ
phí kháng cáo. Trong thời hạn mười lăm
ngày, kể từ ngày nhận được quyết định
kháng nghị hoặc nhận đơn kháng cáo và
người kháng cáo đã nộp lệ phí kháng cáo,
toà án đã ra quyết định phải chuyển hồ sơ
lên Toà án nhân dân tối cao.
Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao
có thẩm quyền xét kháng cáo, kháng nghị.
Hội đồng xét kháng cáo, kháng nghị gồm 3
thẩm phán. Việc xét kháng cáo, kháng nghị
được tiến hành tại phiên toà với sự có mặt
của các bên tranh chấp, luật sư của các bên
(nếu có), kiểm sát viên viện kiểm sát cùng
cấp. Hội đồng xét xử xem xét đơn kháng
cáo, quyết định kháng nghị, tài liệu kèm
theo, chứng cứ (nếu có), nghe ý kiến của các
bên được triệu tập, của kiểm sát viên, thảo
luận và quyết định theo đa số. Hội đồng xét
xử không xét lại nội dung vụ tranh chấp mà
chỉ xem quyết định huỷ hoặc không huỷ
quyết định trọng tài của toà án cấp sơ thẩm
có căn cứ hay không. Khi xét kháng cáo,
kháng nghị, hội đồng xét xử không được huỷ
quyết định của toà án cấp sơ thẩm mà chỉ có
thể ra một trong các quyết định sau: Bác
kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên quyết
định của toà án cấp sơ thẩm; sửa một phần

quyết định của toà án cấp sơ thẩm trong
trường hợp toà án cấp sơ thẩm huỷ quyết định
trọng tài nhưng có phần quyết định của trọng
tài là đúng, không thuộc trường hợp bị huỷ
hoặc trong trường hợp toà án cấp sơ thẩm chỉ
huỷ một phần quyết định trọng tài nhưng có
phần quyết định khác của trọng tài không đúng
và thuộc trường hợp bị huỷ; sửa toàn bộ quyết
định của toà án cấp sơ thẩm trong trường hợp
toà án cấp sơ thẩm huỷ quyết định trọng tài
không có căn cứ hoặc toà án cấp sơ thẩm
không huỷ quyết định trọng tài trong khi có
căn cứ để huỷ; đình chỉ việc xét kháng cáo
trong trường hợp viện kiểm sát rút quyết định
kháng nghị, bên kháng cáo rút kháng cáo
hoặc đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt
không có lý do chính đáng hoặc bỏ phiên
họp mà không được hội đồng xét xử đồng ý.
Quyết định của Toà án nhân dân tối cao là
quyết định cuối cùng và có hiệu lực thi hành.
Thứ sáu, trường hợp toà án huỷ quyết
định trọng tài thì quyết định trọng tài đó
không có giá trị thi hành đối với các bên
tranh chấp. Các bên có thể thoả thuận lại với
nhau để một lần nữa, đưa tranh chấp ra giải
quyết bằng trọng tài qua trung tâm trọng tài
hoặc bằng hội đồng trọng tài do các bên
thành lập. Nếu các bên không đạt được thoả
thuận trọng tài thì một bên có thể yêu cầu toà
án giải quyết tranh chấp theo quy định của

pháp luật tố tụng dân sự.
(xem tiếp trang 85)

×