Đặc san về bộ luật tố tụng dân sự
Tạp chí luật học 49
Ths. Bùi Thị Huyền *
hiên toà sơ thẩm dân sự là một chế
định lớn, quan trọng của pháp luật
tng dõn s. Các quy định của BLTTDS về
phiên toà sơ thẩm ó cú nhiu điểm mi,
tin b, bo m tớnh thng nht, ng b
trong vic gii quyt cỏc v ỏn dõn s, phự
hp vi chớnh sỏch m ca, hi nhp quc
t ca ng v Nh nc ta. Quyn t nh
ot ca cỏc ng s c tụn trng v
phỏt huy, nõng cao trỏch nhim ca nhng
ngi tin hnh t tng. c bit, th tc
tranh lun ó c quy nh c th v rừ
rng hn, to bc t phỏ trong vic m
rng quyn tranh tng theo tinh thn ci
cỏch t phỏp.
1. Nhng im mi ca B lut t
tng dõn s v phiờn to s thm dõn s
1.1. Nhng quy nh chung v phiờn to
s thm
- Nguyờn tc tin hnh phiờn to s thm
m bo cho hot ng xột x v ỏn
dõn s c ỳng n, ngoi nhng nguyờn
tc chung c quy nh t iu 3 n
iu 24, BLTTDS cũn quy nh thờm hai
nguyờn tc tin hnh phiờn to s thm ti
cỏc iu 196 v 197.
Theo quy nh ti iu 196 BLTTDS
phiờn to s thm phi c tin hnh ỳng
thi gian, a im ó c ghi trong quyt
nh a v ỏn ra xột x hoc giy bỏo m
li phiờn to. To ỏn khụng c tu tin
thay i thi gian, a im m phiờn to vỡ
nh th s gõy tr ngi cho ng s v
nhng ngi tham gia t tng trong vic
tham gia t tng.
Theo quy nh ti iu 197 BLTTDS,
phiờn to s thm dõn s phi c tin
hnh theo phng thc xột x trc tip,
bng li núi v liờn tc. Theo quy nh ny,
to ỏn phi trc tip xỏc nh nhng tỡnh
tit ca v ỏn bng cỏch hi v nghe li
trỡnh by ca ngi bo v quyn v li ớch
hp phỏp ca ng s, ca cỏc ng s,
ngi i din hp phỏp ca ng s v
nhng ngi tham gia t tng khỏc; xem
xột, kim tra ti liu, chng c ó thu thp
c; phỏt biu tranh lun ca ngi bo v
quyn v li ớch hp phỏp ca ng s,
ca cỏc ng s, ngi i din hp phỏp
ca ng s, nghe kim sỏt viờn phỏt biu
ý kin ca vin kim sỏt v vic gii quyt
v ỏn, trong trng hp cú kim sỏt viờn
tham gia phiờn to. Bn ỏn ch c cn c
vo kt qu tranh tng, vic hi ti phiờn to
v cỏc chng c ó c xem xột, kim tra
ti phiờn to. Quy nh ny nhm bo m
cho to ỏn thm nh v xỏc minh c y
, chớnh xỏc cỏc ti liu, chng c ca v
ỏn v ỏnh giỏ chỳng mt cỏch ton din.
Vic xột x phiờn to phi c tin
hnh liờn tc, tr thi gian ngh. Cỏc thnh
viờn ca hi ng xột x phi xột x v ỏn
t khi bt u cho n khi kt thỳc, tr
trng hp khụng th tham gia xột x c
P
* Ging viờn Khoa lut dõn s
Trng i hc Lut H Ni
Đặc san về bộ luật tố tụng dân sự
50
Tạp chí luật học
phi thay i. Trong trng hp c bit do
BLTTDS quy nh, vic xột x cú th tm
ngng khụng quỏ 5 ngy lm vic. Ht thi
hn tm ngng, vic xột x v ỏn c tip
tc (khon 2 iu 197).
- Thnh phn hi ng xột x s thm
v vic thay th thnh viờn hi ng xột x
trong trng hp c bit
Trc õy PLTTGQCVADS quy nh
thnh phn hi ng xột x s thm v ỏn dõn
s gm mt thm phỏn v hai hi thm nhõn
dõn. PLTTGQCVAKT v PLTTGQTCL
quy nh thnh phn hi ng xột x s thm
v ỏn kinh t v v ỏn lao ng gm hai thm
phỏn v mt hi thm nhõn dõn. Trờn c s
k tha cỏc quy nh ny v xut phỏt t thc
tin cụng tỏc xột x ca to ỏn, iu 52
BLTTDS quy nh thnh phn hi ng xột
x s thm v ỏn dõn s gm mt thm phỏn
v hai hi thm nhõn dõn. Ngoi ra, BLTTDS
cũn quy nh trong trng hp c bit thỡ
hi ng xột x cú th gm hai thm phỏn v
ba hi thm.
BLTTDS cng quy nh vic tham d
phiờn to ca thm phỏn, hi thm nhõn dõn
d khuyt. Trong trng hp trong quỏ
trỡnh xột x, nu cú thm phỏn, hi thm
no vỡ lý do c bit, khụng th tham gia
xột x v ỏn c na thỡ thm phỏn, hi
thm nhõn dõn d khuyt s thay th. iu
198 BLTTDS quy nh vic thay th thnh
viờn trong trng hp c bit ny nhm
mc ớch gii quyt nhanh chúng v ỏn,
trỏnh vic phi hoón phiờn to. Vic xỏc
nh trong trng hp no cn cú thm
phỏn, hi thm nhõn dõn d khuyt do
chỏnh ỏn to ỏn quyt nh.
- Nhng ngi tham gia phiờn to s
thm v ỏn dõn s
m bo vic xột x trc tip,
BLTTDS quy nh tt c nhng ngi tham
gia t tng phi c triu tp tham gia
phiờn to ti cỏc iu, t iu 199 n iu
207. V c bn thnh phn nhng ngi
tham gia phiờn to s thm c BLTTDS
quy nh khụng khỏc cỏc vn bn phỏp lut
trc, tr vic tham gia t tng ca kim sỏt
viờn. Theo quy nh ti iu 2 BLTTDS,
kim sỏt viờn ch tham gia phiờn to s
thm i vi v ỏn do to ỏn thu thp chng
c m ng s cú khiu ni.
- Vn hoón phiờn to s thm
Hi ng xột x s hoón phiờn to khi
có các căn cứ quy định tại khoản 1 iu
208 BLTTDS. Thi hn hoón phiờn to tối
đa khụng quỏ ba mi ngy, k t ngy ra
quyt nh hoón phiờn to nhằm bo m
khụng kộo di thi hn gii quyt v ỏn.
Ngoài ra, BLTTDS còn quy nh rừ vic
hoón phiờn to phi c thc hin bng
quyt nh, ni dung quyt nh v th tc
ra quyt nh c quy nh c th ti iu
208 BLTTDS. Quyt nh hoón phiờn to
phi c hi ng xột x tho lun, thụng
qua theo a s ti phũng ngh ỏn v phi
c lp thnh vn bn.
1.2. Th tc tin hnh phiờn to
- Th tc khai mc v bt u phiờn to
Trc õy cỏc vn bn phỏp lut t tng
dõn s quy nh v th tc bt u phiờn to
rt s si. BLTTDS cú hn mt mc gm
bn iu lut quy nh v th tc bt u
phiờn to. Ni dung cỏc iu lut khụng cú
nhiu vn mi so vi cỏc quy nh ca
§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
T¹p chÝ luËt häc 51
các văn bản pháp luật trước nhưng chi tiết,
cụ thể hơn. Điểm mới của thủ tục này là bổ
sung quy định về khai mạc phiên toà và thư
ký toà án báo cáo với hội đồng xét xử về sự
có mặt và vắng mặt của những người tham
gia phiên toà đã được triệu tập. Trong thực
tiễn xét xử những năm qua cho thấy, mặc dù
các văn bản pháp luật không quy định
nhưng khi tiến hành phiên toà sơ thẩm các
toà án vẫn thực hiện các thủ tục trên. Việc
quy định của BLTTDS nhằm đáp ứng yêu
cầu của thực tiễn, đảm bảo tính trang
nghiêm của phiên toà đồng thời hội đồng
xét xử chủ động giải quyết khi có người
tham gia tố tụng vắng mặt.
- Thủ tục hỏi tại phiên toà
Đây là thủ tục có nhiều thay đổi nhất.
Ngay tên gọi cũng đổi từ “thủ tục xét hỏi”
thành “thủ tục hỏi tại phiên toà”. Cách gọi
đó phản ánh đúng bản chất của thủ tục giải
quyết vụ án dân sự khác với thủ tục giải
quyết các vụ án hình sự. Đối với vụ án dân
sự, mục đích của phần hỏi tại phiên toà là
toà án hỏi để làm rõ yêu cầu, quan hệ pháp
luật tranh chấp giữa các bên chứ không phải
là việc truy xét của Nhà nước về một hành
vi vi phạm pháp luật.
Trình tự của thủ tục hỏi cũng khác trước
rất nhiều. Trước kia, các văn bản pháp luật
tố tụng dân sự quy định khi khởi kiện các
đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ,
toà án thu thập thêm khi cần thiết nhưng
không có văn bản nào quy định trường hợp
nào là cần thiết dẫn đến cách hiểu nghĩa vụ
chứng minh trong vụ án dân sự là thuộc về
toà án. Vì vậy, ở thủ tục xét hỏi tại phiên
toà trong các pháp lệnh là toà án chủ động
hỏi tất cả các vấn đề của nội dung vụ án,
thậm chí theo một kế hoạch đã được định
trước, không có phần để các đương sự tự
trình bày v.v Theo BLTTDS, nghĩa vụ
chứng minh là thuộc về các đương sự,
quyền định đoạt của các đương sự được tôn
trọng triệt để hơn nên thủ tục hỏi được bắt
đầu bằng việc chủ toạ phiên toà hỏi các
đương sự về việc có thay đổi, bổ sung, rút
yêu cầu hay không (Điều 217). Để bảo đảm
quyền lợi của đương sự và đảm bảo cho
việc giải quyết vụ án đúng thời hạn, tại
phiên toà sơ thẩm hội đồng xét xử chỉ chấp
nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của
đương sự, nếu thay đổi, bổ sung yêu cầu
của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu
khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc
lập ban đầu. Trong trường hợp có đương sự
rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình
và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì
hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét
xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu
cầu đã rút. Trong trường hợp nguyên đơn
rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện nhưng bị đơn
vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố của mình
thì bị đơn trở thành nguyên đơn và nguyên
đơn trở thành bị đơn. Trong trường hợp
nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện,
bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố nhưng
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn
giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình thì
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trở
thành nguyên đơn, người có nghĩa vụ đối
với yêu cầu độc lập trở thành bị đơn. Việc
quy định thay đổi địa vị tố tụng của các
đương sự để tránh trường hợp nếu toà án ra
quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án
§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
52
T¹p chÝ luËt häc
nếu bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có yêu cầu giải quyết yêu cầu
phản tố, yêu cầu độc lập toà án lại phải thụ
lý vụ án trong khi đó quan hệ pháp luật
tranh chấp, chủ thể của các quan hệ đó
không thay đổi. Vì vậy, quy định về thay
đổi địa vị tố tụng của các đương sự nhằm
đảm bảo việc giải quyết tranh chấp nhanh
chóng, tiết kiệm, hiệu quả. Đối với việc hoà
giải, theo quy định của BLTTDS, tại phiên
toà, toà án không hoà giải mà trong phần
hỏi chủ toạ phiên toà chỉ hỏi các đương sự
có thoả thuận được với nhau về việc giải
quyết vụ án hay không. Trong trường hợp
các đương sự thoả thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án và thoả thuận của họ
là tự nguyện, không trái pháp luật hoặc đạo
đức xã hội thì hội đồng xét xử ra quyết định
công nhận sự thoả thuận của đương sự về
việc giải quyết vụ án (Điều 220). Nếu các
đương sự không thoả thuận được với nhau
thì hội đồng xét xử sẽ nghe các đương sự
trình bày. Đối với việc tham gia phiên toà của
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự, BLTTDS quy định họ thay mặt các
đương sự trình bày yêu cầu và chứng cứ chứng
minh cho yêu cầu, sau đó đương sự bổ sung ý
kiến. Khi đến phần các đương sự được hỏi tại
phiên toà người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự có thể trình bày thay đương
sự. Quy định này bảo đảm nâng cao được chất
lượng phiên toà, phát huy tối đa khả năng và
vai trò của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự trong việc tham gia tố tụng.
Điều 222 BLTTDS quy định, chủ toạ
phiên toà là người hỏi trước, sau đó đến hội
thẩm nhân dân, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự, đương sự,
những người tham gia tố tụng khác và kiểm
sát viên là người hỏi sau cùng. Quy định
này thể hiện chủ trương đổi mới của Đảng
và Nhà nước ta trong hoạt động tư pháp
theo xu hướng thực hiện dân chủ trong
phiên toà dân sự, tránh sự can thiệp của
viện kiểm sát vào việc giải quyết các tranh
chấp dân sự. Về nội dung hỏi, hội đồng xét
xử không hỏi về toàn bộ nội dung vụ án mà
chỉ hỏi về những vấn đề mà đương sự trình
bày chưa rõ hoặc có mâu thuẫn. Ngoài ra,
Điều 228 BLTTDS còn quy định khi cần
thiết, hội đồng xét xử cho nghe băng ghi
âm, đĩa ghi âm, xem băng ghi hình, đĩa ghi
hình. Đây là sự thể hiện việc ứng dụng công
nghệ trong hoạt động xét xử.
- Thủ tục tranh luận tại phiên toà
Tranh luận tại phiên toà là hoạt động
trung tâm của phiên toà. BLTTDS đã dành
hẳn một mục với bốn điều luật, từ Điều 232
đến Điều 235 quy định về tranh luận tại
phiên toà. Điều đó thể hiện xu hướng đổi
mới hoạt động tư pháp ở nước ta là mở rộng
quyền tranh luận của đương sự, đề cao vai
trò chủ động của đương sự trong việc tranh
luận ở tại phiên toà, bảo đảm cho đương sự
bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của
họ trước toà án v.v Các quy định này của
BLTTDS phù hợp với quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về cải cách tư pháp được nêu
trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
2/1/2002 của Bộ chính trị là: "Muốn nâng
cao chất lượng xét xử thì phải nâng cao chất
lượng tranh tụng dân chủ tại phiên toà".
Để tránh việc các bên khi tham gia tranh
luận chỉ dựa vào suy đoán cảm tính, tranh
§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
T¹p chÝ luËt häc 53
luận không có căn cứ, Điều 233 BLTTDS
quy định rõ khi phát biểu về đánh giá chứng
cứ, đề xuất quan điểm của mình về việc giải
quyết vụ án các bên phải căn cứ vào các tài
liệu, chứng cứ đã thu thập được và đã được
xem xét, kiểm tra tại phiên toà cũng như kết
quả việc hỏi tại phiên toà.
Về trình tự tranh luận, Điều 232 BLTTDS
quy định khi phát biểu, tranh luận người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
nguyên đơn phát biểu trước, sau đó đương sự
bổ sung ý kiến theo thứ tự từ bên nguyên đơn
đến bên bị đơn, người có quyền, nghĩa vụ liên
quan. Để đảm bảo cho đương sự và những đại
diện của họ được thực hiện đầy đủ khả năng
tranh luận, được tạo điều kiện tối đa cho họ
được sử dụng tất cả các phương pháp chứng
minh theo luật định để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình, BLTTDS không hạn
chế thời gian tranh luận nhưng chủ tọa phiên
toà chỉ có quyền cắt những ý kiến không có
liên quan đến vụ án.
- Nghị án và tuyên án
Nghị án được BLTTDS quy định tại Điều
236, 237 với tinh thần đổi mới hoạt động tư
pháp đã được đề ra trong Nghị quyết số
08/NQ-TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị là
"Việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ
yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên
cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ,
ý kiến của nguyên đơn, bị đơn và những
người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những
bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức
thuyết phục trong thời hạn pháp luật quy
định". Theo Điều 236 BLTTDS, việc nghị án
được tiến hành tại phòng riêng, chỉ có các
thành viên của hội đồng xét xử mới có quyền
nghị án. Quy định này nhằm đảm bảo nguyên
tắc nghị án bí mật, nguyên tắc thẩm phán và
hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật, tránh tình trạng thư ký toà án và
kiểm sát viên cũng có mặt trong phòng nghị
án khi nghị án. Để phát huy vai trò và trách
nhiệm của hội thẩm nhân dân trong hoạt động
xét xử, điều luật này quy định hội thẩm nhân
dân biểu quyết trước, thẩm phán biểu quyết
sau cùng. Bên cạnh đó, để đảm bảo nguyên
tắc xét xử liên tục, phát huy trách nhiệm của
các thành viên hội đồng xét xử trong việc giải
quyết vụ án, tránh việc tạm ngừng tuyên án
kéo dài, điều luật này còn quy định về thời
gian nghị án tối đa không quá năm ngày làm
việc, kể từ khi kết thúc tranh luận tại phiên
toà. Ngoài ra, một điểm mới về nghị án được
quy định tại Điều 237 BLTTDS là qua nghị
án, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa
được xem xét, việc hỏi chưa đầy đủ hoặc cần
xem xét thêm chứng cứ thì hội đồng xét xử
quyết định trở lại việc hỏi và tranh luận. Quy
định này nhằm mở rộng hơn nữa khả năng
tranh tụng tại phiên toà, thể hiện tư duy mới,
thể hiện tính dân chủ cao, tính thận trọng của
việc xét xử, bảo đảm cho bản án được tuyên
một cách khách quan, công bằng và toàn
diện.
(1)
Tuy nhiên, quy định này dễ dẫn đến
việc xét xử bị kéo dài, quyền và lợi ích hợp
pháp của các đương sự không được bảo vệ
kịp thời, không phát huy được trách nhiệm
của các thành viên hội đồng xét xử trong việc
giải quyết vụ án.
Theo Điều 239 BLTTDS thì thủ tục tuyên
án có ba nội dung mới giúp cho việc tuyên án
phù hợp với thực tế hơn. Khi tuyên án, mọi
người trong phòng xử án phải đứng dậy, trừ
§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
54
T¹p chÝ luËt häc
trường hợp đặc biệt như sức khoẻ yếu, bệnh
tật v.v. không thể đứng được được phép của
chủ tọa phiên toà có thể ngồi nghe tuyên án.
Theo các pháp lệnh thủ tục trước kia thì chỉ
có chủ toạ phiên toà mới được đọc bản án.
BLTTDS quy định việc tuyên án có thể do
chủ tọa phiên toà hoặc một thành viên khác
của hội đồng xét xử đứng đọc. Quy định này
nhằm giải quyết tình huống bản án quá dài
một người không thể đứng đọc hoặc đến ngày
tuyên án sức khoẻ của chủ toạ không tốt v.v
Ngoài ra, BLTTDS còn quy định trong
trường hợp có đương sự không biết tiếng Việt
thì sau khi tuyên án, người phiên dịch phải
dịch lại cho họ nghe toàn bộ bản án sang
ngôn ngữ mà họ biết.
2. Một số ý kiến về các quy định của
BLTTDS về phiên toà sơ thẩm dân sự
2.1. BLTTDS quy định người đại diện
hợp pháp của đương sự có quyền thay mặt
đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ
tố tụng của đương sự, vì vậy cần bổ sung
vào Mục 1 Chương XIV quy định về sự có
mặt của người đại diện tại phiên toà sơ
thẩm dân sự.
2.2. Theo quy định tại PLTTGQCVADS,
PLTTGQCVAKT, PLTTGQCTCLĐ được
ban hành trước đây, khi các đương sự vắng
mặt lần thứ nhất dù có lý do chính đáng hay
không, toà án đều phải hoãn phiên toà. Thực
tiễn xét xử những năm qua cho thấy, quy
định này là một trong những nguyên nhân
góp phần làm cho phiên toà sơ thẩm có thể bị
hoãn nhiều lần. Khắc phục tình trạng đó,
BLTTDS không quy định đối với các trường
hợp nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự vắng mặt lần thứ
nhất không có lý do chính đáng là căn cứ
hoãn phiên toà nhưng lại không đưa ra khái
niệm thế nào là có lý do chính đáng và cách
giải quyết trong trường hợp này. Vì vậy, cần
có sự hướng dẫn thống nhất để tránh việc áp
dụng khác nhau giữa các thẩm phán và các
toà án. Theo chúng tôi, cần hướng dẫn tuỳ
từng trường hợp toà án sẽ quyết định hoãn
hoặc vẫn tiến hành phiên toà. Nếu họ đã có
lời khai tại toà án, các chứng cứ, tài liệu trong
hồ sơ tương đối đầy đủ thì phiên toà vẫn có
thể tiến hành.
(2)
Đối với “lý do chính đáng” quy định tại
các điều 199, 200, 201, 203 của BLTTDS là
những lý do bất khả kháng đối với đương sự
như đương sự ốm nặng, đương sự phải đi
công tác xa chưa về kịp, gia đình đương sự
gặp thiên, tai hoả hoạn v.v
Bên cạnh đó, theo khoản 4 Điều 230
trong trường hợp tại phiên toà khi cần thiết
phải giám định lại, giám định bổ sung thì hội
đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà.
Nhưng hoãn phiên toà là việc chuyển thời
điểm tiến hành phiên toà dân sự đã định sang
thời điểm khác muộn hơn.
(3)
Như vậy, hội
đồng xét xử chỉ hoãn phiên toà khi bắt đầu
phiên toà tức là chưa xem xét giải quyết về
mặt nội dung vụ án, còn khi đã xem xét giải
quyết về mặt nội dung vụ án nhưng cần phải
thu thập thêm chứng cứ mới có thể giải quyết
được vụ án thì hội đồng xét xử phải quyết
định tạm ngừng phiên toà. Vì vậy, cần quy
định đây là căn cứ tạm ngừng phiên toà.
2.3. Về “Phạm vi yêu cầu” quy định tại
Điều 218 BLTTDS cũng là vấn đề còn gây
nhiều tranh cãi, phạm vi yêu cầu bao gồm các
§Æc san vÒ bé luËt tè tông d©n sù
T¹p chÝ luËt häc 55
loại yêu cầu hay phạm vi giá trị của yêu cầu.
Theo chúng tôi, về yêu cầu khởi kiện, yêu cầu
phản tố, yêu cầu độc lập ban đầu là yêu cầu
được ®−a ra tại buổi hòa giải cuối cùng. Để
bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các đương sự thì các đương sự phải
được biết trước các yêu cầu của đương sự
phía bên kia để chuẩn bị tài liệu, chứng cứ để
phản đối yêu cầu đó. Vì vậy, tại phiên toà
đương sự được quyền thay đổi, bổ sung yêu
cầu nhưng không được vượt quá yêu cầu khởi
kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập ban
đầu. Việc không được vượt quá yêu cầu khởi
kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập ban
đầu có nghĩa là không được đưa thêm yêu cầu
mới, không được tăng giá trị yêu cầu gây bất
lợi cho các đương sự khác.
2.4. Khi thay đổi địa vị tố tụng của các
đương sự thì tư cách đương sự trong hồ sơ,
quan hệ pháp luật tranh chấp v.v. sẽ thay đổi.
Vì vậy, cần quy định rõ kể từ thời điểm thay
đổi địa vị tố tụng các đương sự thực hiện
quyền và nghĩa vụ tố tụng theo địa vị được
thay đổi đồng thời trong biểu mẫu sổ thụ lý
vụ án dân sự cần có thêm cột ghi chú tất cả
những thay đổi đó. Các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cần có hướng dẫn cách giải
quyết những vấn đề phát sinh từ việc thay
đổi địa vị tố tụng của các đương sự theo
quy định tại Điều 219, như tên vụ án, tư
cách đương sự trong hồ sơ, quan hệ pháp
luật tranh chấp v.v
2.5. Theo Điều 288 BLTTDS, theo yêu
cầu của kiểm sát viên, người tham gia tố tụng
hoặc khi cần thiết, hội đồng xét xử cho nghe
băng ghi âm, đĩa ghi âm, xem băng ghi hình,
đĩa ghi hình. Nhưng hiện tại không phải toà
án nào cũng có thể thực hiện được quy định
này. Do đó, đòi hỏi sự cần thiết phải tăng
cường cơ sở vật chất cho các toà án.
2.6. Điều 239 BLTTDS quy định trong
trường hợp có đương sự không biết tiếng
Việt thì sau khi tuyên án, người phiên dịch
phải dịch lại cho họ nghe toàn bộ bản án
sang ngôn ngữ mà họ biết. Nhưng hiểu thế
nào là “sau khi tuyên án”. Theo chúng tôi,
bản án của toà án là phán quyết nhân danh
Nhà nước giải quyết tranh chấp dân sự.
Việc dịch bản án phải chính xác, do đó cần
có thời gian để người phiên dịch dịch bản
án sang tiếng nước ngoài. Khoảng thời gian
này vừa đủ cho người phiên dịch có thể
thực hiện được việc dịch nhưng đồng thời
cũng phải đảm bảo đủ thời gian cho đương
sự thực hiện quyền kháng cáo. Vì vậy, Điều
239 BLTTDS cần quy định theo hướng
“trong trường hợp có đương sự không biết
tiếng Việt thì chậm nhất sau năm ngày kể từ
ngày tuyên án, toà án phải triệu tập đương
sự không sử dụng được tiếng Việt đến nghe
người phiên dịch dịch toàn bộ bản án sang
ngôn ngữ mà họ biết ”./.
(1). Tài liệu hội thảo “BLTTDS - Những điểm mới và
các vấn đề đặt ra trong thực tiễn thi hành”- Học viện
Tư pháp, Hà Nội, tháng 12/2004, tr. 86.
(2). Trong trường hợp người có yêu cầu vắng mặt lần
thứ nhất không có lý do chính đáng, BLTTDS không
quy định cụ thể.
(3). Từ điển giải thích thuật ngữ luật học luật dân sự, luật
HN&GĐ, luật tố tụng dân sự - Trường Đại học Luật Hà
Nội, Nxb. Công an nhân dân năm1999, tr. 197.