Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.16 KB, 60 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
-----------------------------------------------------------------------------------
Nhìn lại lịch sử phát triển của xã hội loài người, nông nghiệp luôn luôn giữ
một vai trò quan trọng, là ngành sản xuất lương thực, thực phẩm cho xã hội,
nhiều nguyên liệu cho công nghiệp, nhiều hàng cho xuất khẩu (khi ngoại
thương phát triển). Bước vào thế kỷ XXI, với những thách thức về an ninh
lương thực, dân số, môi trường sinh thái,… nông nghiệp được dự báo là vẫn
tiếp tục giữ vai trò quan trọng ấy. Trong thế kỷ XX, nông nghiệp thế giới đã có
những bước tiến vượt bậc, phát triển từ giai đoạn sản xuất nông nghiệp truyền
thống sang giai đoạn hiện đại hoá nông nghiệp, nhờ vậy kinh tế nông thôn và
đời sống của người dân nông thôn cũng có nhiều chuyển biến. Đặc biệt, trong
vài thập kỷ trở lại đây, với sự tiến triển nhanh chóng của những xu thế lớn trên
thế giới, như cách mạng khoa học và công nghệ, toàn cầu hoá và hội nhập kinh
tế quốc tế, kinh tế thị trường hiện đại, kinh tế tri thức,… nhận thức về nông
nghiệp, nông thôn và nông dân đã có những sự thay đổi.
Ở Việt Nam chúng ta, một đất nước còn nặng về nông nghiệp, những thành
tựu của 20 năm đổi mới vừa qua, đặc biệt là công cuộc công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,… đã góp phần làm thay đổi nhận thức
về nông nghiệp, nông thôn và nông dân., Nghị quyết 5 của Trung ương khoá
IX đã đặt giải pháp về công tác quy hoạch ở vị trí đầu tiên trong hệ thống giải
pháp nhằm đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ 2001-
2010. Nghị quyết khẳng định: “Quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn
phải đặt trong tổng thể quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội cả nước, trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học,
công nghệ và thị trường;… Chú trọng làm tốt quy hoạch những vùng sản
xuất hàng hoá tập trung (cây, con, sản phẩm, ngành nghề…); quy hoạch xây
1
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xãhội; quy hoạch phát triển khu dân cư, xây
dựng làng, xã, thị trấn; gắn kết chặt chẽ với an ninh- quốc phòng, phòng
chống, hạn chế, giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường và giữ gìn bản sắc


văn hoá dân tộc".
Trong thời gian qua, dòng vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) vào lĩnh vực nông
lâm nghiệp và nông thôn (NLN&NT) còn hết sức hạn chế, chưa tương xứng
với tiềm năng cũng như thế mạnh của Việt Nam và ngày càng có xu hướng
giảm sút. Mặt khác, so với hoạt động ĐTNN trong các lĩnh vực khác, hiệu quả
thực hiện các dự án trong lĩnh vực này còn rất hạn chế. Do vậy, em xin được
chọn dề tài thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Trong quả trình
nghiên cứu chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong thầy cô và
các bạn góp ý. Em xin chân thành cảm ơn !
----------------------------------------------------------------------------------------------
2
CHƯƠNG I – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG.
I.Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ).
1. Khái niệm đầu tư nước ngoài.
Theo quỹ tiền tệ quốc tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài là số vốn đầu tư được
thực hiện nhằm thu lợi lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở một nền
kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư. Ngoài mục đích lợi nhuận, nhà
đầu tư mong muốn tìm được chỗ đứng trong quản lý doanh nghiệp.
Về thực chất, khái niệm này đã khẳng định tính lâu dài trong hoạt động đầu tư
và động cơ của các nhà đầu tư là tìm kiếm lợi nhuận và kiểm soát hoạt động
của các doanh nghiệp và mở rộng thị trường.
Theo tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài phản
ánh những lợi ích khách quan lâu dài mà một thực thế kinh tế tại một nước
(nhà đầu tư ) đạt được thông qua một cơ sở kinh tế tại một nền kinh tế khác
với nền kinh tế thuộc đất nước của nhà đầu tư (doanh nghiệp đầu tư trực tiếp).
Lợi ích lâu dài bao gồm sự tồn tại của một mối quan hệ giữa nhà đầu tư và
doanh nghiệp đầu tư cũng như nhà đầu tư giành được ảnh hưởng quan trọng và
có hiệu quả trong việc quản lý doanh nghiệp đó. Đầu tư trực tiếp bao hàm sự
giao dịch ngay từ đầu và tất cả những giao dịch vốn tiếp sau giữa hai thực thể

và các doanh nghiệp liên kết một cách chặt chẽ.
Như vậy động cơ chủ yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài là phần vốn được sử
dụng ở nước ngoài gắn liền với việc tạo ra ảnh hưởng trực tiếp hoặc phục vụ
việc kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiếp nhận
phần vốn đó.
Theo Luật Đầu tư nước ngoài bổ sung năm 1996 và trong lần sửa đổi, bổ sung
một số điều ngày 9/6/2000 (điều 2 khoản 1) của Việt Nam" FDI là việc nhà
đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền mặt hoặc bất kỳ tài sản nào
để tiến hành đầu tư theo quy định của Luật này".
3
Theo Luật này, những tài sản và vốn sau đây mới được đưa vào sử dụng nhằm
xây dựng những cơ sở mới hoặc đổi mới trang thiết bị kỹ thuật hiện có:
- Các loại thiết bị máy móc, dụng cụ (gồm cả những dụng cụ dùng để thí
nghiệm), phương tiện vận tải, vật tư kỹ thuật.
- Quyền sở hữu công nghiệp, bằng sáng chế, phát minh, phương pháp công
nghệ, bí mật kỹ thuật
- Vốn bằng ngoại tệ để chi lương cho nhân viên và công nhân làm việc ở các
cơ sở hoặc tiến hành những dịch vụ theo quy định của Luật này.
Luật này cho thấy không phải bất kỳ sự vận động nào về vốn từ nước ngoài
vào Việt Nam cũng đều là đầu tư nước ngoài. Những tài sản và vốn muốn đưa
vào Việt Nam phải tuân theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam.
2. Phân loại hoạt động FDI.
Phân loại theo tỷ lệ sở hữu vốn.
- Vốn hỗn hợp ( vốn trong nước và nước ngoài ).
Hợp đồng hợp tác kinh doanh : Hợp đồng hợp tác kinh doanh rất đa dạng,
thường được áp dụng phổ biến trong các lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí,
công nghiệp gia công và dịch vụ. Các bên tham gia hợp đồng vẫn là những
pháp nhân riêng, thời hạn hợp đồng thường ngắn. Do vậy loại hình này thích
hợp với các nhà đầu tư nước ngoài có ít tiềm lực về vốn.

Doanh nghiệp liên doanh ( công ty liên doanh): Là hình thức tổ chức kinh
doanh quốc tế do hai bên hoặc các bên nước ngoài cùng hợp tác với nước chủ
nhà trên cơ sở góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi
ro theo tỷ lệ góp vốn. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức
công ty TNHH, có tư cách pháp nhân theo luật pháp của nước nhận đầu tư.
Doanh nghiệp liên doanh là loại hình thường được nước chủ nhà ưa chuộng vì
hầu hết các doanh nghiệp liên doanh khi đầu tư, kinh doanh ở nước chủ nhà,
họ thường phải mang theo các thiết bị khoa học kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm
4
quản lý hiện đại. Tuy nhiên loại hình đầu tư này thường được nước chủ nhà áp
dụng chủ yếu đối với đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Nhưng để đạt được kết
quả mong muốn thì việc áp dụng hình thức này đòi hỏi nước chủ nhà phải có
khả năng góp vốn, các nhà quản lý doanh nghiệp phải có đủ trình độ và năng
lực quản lý, tiếp thu và ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, hiện đại của
nước ngoài.
Doanh nghiệp cổ phần FDI ( hay công ty cổ phần) là doanh nghiệp có các cổ
đông nước ngoài và trong nước ( cổ đông có thể là các cá nhân hoặc tổ chức )
nhưng cổ đông nắm quyền chi phối có quốc tịch nước ngoài, đây là hình thức
doanh nghiệp hiện đại. Tuy đều là doanh nghiệp có vốn hỗn hợp song doanh
nghiệp cổ phần FDI có cơ cấu tổ chức và cách thức hoạt động rất khác so với
doanh nghiệp liên doanh.
- Doanh nghiệp 100% vốn FDI : là doanh nghiệp do các nhà đầu tư nước ngoài
thành lập tại nước chủ nhà và họ tự quản lý, chịu trách nhiệm hoàn toàn về các
kết quả sản xuất kinh doanh. Đây là hình thức đầu tư được các nhà đầu tư nước
ngoài ưa chuộng bởi ngoài việc phải tuân thủ những quy định có tính pháp luật
của nước chủ nhà thì bên phía nước ngoài toàn quyền trong việc điều hành và
quản lý doanh nghiệp của mình, không mất nhiều thời gian tìm tiếng nói chung
với những người cùng tham gia điều hành như hình thức liên doanh.
Một số dạng đặc biệt của hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài là :
o Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao ( building – operate -

transfer) BOT.
o Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh ( building – transfer –
operate ) BTO.
o Hợp đồng xây dựng – chuyển giao ( building – transfer ) BT.
Phân loại theo mục tiêu.
FDI phụ thuộc vào mục tiêu của chủ đầu tư mà có thể chia ra làm đầu tư theo
chiều rộng ( chiều ngang – HI ) và đầu tư theo chiều sâu ( chiều dọc – VI ).
5
HI là hình thức chủ đầu tư có lợi thế cạnh tranh trong việc sản xuất một sản
phẩm nào đó ( công nghệ, kỹ năng quản lý...) và chuyển việc sản xuất sản
phẩm này ra nước ngoài.
VI là hình thức mà chủ đầu tư chú ý đến việc khai thác nguồn nguyên liệu tự
nhiên dồi dào và lao động rẻ ở nước ngoài để sản xuất các sản phẩm có thể
nhập lại về nước mình hay xuất khẩu sang nước khác.
Phân loại theo phương thức thực hiện.
FDI có thể thực hiện theo 2 hướng là đầu tư mới ( greenfield ) hoặc sáp nhập
và mua lại ( M&A – Merger and Acquisition ).
Đầu tư mới là việc chủ đầu tư thực hiện đầu tư ở bằng cách xây dựng các
doanh nghiệp mới ở nước ngoài, đây là hướng đi truyền thống và thường được
chủ đầu tư của các nước phát triển áp dụng ở nước đang phát triển.
Hướng thứ hai là sáp nhập hoặc mua lại các công ty của nước khác thường
được tiến hành giữa các nước pt, các NICs và rất phổ biến trong những năm
gần đây.
Các nước đang phát triển chủ yếu lựa chọn phương thức đầu tư mới do ở các
nước này năng lực sản xuất còn thiếu và yếu. Đầu tư mới sẽ giúp hình thành
nên hàng loạt cơ sở sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong những lĩnh vực mới
mà nhà nước nhận đầu tư chưa từng có.
3. Vai trò của đầu tư nước ngoài.
Vai trò đối với nước đi đầu tư.
Dựa trên lý thuyết xuất khẩu tư bản của Lênin thì ĐTNN là yếu tố sóng còn

của CNTB, do đó mục đích tiến hành đầu tư ra nước ngoài nhằm :
- Mục đích kinh tế : tìm kiếm lợi nhuận.
Kéo dài chu trình sống của công nghệ đã cũ, khi trong nước không còn điều
kiện phát triển thì họ có thể mang đi đầu tư ở những nước có trình độ công
nghệ thấp hơn kéo dài chu trình sống cho sản phẩm và công nghệ, nhờ vậy mà
tạo thêm được lợi nhuận.
6
Tạo ra nguồn cung cấp nguyên vật liệu mới.
- Trong trường hợp các nước phát triển đầu tư sang nhau thì một mục đích rất
rõ rệt là hợp tác và liên kết cùng với nhau để cùng phát triển, hạn chế bớt sự
cạnh tranh không cần thiết.
Vai trò đối với nước chủ nhà.
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Vốn đầu tư là yếu tố quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế của mọi quốc
gia. . Dạng đơn giản nhất của mô hình Harrod – Domar
Y
Y
k
Y
I ∂
=

.

Ý nghĩa của mô hình này là để đạt được mức tăng trưởng mong muốn, cần có
một tỷ lệ đầu tư trên GDP xác định. Nếu thiếu đầu tư thì không thể đạt được
tốc độ tăng trưởng dự định. Đầu tư có thể được tích tụ bằng cách tiết kiệm
trong nước, song cũng có thể thu nhận từ nước ngoài.
- Tạo cơ hội mở rộng thị trường.
Các chính sách giảm thuế xuất nhập khẩu, bãi bỏ hàng rào thuế quan, phi thuế

quan, chính sách tỷ giá hối đoái tự do đã làm cho hoạt động thương mại ở các
nước tham gia vào toàn cầu hoá có điều kiện tăng số lượng và các chủng loại
sản phẩm xuất khẩu. Điều này khiến cho mỗi nước phải khai thác tối đa lợi thế
so sánh của nước mình để tận dụng cơ hội cho xuất khẩu, đồng thời tăng
cường quan hệ song phương và đa phương với các nước khác.
Trong quá trình hội nhập, điều dễ nhận thấy nhất là thị trường vốn liên kết chặt
chẽ với nhau hơn, nhiều nước đang phát triển hội nhập nhanh hơn, mạnh hơn
với thị trường tài chính toàn cầu.
Việc các nước đang phát triển loại bỏ được kiểm soát dòng vốn qua biên giới,
đặc biệt là các dòng vốn chảy vào và dỡ bỏ dần những hạn chế trong thanh
toán và giao dịch thông qua tài khoản đã đẩy nhanh hơn tốc độ liên kết kinh tế
7
quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư nước ngoài. Điều đó cũng có nghĩa
là các nước có cơ hội để phát triển và mở rộng thị trường để tiêu thụ sản
phẩm, có điều kiện thu hút vốn đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài, các nguồn
viện trợ phát triển của các nước và các định chế tài chính quốc tế như ngân
hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế, ngân hàng phát triển châu Á , có điều kiện
tiếp nhận công nghệ tiên tiến thông qua các dự án đầu tư. Thông qua FDI, các
công ty trong nước có điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu và nhập khẩu,
tăng quy mô sản xuất cũng như khả năng tiếp cận đến mạng lưới tiếp thị quốc
tế.
Tuy nhiên, mức độ khai thác các tiềm năng này phụ thuộc rất nhiều vào chính
sách thu hút FDI của nước tiếp nhận đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể
là một động lực mạnh mẽ cho phát triển và tăng trưởng ở các nước đang phát
triển, nhưng nó cũng có thể gây rối loạn cho quá trình phát triển nếu không
được quản lý cẩn trọng. Các nguy cơ tiềm ẩn đối với đầu tư nước ngoài có thể
là yêu cầu bảo vệ thị trường nội địa (qua đó làm méo mó thị trường); mất khả
năng kiểm soát đối với các ngành thuộc sở hữu nước ngoài; chịu ảnh hưởng
lớn hơn trước những cú sốc từ bên ngoài.
- Góp phần nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ.

Thông qua các doanh nghiệp có vốn FDI, những công nghệ tiên tiến, hiện đại
trong các lĩnh vực như viễn thông, khai thác dầu khí, hoá chất, sẽ được du
nhập vào đất nước, tạo sự phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn. Các
doanh nghiệp có có vốn đầu tư nước ngoài có trình độ công nghệ cao hơn sẽ
có tác dụng thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước đổi mới công nghệ và nâng
cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế. - Góp
phần giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Ngày nay sự giàu có và khả năng cạnh tranh của một quốc gia không còn đơn
thuần phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có mà phần lớn phụ
thuộc vào chất lượng của nguồn nhân lực. Do vậy, một trong những cách tốt
8
nhất để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là tham gia vào hội nhập kinh tế
quốc tế bởi ở đó người lao động có điều kiện nâng cao trình độ, tay nghề và kỹ
năng sản xuất. Hơn nữa môi trường cạnh tranh để tìm kiếm việc làm trong điều
kiện hội nhập kinh tế thế giới, người lao động buộc phải tìm tòi, học hỏi và
thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, ý thức kỷ luật...để
đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của các công ty, xí nghiệp trong và ngoài nước.
Một trong những biện pháp có thể nói là hữu hiệu nhất đối với các quốc gia
trong việc giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là việc
tăng cường thu hút nguồn vốn FDI. Đối với các quốc gia đang phát triển , lực
lượng lao động dồi dào nhưng trình độ lại không cao nên thời kỳ đầu thực hiện
CNH, những nước này thường đưa ra những chính sách khuyến khích FDI vào
các lĩnh vực, ngành nghề sử dụng nhiều lao động như: công nghiệp chế biến,
công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng để tận dụng lao động địa phương. Hơn
nữa, nhiều nhà đầu tư khu vực châu Á cũng có xu hướng đầu tư vào những
ngành này để khai thác lợi thế so sánh với mục đích tìm kiếm thị trường mới
với giá lao động rẻ, lợi nhuận cao.
- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Hiện nay nhìn chung ở các nước đang phát triển, những lĩnh vực dịch vụ thu
hút nhiều đầu tư nước ngoài gồm có du lịch, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm,

thương mại và viễn thông. Điều này đã góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng phù hợp với quá trình thực hiện CNH, HĐH của các nước, nghĩa
là tỷ trọng lao động và GDP của khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng lên và
khu vực nông nghiệp giảm xuống.
- Học tập kinh nghiệm quản lý hiện đại.
Kinh nghiệm quản lý hiện đại được tích luỹ thông qua quá trình chuyển giao
công nghệ vì các nước nhận đầu tư không chỉ nhập khẩu công nghệ đơn thuần
mà họ phải học hỏi để nắm vững kỹ năng vận hành, sửa chữa, thực hiện tốt các
khâu để đạt hiệu quả cao hoặc thông qua triển khai dự án. Các nhà đầu tư nước
9
ngoài không chỉ chuyển giao máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu mà còn
chuyển giao cả những tri thức khoa học, bí quyết quản lý, kỹ năng tiếp cận thị
trường...Điều này bắt buộc các doanh nghiệp trong nước phải nâng cao trình
độ và kinh nghiệm của mình trong công tác quản lý
II. Những vấn đề lý luận chung về ĐTNN vào lĩnh vực nông nghiệp.
Có hàng loạt các yếu tố khác nhau có thể tác động tới môi trường đầu tư. Dựa
trên nghiên cứu của P.Timmer & McCulloch, các chuyên gia của Ngân hàng
Thế giới tổng kết các yếu tố ảnh hưởng tới đầu tư vào khu vực nông thôn, nhất
là tác động tới các doanh nghiệp nông thôn (Hình 1)
Hình 1: Các nhân tố ảnh hưởng tới đầu tư nông thôn
Thu nhập nông thôn phi
nông nghiệp
Di

cư Kinh

tế





Nhu cầu “địa phương”
Thu nhập từ nông
nghiệp
Cấp

vốn

Vị

trí

&

khoảng

cách

Các

nguồn

lực

sẵn



của


địa
phương

Lao

đông

sẵn



&

tiền

công

[kỹ
năng



văn

hóa]
Tiếp cận công nghệ
Tiền

gửi


về
Nhu cầu sản phẩm đầu
ra của các doanh
nghiệp nông thôn
DOANH
NGHIỆP

NÔNG
THÔN
Sản xuất nội địa phi nông
nghiệp
Nhu cầu bên ngoài
Nhu cầu từ nước ngoài
Tỷ giá hối đoái
Khả năng
• Doanh nghiệp và
kỹ năng quản lý
• Kiến thức về các
cơ hội thị trường
Cạnh

tranh
Sẵn sàng về Vốn & Chi phí
Chứng

khoán
Ổn định sở hữu đất


sở


hạ

tầng Thuế Quy

định

&

cấp

phép
Môi trườ
đầu tư
th
10
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG ĐTNN TRONG LĨNH VỰC
NÔNG LÂM NGHIỆP – NÔNG THÔN ( NLN - NT).
Luật đầu tư nước ngoài đã được ban hành ngày 26 tháng 12 năm 1987 và có
hiệu lực từ ngày 1/1/1988 đến nay đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm
1990, 1992, 1996, 2000 và 2005. Sau 20 năm, hoạt động đầu tư nước ngoài
vào lĩnh vực NLN – NT đã đạt được những thành tựu rất khả quan. Bên cạnh
đó còn một số hạn chế. Trong chương này chúng ta sẽ xem xét những thành
tựu, hạn chế trong hoạt động ĐTNN vào lĩnh vực nông nghiệp và những
nguyên nhân gây ra những hạn chế đó.
I. NHỮNG THÀNH TỰU.
1. Đầu tư bổ sung nguồn vốn cho đầu tư lĩnh vực này, góp phần tăng
nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Trong những năm kể từ sau “Đổi mới”, FDI vào Việt Nam có vai trò rất lớn
trong việc tạo vốn đầu tư xã hội, góp phần không nhỏ vào các hoạt động

kinh tế của cả nước. Trong suốt một thập kỷ qua, khu vực có vốn FDI chiếm
tỷ trọng ngày càng tăng trong GDP. Năm 2003, khu vực FDI đóng góp 14%
GDP so với tỷ lệ đóng góp 6,4% của khu vực này năm 1994. Bên cạnh đó,
khu vực có vốn FDI luôn dẫn đầu về tốc độ tăng giá trị gia tăng so với các
khu vực kinh tế khác và là khu vực phát triển năng động nhất.
Hình 2: FDI thực hiện so với tổng đầu tư toàn xã hội và so với GDP.
Nguồn: Nguyễn Thị Tuệ Anh et al, 2005.
Theo báo cáo của Nhóm cố vấn Hợp tác Quốc tế ( ISG – Bộ Nông nghiệp và
PTNT), hàng năm, khu vực nông nghiệp nông thôn thu hút khoảng 50 dự án
với giá trị khoảng 200 triệu USD. Phần lớn các dự án FDI trong nông nghiệp
có quy mô nhỏ và trung bình, phân bố gần các vùng nguyên liệu. Những
doanh nghiệp này đóng góp trên 17 triệu USD cho ngân sách và trên 500
triệu USD trong kim ngạch xuất khẩu...
Tính đến hết tháng 6 năm 2005, lĩnh vực nông, lâm nghiệp đã thu hút 782 dự
án đầu tư nước ngoài ( ĐTNN ) với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 4,1 tỉ USD,
trong đó có 623 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 3,2
tỷ đô la Mỹ, chiếm khoảng 7% vốn đầu tư đăng ký của khu vực ĐTNN cả
nước. Trong những năm đầu của thập kỷ 90, nguồn vốn ĐTNN tập trung chủ
yếu vào các dự án chế biến gỗ và các loại lâm sản. Tuy nhiên từ năm 1995
cho đến nay, nguồn vốn này được thu hút khá đồng đều vào các dự án trồng
trọt, chế biến lâm sản, sản xuất đường mía, sản xuất thức ăn chăn nuôi, chăn
nuôi gia súc gia cầm, trồng rừng và sản xuất nguyên liệu giấy. Về đại thể,
nguồn vốn Fdi đầu tư vào nông nghiệp tập trung ở một số lĩnh vực: trồng
trọt, thủy sản, chăn nuôi, công nghệ chế biến. Thực tế cho thấy trong thời
gian qua, một số lĩnh vực có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động khá hiệu quả,
cùng với thành phần kinh tế khác tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
nông nghiệp, giải quyết số lượng lao động nhàn rỗi lớn ở nông thôn, và lực
lượng lao động Việt Nam có điều kiện tiếp cận kinh nghiệm quản lý, kỹ
thuật hiện đại, từng bước làm chủ trong sản xuất khi tham gia hội nhập với
kinh tế thế giới.

Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế hiện nay, một trong những ngành
làm ăn khá tốt của các dự án đầu tư là sản xuất thức ăn gia súc. Ước tính
năm 1995, cả nước sản xuất 632.000 tấn thức ăn gia súc, trong đó số doanh
nghiệp liên doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 42,7%
thì đến nay các doanh nghiệp thức ăn gia súc có vốn đầu tư nước ngoài
chiếm tỷ lệ trên 70% trong sản lượng của cả nước là 3 triệu tấn.
Theo thống kê của cục Đầu tư nước ngoài ( Bộ kế hoạch và Đầu tư ) tính
đến tháng 6/2007 có 7.490 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký
67,3 tỷ USD, vốn thực hiện gần 30 tỷ USD. Trong đó, các dự án thuộc lĩnh
vực nông, lâm nghiệp là 758 dự án, vốn đăng ký 3,78 tỷ USD, vốn thực
hiện gần 1,9 tỷ USD. Tỷ trọng GDP trong ngành nông nghiệp chiếm 10,6%
số dự án ( qua cơ cấu đầu tư giữa các ngành ) và chỉ chiếm 7,6% tổng vốn
đầu tư trong đó ngành công nghiệp nặng chiếm tới 45,5% vốn đầu tư, công
nghiệp nhẹ chiếm 32,7%. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2007, FDI vào lĩnh
vực nông nghiệp chiếm 2,46% tương đương với 107 triệu USD trên tổng sô
4,3 tỷ USD vốn FDI của cả nước. Vốn FDI thực hiện trong nông nghiệp
nông thôn là 1,9 tỷ (chiếm 6,3%)
Hiện nay, nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp, lâm
nghiệp chủ yếu được thực hiện dưới hai hình thức là doanh nghiệp liên
doanh và doanh nghiệp 100 % vốn nước ngoài. Trong đó, hình thức 100%
vốn nước ngoài chiếm tới 77,4%, liên doanh chiếm 22,1% và hợp đồng hợp
tác kinh doanh chỉ chiếm 0,5% tổng vốn đầu tư.
Hình 3: FDI trong nông lâm nghiệp theo hình thức đầu tư (chỉ tính các
dự án còn hiệu lực). Nguồn MARD.
2. Bước đầu chủ trương chuyển dịch cơ cấu nông lâm nghiệp – nông
thôn.
Bảng 1 : Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế, 2001-2005 (%)
2000 2001 2002 2003 2004 2005
GDP 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
Nông - lâm – thủy sản

Công nghiệp – xây dựng
Công nghiệp chế biến
Dịch vụ
24,53
36,73
18,56
38,73
23,24
38,13
19,78
38,63
23,03
38,49
20,58
38,48
22,54
39,47
20,45
37,99
21,81
40,21
20,34
37,98
20,70
40,80
20,70
38,50
Nguồn: TCTK và tính toán của Viện NCQLKTTƯ.
Trong khu vực nông lâm thủy sản, sự chuyển dịch cơ cấu chủ yếu theo sự
chuyển dịch giữa hai nhóm ngành nông nghiệp và thủy sản, tỷ trọng của

ngành thủy sản tăng từ 16,0% năm 2001 lên 18,5% năm 2005, nông nghiệp
giảm từ 78,6% năm 2001 xuống 75,8%. Sự chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành
nông nghiệp chậm : tỷ trọng ngành trồng trọt chiếm 78,6% tổng giá trị sản
xuất nông nghiệp năm 2005 so với 81,0% năm 2000 ( theo giá 1994). Kết
quả lớn nhất trong chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp là chuyển dịch
trong nội bộ ngành trồng trọt theo hướng giảm diện tích trông lúa sang trồng
các loại cây khác có năng suất và giá trị kinh tế cao hơn.
3. Tiếp thu một số công nghệ mới.
Đối với lĩnh vực nông nghiệp, do có phạm vi rộng ( bao gồm cả lĩnh vực lâm
nghiệp và ngư nghiệp, thủy lợi và công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản ),
công nghệ được áp dụng trong nông nghiệp bao gồm nhiều loại như công
nghệ sinh học được áp dụng tạo ra các giống cây, con có năng suất cao, công
nghệ sản xuất và sau thu hoạch, công nghệ chế biến nông lâm hải sản, công
nghệ phát triển và quản lý tài nguyên nước; công nghệ tưới cho cây lương
thực, cây công nghiệp, cây ăn quả trên các vùng đất khác nhau; công nghệ
quản lý công trình thủy lợi; xây dựng các giải pháp để chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn, nâng cao hiệu quả của các hình thức tổ chức sản xuất, phát
triển dịch vụ phục vụ sản xuất... cho nên quá trình CGCN trong nông nghiệp
có những đặc điểm khá phức tạp và có tính chất đặc thù riêng.
Thực trạng chuyển giao công nghệ trong khu vực FDI như sau:
Trong hơn 10 năm thu hút vốn FDI, lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn đã thu
hút được một lượng vốn đầu tư nhất định. Tuy nhiên, lượng vốn đầu tư trực
tiếp cũng như các công nghệ chuyển giao chưa đáp ứng đủ nhu cầu thay đổi
cơ bản về trình độ và năng lực công nghệ trong toàn ngành do công nghệ áp
dụng trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn còn khá lạc hậu. Theo số liệu
gần đây, Việt Nam là một nước nông nghiệp có nguồn nông sản nguyên liệu
dồi dào nhưng thiết bị, công nghệ chế biến nông sản không đủ năng lực sản
xuất hàng xuất khẩu. Có thể điểm qua các số liệu sau:
- 128 nhà máy xay xát gạo, tổng công suất 2,4 triệu tấn nhưng thiết bị từ
những năm 60 (ở miền Bắc) và những năm 80 (ở miền Nam);

- 126 nhà máy chế biến thủy sản đông lạnh, 11 cơ sở chế biến bột cá, 84
doanh nghiệp chế biến nước mắm không đủ đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và
tiêu dùng nội địa;
- Ngành khai thác hải sản mới chủ yếu hoạt động gần bờ, chưa có nhiều
phương tiện tàu và máy móc phục vụ đánh bắt xa bờ.
- 18 nhà máy chế biến rau quả chỉ đảm bảo chế biến được 5% sản lượng rau
quả, chưa đáp ứng được chỉ tiêu chất lượng xuất khẩu;
- 30 nhà máy chế biến thịt của cả nước chỉ đạt tỷ lệ chế biến 1,5%;
- Các khu vực chế biến dầu thực vật, chè, cà phê, cao su cũng chưa được đầu
tư thích đáng, thiết bị cũ, hiệu quả thấp;
- Công nghệ chế biến sữa đang ở tình trạng thiếu nguyên liệu tại chỗ.
Xét theo ngành, tỷ trọng vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn
chiếm tỷ trọng nhỏ. Trong giai đoạn 1988 đến 2000, tỷ trọng vốn đầu tư vào
công nghiệp là 53,1%, dịch vụ là 41,1%, trong khi đó nông, lâm nghiệp chỉ
5,8% tổng số vốn FDI, còn qui mô của các dự án cũng nhỏ hơn so với qui mô
của các dự án trong các ngành khác. Về vốn thực hiện (lượng vốn thực sự đã
được di chuyển vào trong các ngành) trong nông nghiệp chỉ bằng 1/5 tổng số
vốn đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ và bằng 1/11 tổng số vốn đầu tư trong lĩnh
vực công nghiệp. Nhưng lực lượng lao động chủ yếu hiện nay của Việt Nam
lại ở trong khu vực nông nghiệp. Điều này cho thấy sự bất cân xứng giữa vị
trí, vai trò của lĩnh vực nông nghiệp và yêu cầu khai thác các nguồn lực phát
triển của khu vực này với tình hình thực hiện trên thực tế. Các số liệu trên còn
cho thấy lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn chưa thu hút có hiệu quả vốn
FDI. Tuy nhiên, thực tế không hẳn như vậy. Trong lĩnh vực này, nhiều dây
chuyền công nghệ mới đã được chuyển giao vào Việt Nam như dây chuyền
sản xuất các loại rau quả hộp, nước trái cây, một số liên doanh đã được thành
lập ở Việt Nam để xuất khẩu một phần hoặc toàn bộ sản phẩm như liên doanh
sản xuất thịt lợn ở Bình Dương, bột mì cao cấp ở Bà Rịa - Vũng Tàu, liên
doanh chế biến chè, hồ tiêu... Một số giống cây mới đã được đưa vào Việt
Nam cho năng suất cao như giống dứa Cayen, giống mía ấn Độ Đài Loan,

châu Mỹ La tinh. Nhiều loại thiết bị chế biến đã được đưa vào Việt Nam
thuộc loại tiên tiến và hiện đại bậc nhất thế giới như dây chuyền xay xát gạo
Satake của Nhật Bản, dây chuyền sản xuất bột mỳ của Xinhgapo, Inđônêxia,
các dây chuyền chế biến rau quả của ý, Hà Lan, các dây chuyền chế biến thịt
của úc, các dây chuyền chế biến thức ăn gia súc của Mỹ, Pháp, Hà Lan, các
dây chuyền chế biến chè của Nhật, Bỉ, Đài Loan, các nhà máy đường của
Anh, Pháp, ấn Độ, úc, Nhật, Đài Loan, liên doanh chế biến sữa và các sản
phẩm sữa, liên doanh sản xuất bia, nước giải khát, liên doanh chế biến hải
sản.... Các công nghệ mới này góp phần tạo ra một khối lượng hàng nông sản
xuất khẩu lớn, chất lượng cao và giá thành hạ, có khả năng cạnh tranh trên thị
trường thế giới. Điều này đã được khẳng định rõ trong văn kiện đại hội IX
Đảng cộng sản Việt Nam: “Trong nông nghiệp, đã ứng dụng một số thành tựu
của công nghệ sinh học; đưa một số giống mới vào sản xuất đại trà trên cơ sở
áp dụng các kết quả nghiên cứu, tuyển chọn, lai tạo giống cây trồng, vật nuôi
bằng công nghệ mới và công nghệ cao”.
Về cơ chế khuyến khích hoạt động CGCN vào lĩnh vực nông nghiệp và nông
thôn, thời gian qua Chính phủ Việt Nam đã có những chính sách khá mạnh
trong việc thu hút vốn FDI và công nghệ hiện đại vào lĩnh vực này. Chẳng
hạn, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam qui định các dự án thuộc lĩnh vực
nuôi trồng nông, lâm, thủy sản, ứng dụng công nghệ sinh học, chế biến nông
sản, lâm sản (trừ gỗ), thủy sản từ nguồn nguyên liệu trong nước xuất khẩu
50% sản phẩm trở lên, sản xuất các loại giống mới có chất lượng và hiệu quả
kinh tế cao thuộc danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư và mức thuế
thu nhập doanh nghiệp là 10% lợi nhuận thu được. Ngoài ra, việc ưu đãi thuế
cho các mặt hàng xuất khẩu, chính sách trang trại đã phát huy tác dụng, chính
sách thuế nông nghiệp đã làm yên tâm người nông dân, chính sách khuyến
nông, khuyến lâm, khuyến ngư đã giúp cho hàng triệu nông dân tiếp cận với
công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ sinh học.... Những chính sách này đang
tạo ra một môi trường sản xuất và kinh doanh hàng nông sản sôi động, có
chiều sâu và hiệu quả ngày càng tăng, làm tăng thêm tính hấp dẫn của môi

trường đầu tư trong lĩnh vực này đối với hoạt động CGCN. Ngoài ra, thị
trường xuất khẩu cũng đang ngày càng mở rộng cho hàng nông sản Việt Nam.
4. Nâng cao giá trị hàng nông sản xuất khẩu.
Đây là một thành tựu rất đáng khích lệ, nhất là trong tình hình Việt Nam đã
tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO. Việc mở cửa các thị trường là
điều không tránh khỏi, vì thế nâng cao giá trị, chất lượng hàng nông sản xuất
khẩu cũng là một biện pháp thị trường nông sản Việt Nam cạnh tranh với
hàng nông sản của các nước có thế mạnh về hàng nông sản. Đối với nông
nghiệp cam kết thuế nhập khẩu bình quân của các nông sản là 21% so với
mức hiện hành 31,6%, giảm đi 16%. Cam kết áp dụng an toàn vệ sinh thực
phẩm các sản phẩm nông nghiệp ( theo Bộ Thương m ại)
Bảng 2: Cơ cấu xuất khẩu phân theo thành phần kinh tế tham gia xuất
khẩu
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Tổng kim ngạch (tr. USD) 14.455 15.027 16.706 20.176 26.503 32.442 39.605
Tốc độ tăng trưởng (%) 25,3 4,0 11,2 20,8 31,5 22,4 22,1
DN 100% vốn trong nước 7.646 8.228 8.834 10.015 12.017 13.889 16.740
- Tỷ trọng 52,9 54,8 52,9 49,6 45,0 43,0 42,0
- Tăng trưởng (%) 11,5 7,6 7,4 13,4 20,3 15,6 20,5
DN có vốn ĐTNN 6.809 6.799 7.872 10.161 14.486 18.553 22.865
- Tỷ trọng 47,1 45.2 47,1 50,4 55,0 57,0 58,0
- Tăng trưởng (%) 45,4 -0,2 15,8 29,1 42,6 28,1 23,2
Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê và Bộ Thương mại .
Tổng doanh thu của các dự án đã đi vào sản xuất năm 2003 đạt 657,7 tỷ
đồng; kim ngạch xuất khẩu đạt trên 13 triệu USD. Bình quân một lao động
trong năm đạt 152,5 triệu đồng doanh thu, 3.000 USD giá trị xuất khẩu, 14,4
triệu đồng lợi nhuận và nộp ngân sách gần 2 triệu đồng.
Có thể nói mặc dù cơ cấu xuất khẩu đã có sự thay đổi theo hướng tích cực
trong thời gian qua, nhưng tốc độ chuyển dịch theo hướng đáp ứng yêu cầu
biến đổi của thị trường và xu thế thế giới diễn ra còn chậm, tỷ trọng hàng

thô, sơ chế vẫn còn cao. Tỷ trọng nhóm hàng chế biến công nghệ cao còn
quá nhỏ bé. Những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh và chiếm tỷ trọng
lớn đều là những mặt hàng hoặc là hạn chế về các yếu tố cơ cấu như năng
suất, diện tích, khả năng khai thác (nhóm nông, thuỷ sản và khoáng sản)
hoặc là phụ thuộc quá nhiều vào công nghệ và nguyên liệu nhập từ bên
ngoài, do đó giá trị gia tăng thấp (giày da và dệt may).
5. Đa dạng hoá sản phẩm.
Sau khi nhà nước bãi bỏ chính sách chỉ huy và sản xuất tập thể, ngày nay
nông nghiệp Việt-Nam đã thực hiện được kế hoạch đa canh. Thay vì chỉ tập
trung một một số hoa màu cổ truyền với nhiều rủi ro liên quan đến giá cả và
thời tiết, nông dân được tự do trồng đủ loại hoa màu, cây ăn trái và kỹ nghệ
với lợi tức cao hơn. Mức tăng trưởng hàng năm của khu vực nông nghiệp
giữ ở mức 3.3% và 3.5% trong hai năm 2003 và 2004, năm 2005 là 2.2% và
2006 là 3.2%.
6. Tạo việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập dân cư, cải thiện
đời sống kinh tế xã hội nhiều vùng nông nghiệp và nông thôn.
Bên cạnh hiệu quả kinh tế các dự án FDI trong nông, lâm nghiệp đã góp
phần giải quyết một số vấn đề xã hội ở những vùng có dự án. 4.799 lao động
nông thôn có việc làm mới, thu nhập cao hơn hẳn lao động của địa phương.
Trình độ nghề nghiệp của lao động nông, lâm nghiệp được nâng cao qua
thực tế sản xuất có tính hàng hóa cao của các dự án. Hệ thống cơ sở hạ tầng
nông thôn vùng có dự án được xây dựng mới và nâng cấp so với trước, nhất
là điện, thủy lợi, giao thông, cơ sở chế biến nông, lâm sản, trạm y-tế. Đối với
các vùng miền núi,vùng đồng bào các dân tộc ít người như Sơn La, Cao
Bằng, Quảng Ninh, Lâm Đồng, các dự án FDI trong nông, lâm nghiệp còn
góp phần quan trọng xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, xây dựng bản làng theo
hướng văn minh phù hợp với nền sản xuất nông, lâm nghiệp hàng hóa.
Bảng 3.

Phát


triển

nông

nghiệp



nông

thôn

Việt

Nam



Những
thành

tựu

đã

đạt

được trong


mục

tiêu

phát

triển

chính
trong

giai

đoạn

1998



2002
CÁC MỤC TIÊU
CÁC CHI
TIÊU
THÀNH TỰU ĐẠT
ĐƯỢC
2002 1998
Phát triển
Tốc độ phát triển GDP nông nghiệp, % năm
Đóng góp của nông nghiệp vào tổng GDP, %
Đóng góp của nông nghiệp vào tạo việc làm, %

4-4.5
(2010)
16-17
(2010)
23-24
(2010)
4.1 (98-2000)
23
67 (2001)
4.5 (1993-
97)
26
70
Mục tiêu 1. Giảm nghèo nông thôn
% dân số nông thôn sống dưới mức nghèo (chuẩn quốc tế)
% dân số nông thôn sống thiếu lương thực
24 (2010)
4 (2010)
35.6
13.6
45.5
18.6
Mục tiêu 2. Bảo vệ môi trường một cách bền vững
Độ che phủ rừng (%)
% dân số sống ở nông thôn tiếp cận nước sạch
38 (2005) –
43 (2010)
60 (2005) –
85 (2010)
36 (2000)

40
28
36 (1999)
Giảm tính dễ tổn thương
Tăng thu nhập trung bình trong nhóm nghèo nhất so với số
liệu năm 2000, %
90 (2010) 8.9 (98-02) 29 (93-98)
Cơ sở hạ tầng nông thôn
% xã nghèo nhất có 8 cơ sở hạ tầng nông thôn cơ bản
-% xã nghèo nhất có điện
- % xã nghèo nhất có đường giao thông đến trung tâm xã
- % công trình thủy lợi kiên cố/tạm thời
- % xã nghèo nhất có bưu điện
75 (2005) –
100 (2010)
77.6 (2010)
100 (2010)
80/50
(2010)
100 (2010)
56 (2003)
85 (2003)
94 (2003)
81 (2003)
76 (2003)
36.6 (2000)
80.9 (2000)
63 (2000).
Tạo việc làm
Sử dụng lao động nông thôn vào năm 2005 và 2010, %

80 (2005) –
85 (2010)
75
71
Nguồn: Từ các báo cáo CPRGS (2003), VDR 2004, Poverty Task Force (2001) Enhancing Access
Sách Thống Kê 2002-2003 (TCTK)
Ở Việt Nam, số lượng người làm việc trong khu vực FDI ngày càng tăng qua
các năm.Thu nhập bình quân của lao động Việt Nam trong khu vực FDI nhìn
chung cao hơn ở khu vực trong nước. Tuy nhiên, thu nhập của lao động
trong khu vực FDI cũng tuỳ thuộc vào ngành nghề, trình độ học vấn và trình
độ chuyên môn kỹ thuật, do vậy thu nhập của người lao động trong các
doanh nghiệp này có có sự chênh lệch tương đối lớn. Người lao động có
trình độ chuyên môn kỹ thuật cao có thu nhập cao gấp 3,5 lần so với lao
động phổ thông và cao gấp 2,88 lần so với lao động có trình độ sơ cấp. Các
vị trí quản lý cao cấp hiện có mức thu nhập bình quân 10,231 triệu
đồng/người/tháng, gấp 9,86 lần so với mức thu nhập trung bình của lao động
phổ thông và gấp 2,29 lần so với lao động quản lý bậc trung.
Mặc dù thu nhập của lao động trong khu vực FDI có sự chênh lệch nhưng đã
góp phần đáng kể vào việc nâng cao đời sống của người lao động và làm
tăng sức mua trên thị trường.
7. Những thay đổi chủ yếu trong chính sách thu hút FDI trong các thời
kỳ sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam
Để thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trong thời gian qua, hàng loạt
các quy định chính sách đã ban hành nhằm đơn gian hoá thủ tục, ưu đãi
đất đai, thuế, lới lỏng chính sách thương mại. Điều này cũng một phần thúc
đẩy ĐTNN vào Việt Nam trong thời gian qua.
Bảng 4 : những thay đổi chủ yếu trong chính sách thu hút FDI qua các
thời kỳ
Lĩnh vực
c/s

Luật sửa đổi năm 1992
đến 1995
Luật sửa đổi năm
1996 đến hết 1999
Luật sửa đổi năm
2000 đến nay
Trình
tự
đăng

+ Dự án FDI được
nhận giấy phép đầu tư
trong vòng 45 ngày;
+ Sau khi có giấy phép,
DNFDI vẫn phải xin đăng

hoạt động.
+ DNFDI được tự lựa
chọn loại hình đầu
tư, tỷ
lệ góp vốn, địa điểm
đầu
tư, đối tác đầu tư.
+ DN xuất khẩu sản
phẩm trên 80% được
ưu tiên nhận giấy phép
sớm;
+ Ban hành danh
mục DNFDI
được đăng ký kinh

doanh,
không cần xin giấy
phép;
+ Bỏ chế độ thu
phí
đăng ký đầu tư FDI
Phân
cấp
đăng
ký/cấp
phép
Lĩnh
vực
+ Khuyến khích các dự án
liên doanh với
doanh nghiệp
trong nước; hạn chế dự án
100% vốn nước ngoài;
+ Khuyến khích
DNFDI
đầu tư vào những
lĩnh vực định hướng
xuất khẩu, công nghệ
cao.
+ Ban hành
danh mục dự án
kêu gọi đầu tư
FDI cho giai đoạn
2001-2005
+ Mở rộng lĩnh

vực cho phép FDI
đầu tư xây dựng nhà
ở;
mua cổ phần của
các doanh nghiệp
trong nước
Đất
đai
+ Phía Việt nam chịu
trách nhiệm đền bù giải
phóng mặt
bằng cho các dự án có vốn
đầu tư nước ngoài;
+ Dự án có vốn FDI được
thuê đất để hoạt động,
nhưng
không được cho các
doanh nghi nghiệp nghiệp
nghiệp khác thuê lại.
+ UBND địa
phương tạo
điều kiện mặt bằng
kinh
doanh khi dự án được
duyệt; DN thanh toán
tiền
giải phóng mặt
bằng cho
UBND
+ Được

quyền cho
thuê
lại đất đã thuê tại
các khu CN, khu chế
xuất;
+ Được thế chấp
tài sản gắn
liền với đất và giá trị
quyền sử
dụng đất;
Quy
định
về vốn
+ Qui định vốn pháp định
không được thấp hơn 30%
tổng vốn đầu tư.
C/s
tỷ
giá,
quy
địnhvề
ngoại
tệ
+ Các dự án FDI đầu tư
hạ tầng và thay thế nhập
khẩu được nhà nước bảo
đảm cân đối ngoại tệ;
+ Các DNFDI thuộc
các lĩnh
vực khác phải tự lo cân

đối
ngoại tệ; nhà nước không
chịu trách nhiệm về cân
đối
ngoại tệ đối với các dự án
này.
+ Tự bảo đảm cân đối
nhu cầu về ngoại
tệ cho
hoạt động của mình; +
Áp dụng tỷ lệ kết hối
ngoại tệ do tác động
khủng hoảng tài chính
khu vực (80%), sau đó
nới dần tỷ lệ này.
+ DN có
thể mua
ngoại tệ
với sự cho phép của
Ngân
hàng nhà nước
+ Được mua ngoại tệ
tại
NHTM để đáp ứng
nhu cầu
giao dịch theo
luật định; + Bãi bỏ
yêu cầu chuẩn y
khi chuyển
nhượng vốn; giảm

mức phí chuyển lợi
nhuận ra
nước ngoài.
+ Giảm tỷ lệ kết hối
ngoại tệ
từ 80% xuống 50%
đến 30% và 0%
C/s
xuất
nhập
khẩu
+ DN phải bảo đảm tỷ
lệ
XK
theo đã ghi trong
giấy phép
đầu tư;
+ Sản phẩm của DNFDI
không được bán ở thị
trường
VN qua đại lý
+ DNFDI không được làm
đại
+ Bãi bỏ hoàn toàn
việc
duyệt kế hoạch xuất
khẩu
của doanh nghiệp FDI;
+ Cải tiến thủ tục xuất
nhập khẩu hàng hoá

đối
với xét xuất xứ hàng
hoá
XNK
+ Thu hẹp lĩnh
vực yêu cầu tỷ
lệ xuất khẩu 80%
sản lượng;
+ DN FDI
được tham gia
dịch
vụ đại lý XNK
C/s
thuế
lý XNK+ Áp dụng thuế
ưu đãi cho các dự án FDI
đầu tư vào cáclĩnh vực
đặc biệt ưu tiên với
mức thuế thu nhập 10%
trong
vòng 15 năm kể từ khi
hoạt
động;
+ Mức thuế thu nhập
của
DN
100% vốn nước
ngoài không
bao gồm phần bù trừ lợi
nhuận của năm sau để

bù cho
lỗ của các năm trước;
+ DNFDI không được
tính vào chi phí sản xuất
một số
khoản chi nhất định;
+ thuế nhập khẩu được áp
với
mức giá thấp trong
khung giá
do Bộ Tài chính qui định;
+ Miễn thuế nhập khẩu
đối với thiết bị, máy
móc,
vận tải chuyên dùng,
nguyên liệu vật tư ..
phục
vụ sản xuất kinh doanh
của DNFDI;
+Miễn thuế nhập khẩu
đối với DN đầu tư vào
những lĩnh
vực ưu
tiên,
địa bàn ưu tiên trong 5
năm đầu hoạt động;
+ DN xuất khẩu được
miễn thuế nhập khẩu
nguyên vật liệu để XK
sản phẩm;

+ DN cung ứng
sản phẩm
đầu vào cho
DN Xkhẩu
cũng được miễn thuế
nhập khẩu nguyên vật
liệu trung gian với tỷ
lệ
tương ứng;
+ Bãi bỏ qui định bắt
buộc DNFDI
trích quĩ dự
phòng;
+ Tiếp tục cải
cách hệ thống huế,
từng bước thu hẹp
khoảng cách về thuế
giữa đầu tư trong
nước và đầu tư
nước
ngoài
Nguồn: Trích trong Nguyễn Thị Tuệ Anh et al, 2005.
II. HẠN CHẾ.
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu về phát triển nông lâm nghiệp - nông
thôn, trong những năm qua tồn tại rất nhiều hạn chế.
1. Tỷ trọng ĐTNN vào lĩnh vực này thấp, chiếm khoảng 7% và liên tục
giảm qua các thời kỳ từ năm 1988 đến nay.
Bảng 5: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành 1988- 2006.
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI THEO NGÀNH 1988-2006
(tính tới ngày 20/10/2006 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực)

ST
T Chuyên ngành
Số dự
án TVĐT Vốn pháp định
Đầu t thực
hiện
I
Công nghiệp
4,5
66
35,466,782,
841
15,233,488,
400
19,690,247,
921
CN dầu khí 31
1,993,191
,815
1,486,191
,815
5,452,560
,006
CN nhẹ 1920
9,632,985
,205
4,297,007
,537
3,411,833
,441

CN nặng 1988
16,281,872
,920
6,535,848
,102
6,743,541
,418
CN thực phẩm 275
3,252,531
,916
1,395,521
,219
1,947,234
,568
Xây dựng 352
4,306,200
,985
1,518,919
,727
2,135,078
,488
II
Nông, lâm
nghiệp
8
32
3,873,835,
578
1,782,145,
464

1,921,406,
176
Nông-Lâm nghiệp 717
3,544,961
,398
1,636,808
,083
1,755,554
,292
Thủy sản 115
328,874
,180
145,337
,381
165,851
,884
III
Dịch vụ
1,3
63
17,967,612,
574
8,419,929,
874
6,907,525,
618
Dịch vụ 585
1,448,975
,358
665,710

,149
377,436
,247
GTVT-Bu điện 181
3,349,026
,235
2,424,248
,925
720,973
,796
Khách sạn-Du lịch 165
3,281,085
,068
1,498,703
,421
2,366,379
,125
Tài chính-Ngân
hàng 64
840,150
,000
777,395
,000
682,870
,077
Văn hóa-Ytế-Giáo
dục 224
978,529
,862
428,633

,794
351,676
,490
XD Khu đô thị
mới 5
2,865,799
,000
794,920
,500
51,294
,598
XD Văn phòng-
Căn hộ 119
4,183,447
,505
1,452,648
,488
1,828,838
,895
XD hạ tầng KCX-
KCN 20
1,020,599
,546
377,669
,597
528,056
,390
Tổng số
6,7
61

57,308,230,
993
25,435,563,
738
28,519,179,
715
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và
Đầu tư

×