Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

TIỂU LUẬN: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, THỰC HIỆN TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (988.56 KB, 89 trang )










TIỂU LUẬN:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT MỐI QUAN
HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ
PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, THỰC HIỆN
TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI











Trong bài viết này, tác giả đã phân tích 6 vấn đề bức xúc cần chú ý trong việc giải
quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội ở nước ta hiện nay. Đó là, 1/ Phải quan tâm tới thực trạng
kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá của đất nước trong mối tương quan với các
nước khác; 2/ Phải chú ý tới các hệ hình tư duy gắn với những lợi ích; 3/ Vấn đề


gia tăng dân số và các hệ luỵ của nó; 4/ Vấn đề giáo dục; 5/ Vấn đề cơ chế thị
trường. Theo tác giả, các vấn đề này đặc biệt quan trọng cả về mặt lý luận lẫn về
mặt thực tiễn, gắn liền với việc thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
Tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là
những mục tiêu về kinh tế, văn hóa, chính trị và xã hội rất quan trọng trong quá
trình chúng ta xây dựng lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, nhà nước và nền văn
hóa xã hội chủ nghĩa. Các mục tiêu này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chúng
ta đã lựa chọn cách thức phát triển kinh tế và văn hóa, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội bằng phương thức công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa đất
nước. Đây là cách thức phát triển xã hội chung của các nước đang và kém phát
triển. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa ở những nước



đang và chậm phát triển có những sắc thái rất khác nhau do quá khứ lịch sử, quá
khứ ruộng đất, thể chế chính trị và bản sắc văn hóa tạo nên. Nước ta thực hiện tăng
trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội dưới sự
lãnh đạo của một Đảng, duy nhất một Đảng mácxít, từ một quá khứ ruộng đất rất
nhỏ lẻ, manh mún, từ một lịch sử dân tộc đoàn kết và nhiều võ công, từ những
cuộc chiến lớn bước vào cơ chế thị trường trong một thế giới đang cam kết hội
nhập Tất cả những đặc điểm ấy đã đặt ra nhiều vấn đề mà chúng ta cần chú ý
trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội thông qua giải pháp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
(*)

Vấn đề thứ nhất là phải quan tâm tới thực trạng kinh tế, chính trị, xã hội và văn
hóa của chúng ta hiện nay trong tương quan với các nước đang phát triển và phát
triển trong khu vực cũng như ngoài khu vực. Vấn đề này có ý nghĩa thực tiễn và ý

nghĩa lý luận rất sâu sắc để chúng ta biết mình đang ở đâu trong thế giới này,
chúng ta cần đặt mục tiêu cho sự phát triển đến đâu và thời gian để thực hiện mục
tiêu ấy là bao lâu để tránh sự khái quát lý luận không phù hợp với thực tiễn của
quá trình phát triển.
Sự thật thì về điều kiện vật chất, cơ sở hạ tầng, thu nhập bình quân tính theo đầu
người chúng ta còn nghèo, thậm chí có những mặt, những vùng còn rất nghèo so
với ngay các nước đang phát triển ở khu vực Mỹ Latinh, ở Trung Đông, hoặc một
số nước châu Phi. Quá khứ ruộng đất của nước ta rất manh mún, điều đó đòi hỏi
phải có một hệ hình tư duy mới mới có thể đưa nền nông nghiệp lạc hậu lên sản
xuất hàng hóa. Kỹ thuật cổ điển trong nông nghiệp còn chiếm một tỷ trọng rất lớn
trong nền kinh tế quốc dân. Phải có nhiều tiền, phải có vốn liếng khổng lồ mới
nâng năng suất nông nghiệp lên được và thu hẹp thành phần nông dân lại để
chuyển vào khu vực công nghiệp.
Ở nước ta hiện nay, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn
có sự chênh lệch rất lớn làm chậm trễ sự tiến bộ xã hội và đặt ra rất nhiều vấn đề
cho công bằng xã hội. Đô thị hóa, các doanh nghiệp công nghiệp phát triển, người



nông dân mất ruộng, mất đất, không có việc làm ùa vào đội quân thất nghiệp của
thành phố, hình thành những chợ lao động mới giữa thủ đô và một số đô thị lớn,
làm cản trở sự tiến bộ xã hội, tạo nên những phản văn hóa to lớn kìm hãm tăng
trưởng kinh tế
Có thể nói, khi đề ra các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, trước hết chúng ta cần đánh giá thực trạng từng lĩnh
vực ấy cũng như các mối quan hệ khách quan và tất yếu giữa chúng. Đánh giá
thực trạng không phải chỉ nhìn vào mặt yếu kém mà chủ yếu trên quan điểm nguồn
lực, tạo nguồn.Chúng ta cần nhận thức rằng có lĩnh vực còn nhiều tiềm năng mà
thực tiễn của chúng ta chưa bộc lộ hoặc trong tương quan và ở các quan hệ này nó
chưa bộc lộ, không thể bộc lộ hay chưa có điều kiện chín muồi để bộc lộ; ngược

lại, có thể trong mối quan hệ khác, tương quan khác, nó lại bộc lộ. Không ít vấn đề
đã được thổi phồng lên như một nguồn lực lớn, nguồn lực tự nhiên, nguồn tài sản
cha ông cho cứ thế mà khai thác đến cạn kiệt. Người ta đã hối hả dùng hàng trăm
thứ chất nổ, hoá chất để tạo ra những sản phẩm từ đất, từ rừng, từ biển, ao, hồ, sông
suối. Tập quán sản xuất mới này đã gây hậu quả là hoá chất không chỉ ngấm đầy
mặt đất, nguồn nước chuyển hoá vào thực phẩm mà còn là những rác thải công
nghiệp, y tế có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của các cộng đồng dân cư. Điều đó
làm mất cân bằng sinh thái khi chúng ta giải quyết các vấn đề phát triển kinh tế và
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong giai đoạn lịch sử
mới. Nhiều người đã ngủ say và mơ mộng về những chiến công của cha ông, những
“tiền rừng, biển bạc” do thiên nhiên ưu đãi, yên ổn với các giá trị truyền thống, giữ
gìn mồ mả, đất đai của tổ tiên; do đó, họ đã mơ về “bao giờ cho đến cái ngày
xưa”! Có rất nhiều vấn đề trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội khi chúng ta
bắt đầu nhận diện thực trạng từng lĩnh vực vàmối quan hệ giữa các lĩnh vực
ấy ngay ngày hôm nay gắn liền với ngày hôm qua.
Vấn đề thứ hai cần quan tâm khi giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
phát triển văn hóa thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là phải chú ý đến các hệ



hình tư duy gắn với những lợi ích. Lợi ích địa phương, lợi ích tín ngưỡng, lợi ích thế
hệ. Mỗi hệ hình tư duy lại quan niệm về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội rất khác nhau.
Trước hết, chúng ta cần chú ý việc giải quyết mối quan hệ này liên quan đến nhận
thức về các vấn đề xoay quanh phạm trù truyền thống và hiện đại. Có rất nhiều ý
kiến và quan điểm khác nhau về tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội liên quan tới việc gìn giữ các giá trị truyền thống và
phát triển cái hiện đại. Có ý kiến duy nhất hóa sự tăng trưởng kinh tế, cho rằng
muốn công bằng xã hội thì kinh tế phải giàu có. Kinh tế cũng là thước đo văn hóa và

tiến bộ xã hội. Quan điểm này dẫn đến cứ tăng trưởng lực lượng sản xuất tức khắc
văn hóa phải phát triển theo và công nghệ phát triển thì tiến bộ xã hội sẽ được thực
hiện. Sản phẩm xã hội nhiều thì tất mọi người sẽ được chia phần.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa Ở nước ta hiện nay, một
số người nhân danh khoa học kỹ thuật, nhân danh sự phát triển tương lai của dân
tộc, họ rất ít chú ý đến truyền thống. Họ hướng sự phát triển đất nước theo con
đường các nước tư bản công nghiệp. Từ đó nảy sinh sự bất bình đẳng chính kiến,
có sự va chạm mạnh các chuẩn mực và giá trị văn hóa, làm mất công bằng xã hội.
Có một tình hình ngược lại, một số người đã nhân danh việc gìn giữ các giá trị
truyền thống, họ ra sức bảo tồn từng tấc đất, phong tục tập quán, mồ mả của cha
ông cản trở công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế. Thực tế này những
năm qua chúng ta đã gặp các hệ hình tư duy của doanh nhân công nghiệp và hệ
hình tư duy của những người tiểu nông. Những doanh nhân này muốn lấy đất đai
của nông dân để phát triển công nghiệp bằng mọi giá, không cần biết tương lai của
người nông dân sẽ ra sao. Ngược lại, chúng ta cũng bắt gặp những người nông dân
giữ lại đất đai của mình bằng mọi giá, không quan tâm đến lợi ích của doanh
nghiệp, của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Có một hệ hình tư duy khác xuất phát từ các tín ngưỡng, các niềm tin tôn giáo đã
đặt lợi ích của tín ngưỡng lên trên luật pháp và tiến bộ xã hội, phát triển văn hóa.
Do có sự giảm quyền lực của các lãnh tụ tinh thần địa phương, do chưa nắm vững



luật pháp nhà nước, do nhận thức không đúng về tự do và tất yếu trong lĩnh vực
tiến bộ và công bằng xã hội mà đã tạo ra những xung đột văn hóa. Đó là chưa kể
đến các thế lực bên ngoài vì những lợi ích đen tối đã làm rối loạn mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở
nước ta.
Chung quanh những vấn đề về nhận thức gắn với các lợi ích khi giải quyết mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công

bằng xã hội cần phải chú ý đặc biệt đến vấn đề thế hệ. Giữa thế hệ trẻ và thế hệ già
ở nước ta tuy không có mâu thuẫn, nhưng có khác biệt. Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, tăng trưởng kinh tế, toàn cầu hóa và hội nhập là cơ hội thăng tiến lớn của thế
hệ trẻ. Thế hệ trẻ là những người chủ tương lai của nước nhà. Họ là nguồn lực to
lớn phát triển văn hóa và kinh tế cũng như tiến bộ xã hội. Vấn đề công bằng xã hội
phải được giải quyết trên cơ sở cống hiến và hưởng thụ. Không thể giải quyết theo
quan điểm gia trưởng. Phải tin tưởng mạnh mẽ vào thế hệ trẻ mới giải quyết tốt
đẹp mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng
xã hội. Thực tế hiện nay có một bộ phận giới trẻ quan niệm chưa đúng đắn về bản
sắc dân tộc của văn hóa, chưa quan tâm đến các giá trị truyền thống, chưa đưa văn
hóa vào trong phát triển kinh tế. Vấn đề đặt ra là, chúng ta phải quan tâm sâu sắc
đến bộ phận này khi giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển
văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
Một vấn đề lớn của nhận thức được đặt ra khi giải quyết mối quan hệ này là phải đặt
vào thực tiễn quá khứ chiến tranh ở Việt Nam. Cuộc chiến tranh khốc liệt ở Việt Nam
đã làm nhiều gia đình không còn sức lao động tham gia phát triển kinh tế. Nhiều gia
đình có thương binh, liệt sĩ, có người bị nhiễm chất độc da cam mà xã hội phải giúp
đỡ nhân đạo. Để giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội,
chúng ta phải có một chính sách đặc biệt đối với các đối tượng này.
Vấn đề thứ ba đặc biệt quan trọng là vấn đề gia tăng dân số và các hệ lụy từ
nó trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Tính đến năm 2008, dân số của chúng ta là



85 triệu người. Mặc dù chúng ta đã kiềm chế được mức sinh 1,2%/năm, nhưng so
với phát triển kinh tế thì mức sinh vẫn cao. Trong tổng kết điều tra dân số và nhà ở
năm 2009, Việt Nam có một tỷ lệ dân số vàng, nghĩa là số người đến tuổi lao động
gấp đôi những người ngoài tuổi lao động. Sự thật thì tỷ lệ ấy chưa nói lên điều gì
khi mà kỹ năng lao động của những người đến tuổi lao động rất thấp. Tăng dân số,

miệng ăn nhiều, đất đai vẫn vậy. Đất đai đã nhỏ lẻ, dân số mỗi gia đình nông dân
tăng lại chia nhỏ ra mãi. Khu vực nông nghiệp đã kém phát triển, nay lại bổ sung
thêm một đội quân đông hơn, thiếu đất đai, thiếu việc làm. Sự gia tăng dân số
trong khu vực nông nghiệp gắn với nhiều hủ tục văn hóa, không những không
phản ánh sự tiến bộ xã hội mà còn tạo ra nhiều sự không công bằng trong giáo dục
và y tế. Nhà đông con, xã hội phải lo trường học và chữa bệnh.
Nghịch lý thay, để tăng trưởng kinh tế chúng ta đang cần rất nhiều lao động có kỹ
năng để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhưng số người thất nghiệp, số
người dôi dư trong lao động không chỉ đặt vấn đề chúng ta phải lo công ăn việc
làm mà còn an ninh xã hội. Nạn đề đóm, hút hít, trộm cắp có cội nguồn từ nạn thất
nghiệp. Vấn đề đặt ra cho tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội là chúng ta phải có một chính sách kiểm soát quyết liệt đối
với việc gia tăng dân số. Ở Trung Quốc, chính sách mỗi gia đình chỉ có một con
được thực hiện rất nghiêm ngặt tạo đà cho kinh tế, văn hoá và xã hội Trung Quốc
vươn lên mạnh mẽ.
Vấn đề thứ tư là vấn đề giáo dục. Chúng ta vẫn nói, giáo dục là quốc sách hàng
đầu, bởi giáo dục quyết định tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, tiến bộ xã hội
và thể hiện sự công bằng trong các cơ hội phát triển con người.
Tầm quan trọng của giáo dục đối với tăng trưởng kinh tế là hết sức rõ ràng. Nền
giáo dục mạnh thể hiện sự giàu có của đất nước. Các quốc gia giàu có nhất là các
quốc gia đã đầu tư rất nhiều vào giáo dục. Tất cả các nước tiên tiến đều đầu tư cho
giáo dục đi trước hàng thập kỷ phát triển công nghiệp. Ở Nhật Bản, một nửa dân
số nam giới đã được nâng cao học vấn trước khi công nghiệp hóa hàng thế hệ.
Ngay từ năm 1840, ở Hoa Kỳ có tới 90% người da trắng được học hành tử tế.



Những quốc gia thành công trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế
do ưu tiên giáo dục khoa học tự nhiên và giáo dục hợp lý khoa học xã hội và khoa
học nhân văn.

Giáo dục cũng liên quan mật thiết đến phát triển văn hóa. Từ ghế nhà trường,
người ta gìn giữ bản sắc dân tộc của văn hóa bằng sự truyền thụ những giá trị văn
hóa của dân tộc, lớp trẻ được tiếp xúc một cách bài bản, khoa học với nhiều nền
văn hóa quốc tế. Ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật, cả các tri thức dân tộc học, xã hội
học… đã tăng cường mối quan hệ giữa văn hóa dân tộc và các giá trị văn hóa của
loài người tiến bộ.
Giáo dục là nơi truyền đạt các tri thức tiến bộ và đề xuất, phân tích, nghiên cứu các
mô hình tiến bộ xã hội Thông qua giáo dục, người ta có thể lựa chọn những mô
hình phù hợp với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Giáo dục còn là nơi dạy dỗ
đạo lý làm người, tình cảm đồng loại và những chuẩn mực công bằng xã hội và
đặc biệt là đào tạo nhân tài. Vì thế, khi giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nhất thiết chúng
ta phải quan tâm toàn diện, triệt để và liên tục đến giáo dục.
Hiện nay, dân số của chúng ta tăng nhanh hơn rất nhiều so với những cơ sở giáo dục.
Nhân dân đang rất cần trường sở có chất lượng cho con em họ học tập từ nhà trẻ, lớp
vỡ lòng đến tiểu học, trung học, đại học và sau đại học. Tuy chúng ta đã coi giáo dục
là quốc sách hàng đầu, nhưng giáo dục vẫn không đủ nguồn tài chính kịp thời đáp ứng
với việc tăng dân số. Hệ thống trường sở, cơ sở vật chất cho giáo dục đã rất cũ kỹ, lạc
hậu. Ở vùng xa, vùng sâu, ở vùng nông thôn rộng lớn, các cơ sở vật chất của giáo dục
đã xuống cấp nghiêm trọng cần một nền tài chính lớn để xây dựng lại.
Cùng với việc thiếu cơ sở giáo dục, sự xuống cấp về trường sở, nền giáo dục của ta
rất cổ điển. Người ta thường nói rằng, giáo dục ở Việt Nam thừa thầy, thiếu thợ.
Thực tế cho thấy, thầy giỏi đang rất thiếu, do đó chưa đào tạo được nhiều trò giỏi.
Chương trình giáo dục các cấp của chúng ta liên tục thay đổi nhưng vẫn không đáp
ứng được những đòi hỏi của thực tiễn phát triển đất nước. Sự nghiệp nâng cao dân
trí, phát triển đất nước không chỉ cần những kiến thức cơ bản mà còn cần cập nhật



và ứng dụng. Đội ngũ đi giáo dục cần phải được đào tạo lại cho phù hợp với thực

tiễn phát triển của dân tộc và thế giới. Có thầy giỏi mới có trò giỏi. Ta thường nói
chúng ta học hay vì bằng cấp mà ít quan tâm đến thực chất. Nhưng sự thật bằng
cấp của chúng ta cũng không đủ để nền giáo dục quốc tế thừa nhận các giá trị.
Hiện nay, trong giáo dục ở nước ta có tình hình bằng thật mà học giả. Có rất nhiều
người trong các cấp học chưa nắm vững chương trình mình theo học. Đầu vào chất
lượng kém, do đó không thể đào tạo tốt được. Không đào tạo tốt nên đầu ra chưa
đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước.
Thực tiễn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển văn hóa, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội đòi hỏi hệ thống giáo dục tự điều chỉnh và dự báo để
đáp ứng với cơ cấu giáo dục. Chúng ta cần bao nhiêu những người nghiên cứu
khoa học xã hội và nhân văn? Chúng ta cần bao nhiêu những lao động có các trình
độ khác nhau về khoa học tự nhiên và kỹ thuật? Điều đó có ý nghĩa chiến lược
không chỉ cho phát triển chính ngành giáo dục, mà còn cho phát triển kinh tế - xã
hội của quốc gia.
Cần có ngay một cuộc cách mạng trong giáo dục trên toàn bộ các khâu từ trường
sở đến nội dung giáo trình, giáo án, kế hoạch và chỉ tiêu đào tạo thầy giáo và học
sinh cũng như mọi vấn đề liên quan đến giáo dục mới có thể đáp ứng được nhu cầu
phát triển đất nước và nâng cao thu nhập quốc dân, phát triển văn hóa, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội. Hiện nay, chúng ta đang ra sức xã hội hóa giáo
dục để giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước. Tuy nhiên, xã hội hóa tràn lan thì chất
lượng đào tạo không cao và sự nghiệp trồng người của chúng ta mang dáng dấp
những dịch vụ thương mại. Phải kiểm soát quá trình xã hội hóa này một cách chặt
chẽ và nghiêm túc, bởi nó có ảnh hưởng to lớn đến chất lượng tăng trưởng kinh tế,
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Vấn đề quan trọng thứ năm trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là vấn đề cơ chế
thị trường.Hiện nay, chúng ta thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa
để tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ xã hội trong điều kiện




kinh tế thị trường. Dù chúng ta đã định hướng xã hội chủ nghĩa thì cơ chế thị
trường vẫn là cơ chế thị trường. Sức mạnh của cơ chế thị trường dù có sự can thiệp
của nhà nước thì hiệu quả kinh doanh vẫn là chủ yếu. Các vòng quay lợi nhuận
không quan tâm đến người nghèo, người giàu, đến tiến bộ xã hội, công bằng xã hội
và sự cân bằng các giá trị văn hóa. Lợi nhuận là một nguyên tắc tuyệt đối cứng
trong cơ chế thị trường. Do lợi nhuận và lợi nhuận cao, có thể các lực lượng ngang
nhau trên sân chơi thương mại phải tạo được thế quân bình để duy trì sự vận động
của các lợi ích. Tuy nhiên, cuối cùng vẫn có người được, người mất. Và trong cơ
chế thị trường thì người ta mong được lớn, được tối đa; do đó, không thể xác lập
được sự công bằng toàn diện.
Vẫn biết cơ chế thị trường nào cũng không thể có tự do vô hạn độ, song chiều sâu
nhất của cơ chế thị trường vẫn phải chấp nhận sự bất bình đẳng, sự bất công, chấp
nhận kẻ mạnh thì được, kẻ yếu thì thua, nó rất ít quan tâm đến trình độ nhân tính của
văn hóa, gìn giữ các giá trị truyền thống. Nhiều nhà triết học có tâm huyết hiện nay
đều thừa nhận rằng, quy luật kinh tế thị trường thử thách gay gắt sự tăng trưởng kinh
tế, tàn phá dữ dội những giá trị văn hóa tốt đẹp, thúc đẩy chủ nghĩa thực dụng, tạo ra
sự phân tầng xã hội to lớn làm mất công bằng sâu sắc giữa các khu vực, các tầng lớp
trong xã hội. Phải nói rõ hơn, các thị trường tài chính, ngân hàng, chứng khoán, lao
động, vay nợ nước ngoài, các làn sóng xuất khẩu, đầu tư, tin học của quá trình toàn
cầu hóa đã mang lại cơ hội lớn để chúng ta giải quyết các vấn đề lợi ích quốc gia, lợi
ích dân tộc, lợi ích quốc tế, lợi ích cá nhân Song, chính cái thị trường ấy cũng chứa
đầy những hiểm nguy có thể đe dọa sự tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, làm
rối loạn sự tiến bộ và công bằng xã hội bởi những sự mất mát, những đổ vỡ, những
nô dịch, tha hóa vô nhân đạo.
Rõ ràng, vấn đề tăng trưởng kinh tế bền vững, phát triển văn hóa tốt đẹp, thực hiện
công bằng và tiến bộ xã hội thành công không chỉ là vấn đề của lực lượng sản
xuất, vấn đề lao động, thu nhập bình quân, mà còn có liên hệ bản chất tới chế độ
xã hội, đến chính sách làm giảm sự tập trung quyền lực và những nguồn tài
nguyên trong tay một tầng lớp nhỏ đặc quyền của xã hội. Ở Việt Nam hiện nay, cơ




chế thị trường mới vận hành chưa đầy 25 năm nhưng đã có rất nhiều vấn đề đặt ra
cho cả tăng trưởng kinh tế lẫn phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội. Vì
sao cơ cấu lao động đơn giản trong nông nghiệp của chúng ta còn lớn đến như
vậy? Vì sao nhiều nghề lao động đơn giản lại có thu nhập lớn hơn nhiều lần lao
động phức tạp. Vì sao nhiều sản phẩm lao động trí óc phức tạp vẫn chưa có thị
trường? Có thể nói, chúng ta chưa xác lập được một hệ chuẩn khoa học điều chỉnh
sự cân bằng ngay trong phạm vi mỗi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, tiến bộ và công
bằng xã hội. Chúng ta đã coi văn hóa là nền tảng tinh thần của sự phát triển xã hội,
nhưng trong cơ chế thị trường hiện nay, cái hệ chuẩn mực, cái khung giá trị của nền
tảng tinh thần ấy được xác định như thế nào? Đó chính là vấn đề quan trọng đặt ra
để giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, tiến bộ và công
bằng xã hội.
Do chưa có một hệ chuẩn mực đúng, một khung giá trị đủ bao quát các lĩnh vực
quan trọng của đời sống mà trong mọi lĩnh vực còn xảy ra tình trạng vô chuẩn,
không tạo được mối liên hệ nội tại phổ biến trong tăng trưởng kinh tế, phát triển văn
hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Để thực hiện và giải quyết tốt đẹp mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội,
nhất định chúng ta phải xây dựng môi trường xã hội chủ nghĩa trong cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với một hệ chuẩn và một khung giá trị thật tiến
bộ. Chỉ có môi trường này với sự định hướng tích cực của nhà nước xã hội chủ
nghĩa thì các song đề phát triển kinh tế, văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội mới
được định hướng mạnh mẽ theo hướng nhân đạo hóa, vì một chủ nghĩa nhân văn
cao cả, vì những giá trị của con người và từ định hướng đó, “sự phát triển tự do của
mỗi người trong sự phát triển tự do của tất cả mọi người” mới được thực hiện.
Cùng với các vấn đề xây dựng một hệ chuẩn mực và những khung giá trị, việc giải
quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội còn đòi hỏi phải quan tâm đến vấn đề chống tham nhũng. Vấn

đề này được dư luận xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng, văn kiện của
Đảng đề cập liên tục. Có tham nhũng lớn thì kinh tế không thể phát triển bền vững,



có tham nhũng rộng thì không thể nói xã hội có sự phát triển văn hóa, có tham
nhũng sâu thì không thể nói có tiến bộ và công bằng xã hội được.
Có thể nói, để giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội có rất nhiều vấn đề cần phải chú ý. Trong
bài này, chúng tôi chỉ nêu lên 6 vấn đề. Những vấn đề đó có nội hàm rất rộng cả về
lý luận lẫn thực tiễn và liên quan tới rất nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Các vấn đề này gắn liền với việc thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh; đồng thời, là giải pháp trực tiếp để giải quyết tốt
đẹp mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội.q


(*) Giáo sư, tiến sĩ, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.



XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI – M
ỘT
CÔNG CỤ QUAN TRỌNG NHẰM TH
ỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở
NƯỚC TA

PHẠM THỊ NGỌC TRẦM
(*)



Bài viết đã luận chứng nhằm làm rõ rằng, hệ thống an sinh xã hội mạnh là một công cụ
quan trọng góp phần thực hiện công bằng xã hội. Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống
an sinh xã hội có vai trò và ý nghĩa to lớn đối với mỗi cá nhân cũng như cộng đồng và
toàn thể xã hội. Tác giả bài viết đã trình bày các khái niệm an sinh xã hội và hệ thống an
sinh xã hội; phân tích việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội trên các mặt:
cấu trúc (các hợp phần cơ bản), chức năng, nhiệm vụ, các thể chế và nguyên tắc cơ bản
của hệ thống, coi đó là một nhiệm vụ cấp bách và thiết thực nhằm thực hiện công bằng



xã hội, bảo đảm cuộc sống an toàn cho mọi người dân, sự ổn định và phát triển bền vững
của xã hội.

1. Công bằng xã hội là một khái niệm mang tính tổng hòa nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội, dùng để chỉ sự ngang bằng nhau trong mối quan hệ giữa người và
người theo nguyên tắc phân phối lợi ích (cả vật chất lẫn tinh thần) phù hợp giữa
cống hiến và hưởng thụ, giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa thưởng và phạt…, đồng
thời với việc thực hiện phân phối theo phúc lợi xã hội và an sinh xã hội.
Tuy nhiên, để công bằng xã hội có thể trở thành hiện thực cần phải có những điều
kiện cụ thể trong nhiều lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, xã hội đến văn hóa, giáo
dục… Trên bình diện chung, những điều kiện quan trọng nhất để tiến tới công
bằng xã hội hiện nay ở nước ta là phải thực hiện sự bình đẳng xã hội, phân phối
theo phúc lợi xã hội và xây dựng, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Hệ thống an
sinh xã hội vừa là công cụ đắc lực làm giảm thiểu sự bất bình đẳng xã hội, vừa
là phương tiện chuyển tải và thực hiện những chính sách xã hội của Nhà nước và
cộng đồng đến người dân nhằm thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm cuộc sống an
toàn cho mọi người, sự ổn định và phát triển bền vững của xã hội.
(*)


2. Mối quan hệ giữa công bằng xã hội và bình đẳng xã hội. Về mặt khái niệm,
công bằng xã hội và bình đẳng xã hội rất gần nhau, vì chúng đều là sự ngang bằng
nhau giữa người với người. Tuy nhiên, nếu bình đẳng xã hội là sự ngang bằng
nhau giữa người với người về một phương diện nào đó của cuộc sống, chẳng hạn
như về chính trị, kinh tế, văn hóa, v.v. hoặc về mọi phương diện (bình đẳng xã hội
toàn diện), thì công bằng xã hội là sự ngang bằng nhau giữa người với người chỉ
về một phương diện hoàn toàn xác định: phương diện quan hệ giữa cống hiến và
hưởng thụ, giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Như vậy, công bằng xã hội chỉ là một
dạng, một trường hợp đặc biệt của bình đẳng xã hội, là một quyền của con người
sống trong xã hội như các quyền được sống, được độc lập, tự do…, được hưởng
hạnh phúc, v.v Công bằng xã hội không phải là một quyền của con người nghiễm
nhiên được hưởng, nếu không có cống hiến tài năng và sức lực của mình dưới mọi



hình thức lao động (lao động chân tay, lao động trí óc), trừ những người đã già
yếu, những người bị bệnh tật hiểm nghèo, bị tật nguyền bẩm sinh, trẻ em chưa đến
tuổi lao động và các loại cống hiến khác như vốn, tài sản, tư liệu sản xuất. Để có
được công bằng xã hội cần phải có những điều kiện cụ thể, bắt buộc, trước tiên là
quyền bình đẳng. Chẳng hạn, trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, tuy
đang đồng thời tồn tại nhiều thành phần kinh tế từ cá thể, liên doanh với nước
ngoài, hợp tác xã đến các doanh nghiệp nhà nước, nhưng về nguyên tắc, tất cả
đều bình đẳng với nhau trong sản xuất, kinh doanh trong giới hạn của luật pháp
hiện hành; mọi công dân, mọi thành phần kinh tế đềucó quyền bình đẳng với nhau
trước pháp luật; mọi người đều có quyền bình đẳng trong sáng tác và hưởng thụ
văn hóa, nghệ thuật, nếu điều đó không vi phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục và
đặc biệt là luật pháp, v.v
Bình đẳng được coi là một quyền của con người sống trong xã hội. Tuy nhiên,
quyền bình đẳng cũng như nhiều quyền khác của con người không phải lúc nào
cũng được thực hiện một cách đầy đủ, mà nó phụ thuộc rất chặt chẽ vào trình độ

phát triển của xã hội, và hơn thế, cũng không bao giờ được thực hiện một cách vô
hạn định. Trong Phê phán cương lĩnh Gôta, C.Mác đã viết: “Quyền không bao giờ
có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do
chế độ kinh tế đó quyết định”(1). “Quyền” ở đây được hiểu là quyền lợi, lợi ích cả
vật chất lẫn tinh thần.
Như đã nói ở trên, công bằng xã hội là sự ngang bằng nhau giữa người và người
chỉ được thực hiện trong một lĩnh vực hoàn toàn xác định – lĩnh vực mối quan hệ
giữa cống hiến và hưởng thụ, nghĩa vụ và quyền lợi. Do đó, thực hiện công bằng
xã hội là giải quyết đúng đắn, thỏa đáng, hợp lý mối quan hệ này, làm sao để sự
hưởng thụ hay những quyền lợi mà con người được hưởng phải phù hợp với những
cống hiến của họ cả về vật chất lẫn tinh thần, đó chính lànguyên tắc cống hiến
ngang nhau thì được hưởng thụ bằng nhau hay nguyên tắc trả ngang giá. Cũng cần
phải xác định rằng, sự ngang bằng nhau ở đây không thể tuyệt đối, mà chỉ là tương
đối. Ngoài ra, để công bằng xã hội được thực thi cần phải tuân theo một nguyên tắc



quan trọng khác, đó là nguyên tắc tự nguyện của công bằng xã hội. Nguyên tắc này
quan hệ chặt chẽ với nội dung quan trọng nhất của công bằng xã hội – nội dung về
sự phân phối lợi ích cho người lao động theo nguyên tắc cống hiến ngang nhau thì
hưởng thụ bằng nhau.
Trong nội dung phân phối của công bằng xã hội còn có một kiểu phân phối khác
không hoàn toàn tuân theo nguyên tắc cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ bằng
nhau, đó là sự phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Kiểu phân phối này rất gần
hay cũng có thể nói, gắn liền với sự bình đẳng xã hội. Nếu như phân phối theo
nguyên tắc cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ bằng nhau, tức là phân phối theo
lao động, theo nguồn vốn và theo các nguồn lực khác, lấy hiệu quả kinh tế, giá trị
và vật chất cụ thể làm thước đo để phân phối, thì phương thức phân phối thông qua
phúc lợi xã hội lại quan tâm chủ yếu đến hiệu quả xã hội, đến giá trị nhân đạo.
Chính điều này làm cho phương thức phân phối theo phúc lợi xã hội gần gũi hơn

với bình đẳng xã hội về phương diện kinh tế và xã hội.
Tiền đề cơ bản và quan trọng để thực hiện công bằng xã hội là sự bình đẳng về cơ
hội cho tất cả mọi người trong cống hiến (được lao động dưới mọi hình thức) để
có thể có được sự hưởng thụ những lợi ích về vật chất và tinh thần phù hợp với
cống hiến đó. Trong Văn kiện Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã viết:
“Công bằng xã hội thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu
phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát
triển và sử dụng tốt năng lực của mình”(2); trong Văn kiện Đại hội X ghi rõ: “Tạo
điều kiện và cơ hội tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển” (tác giả nhấn
mạnh)(3).
Việc tạo cơ hội tiếp cận bình đẳng với các điều kiện và nguồn lực phát triển thực
sự là tiền đề, nền tảng cần thiết cho mọi thành viên trong xã hội không phân biệt
đẳng cấp, dân tộc, tôn giáo, vùng, miền đều có thể được hưởng sự công bằng xã
hội bằng chính sức lực và tài năng của mình. Càng giảm thiểu sự bất bình đẳng xã
hội trong việc tiếp cận với các điều kiện và nguồn lực phát triển cũng như các dịch
vụ xã hội (dịch vụ công) thì càng có nhiều cơ hội thuận lợi để thực hiện công bằng



xã hội.
Vậy, làm thế nào để có thể giảm thiểu sự bất bình đẳng xã hội nhằm thực hiện
ngày càng tốt hơn sự công bằng xã hội? Một trong những phương thức quan trọng
và hữu hiệu nhất nhằm giải quyết mối quan hệ giữa giảm thiểu sự bất bình đẳng xã
hội với việc thực hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay là xây dựng và hoàn
thiện hệ thống an sinh xã hội.
3. An sinh xã hội và hệ thống an sinh xã hội ở nước ta.
An sinh xã hội được hiểu là sự bảo đảm an toàn cho cuộc sống của tất cả mọi
thành viên trong xã hội trong việc đối phó với các nguy cơ, rủi ro đến với con
người từ thiên nhiên (bão lũ, hạn hán,…) và từ xã hội (sự suy thoái kinh tế; tai
nạn giao thông, tai nạn nghề nghiệp; ốm đau, bệnh tật hiểm nghèo; bị các dị tật

bẩm sinh; các dịch bệnh).
(2)

Trên bình diện chung, hệ thống an sinh xã hội ở nước tađược hiểu là một hệ thống
các cơ chế, chính sách, các giải pháp công nhằm trợ giúp mọi thành viên trong xã
hội đối phó với các rủi ro, các hiểm nguy do các nguyên nhân kinh tế, xã hội và
môi trường tự nhiên mang đến cho con người, gây ra những hậu quả tiêu cực làm
mất an toàn đối với cuộc sống của họ và sự phát triển bền vững của xã hội. Về mặt
kinh tế, những rủi ro có thể là do sự suy thoái hoặc sự phát triển “quá nóng” của
nền kinh tế, khiến cho nhiều thành viên trong xã hội lâm vào hoàn cảnh khó khăn,
túng thiếu vì mất việc làm hay giảm mức thu nhập thường xuyên; giá cả tăng cao
nhanh chóng, nhất là giá những mặt hàng thiết yếu, như lương thực, thực phẩm,
xăng dầu… Những rủi ro về mặt xã hội có thể là do những mâu thuẫn, những xung
đột trong dân chúng gây hậu quả nghiêm trọng về người và của cho các gia đình
nạn nhân; do bệnh tật hiểm nghèo và các bệnh nghề nghiệp, do các dịch bệnh; do
tuổi già sức yếu không có nơi nương tựa; sự kém may mắn, thiệt thòi của một bộ
phận dân cư sống ở những vùng, miền có các điều kiện kinh tế - xã hội kém phát
triển như ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo hay những người bị những dị
tật bẩm sinh… Những rủi ro, sự cố do biến động của môi trường thiên nhiên (bão
lũ, lốc xoáy, sạt lở đất, nắng hạn, giá rét kéo dài) đến với con người ngày càng



thường xuyên hơn, gay gắt hơn và thiệt hại cũng nặng nề hơn.
Đứng trước muôn vàn khó khăn, thử thách, những rủi ro hiểm nguy luôn rình rập,
đe dọa cuộc sống của con người, mỗi thành viên trong xã hội không thể tự thân
vận động để đối phó và giải quyết chúng, mà còn rất cần đến sự hỗ trợ của cộng
đồng theo tinh thần “một người vì mọi người, mọi người vì một người”, dưới sự
quản lý, điều hành, trợ giúp của Nhà nước thông qua một hệ thống các cơ chế,
chính sách, các giải pháp công. Các hệ thống chính sách thuộc lĩnh vực an sinh xã

hội có mối quan hệ gắn bó, chặt chẽ với nhau, chúng sẽ tạo ra nhiều tầng, nhiều
nấc nhằm bảo vệ các thành viên trong xã hội phòng tránh sự tác động tiêu cực,
không mong muốn của các tai họa từ cả nền kinh tế, xã hội lẫn tự nhiên, để họ
không bị lâm vào tình trạng bần cùng hóa. Nếu hệ thống các chính sách an sinh xã
hội được thực hiện một cách đồng bộ, phổ biến, đầy đủ sẽ là cơ hội tốt nhất giúp
mọi thành viên trong xã hội đều có điều kiện tiếp cận bình đẳng với các nguồn lực
phát triển, các dịch vụ xã hội, từ đó tạo tiền đề cho việc thực hiện công bằng xã hội
trong một xã hội còn nhiều khó khăn như Việt Nam hiện nay.
4. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam.
* Về mặt cấu trúc, hệ thống an sinh xã hội được tạo thành từ một số hợp phần cơ
bản sau đây:
Một là, các chương trình và chính sách bảo hiểm xã hội với nhiệm vụ huy động sự
tích góp một phần thu nhập của các thành viên trong xã hội lúc bình thường để
dành chi tiêu khi gặp khó khăn, rủi ro, như bị thất nghiệp; tai nạn lao động, nghề
nghiệp; ốm đau, già yếu không còn khả năng lao động… Vì vậy, trong bảo hiểm
xã hội bao gồm cả bảo hiểm y tế, bảo hiểm con người (nhân thọ), bảo hiểm rủi ro,
tai nạn lao động (bảo hiểm nghề nghiệp), bảo hiểm thất nghiệp và một số hình thức
bảo hiểm khác nhằm đảm bảo cho con người có được một cuộc sống an toàn theo
nghề nghiệp chuyên môn hay theo những hình thức lao động mình đã lựa chọn.
Hai là, chương trình và chính sách ưu đãi xã hội. Đây là hình thức bảo đảm cuộc
sống của những người đã có công với cách mạng trong các cuộc kháng chiến trước
đây, như các thương binh, gia đình liệt sĩ, các mẹ Việt Nam anh hùng, giúp họ có



mức sống ít nhất trên trung bình so với mức sống chung của toàn xã hội. Cống
hiến của họ vì lợi ích chung cần phải được ghi nhận và đền đáp một cách thỏa
đáng và họ hoàn toàn xứng đáng được hưởng điều đó.
Ba là, chương trình và chính sách trợ cấp xã hội. Đó là những chính sách nhằm trợ
giúp những người yếu thế và dễ bị tổn thương trong xã hội, như người tàn tật, cô

đơn, trẻ em mồ côi, lang thang cơ nhỡ; trợ cấp cho những người làm việc trong
môi trường độc hại hay nguy hiểm; trợ cấp thai sản cho phụ nữ trong thời gian sinh
con theo qui định; trợ cấp đào tạo nghề cho những người đặc biệt khó khăn; trợ
cấp cho những người, những vùng bị thiên tai tàn phá, dịch bệnh hoành hành.
Bốn là, chương trình và chính sách tương trợ xã hội và cứu tế xã hội nhằm mục
tiêu quan trọng nhất là xóa đói giảm nghèo. Giải phóng con người khỏi đói nghèo
là một trong những nội dung quan trọng và thiết thực nhất của an sinh xã hội.
Trong các chính sách tương trợ xã hội và cứu tế xã hội, Nhà nước với tư cách
người quản lý sẽ tạo điều kiện cho người nghèo, những người gặp rủi ro, bất hạnh
trong xã hội có cơ hội tiếp cận bình đẳng đối với những nguồn lực phát triển và
dịch vụ xã hội, như được vay vốn để làm ăn, được hưởng các quyền lợi về chăm
sóc sức khỏe, giáo dục đào tạo… để họ tự vươn lên thoát đói nghèo bằng chính sức
lực của mình.
Các chương trình và chính sách trong hệ thống an sinh xã hội có mối quan hệ gắn
bó chặt chẽ với nhau giống như những lớp tường rào nhiều tầng, nhiều lớp bảo vệ
các thành viên trong xã hội không để họ rơi vào tình cảnh bần cùng hóa, nghèo
khổ và tuyệt vọng.
* Về chức năng và nhiệm vụ của hệ thống an sinh xã hội.
- Về phương diện tổng thể, hệ thống an sinh xã hội có chức năng cơ bản là quản lý
và đối phó với rủi ro, bao gồm ba nấc:
Một là, phòng ngừa rủi ro thông qua hệ thống các chính sách bảo hiểm xã
hội. Bảo hiểm xã hội là bộ phận quan trọng nhất, có ý nghĩa vô cùng to lớn và thiết
thực đối với đời sống của người lao động trong hệ thống an sinh xã hội. Với việc
mở rộng đối tượng bảo hiểm xã hội đến mọi người dân dưới hai hình thức tham gia



bắt buộc và tự nguyện; với chế độ bảo hiểm xã hội bằng các khoản trợ cấp dài hạn,
trợ cấp ngắn hạn và bảo hiểm y tế; với việc quản lý và thực hiện bảo hiểm xã hội
tập trung thống nhất, và với việc quỹ bảo hiểm xã hội được thanh toán độc lập

dưới sự bảo trợ và điều hành của Nhà nước, thì hệ thống an sinh xã hội sẽ hoàn
toàn có thể làm tốt chức năng phòng ngừa rủi ro.

Trong cuộc sống hầu như không ai không một lần gặp rủi ro, bất hạnh. Có những
rủi ro đột xuất không thể dự đoán được, như tai nạn nghề nghiệp, thất nghiệp, nhưng
cũng có những rủi ro không ai có thể tránh được như bệnh tật, tuổi già. Bởi vậy,
phòng ngừa rủi ro là nhiệm vụ của mỗi người, của toàn dân mà Nhà nước là người
đứng ra tổ chức, điều hành. Phòng ngừa rủi ro phải phòng ngừa từ xa. Từ lúc con
người còn trẻ khỏe, làm việc, sống bình thường, phải lo tích lũy một số vốn nào đó
trong quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm y tế… để khi đã già, yếu không còn sức
lao động nữa họ vẫn có thể sống được nhờ vào lương hưu, tiền bảo hiểm tuổi già,
tiền bảo hiểm y tế tại các bệnh viện. Thực tế cho thấy, chi phí cho phòng ngừa rủi ro
sẽ thấp hơn rất nhiều so với chi phí để khắc phục rủi ro.
Hai là, giảm thiểu rủi ro. Rủi ro xảy ra có thể rất nặng nề, gây nên những mất mát
rất lớn về vật chất và tinh thần, nhưng với hệ thống các chính sách an sinh xã hội,
hậu quả của các rủi ro đó hoàn toàn có thể được giảm nhẹ, được khống chế ở mức
độ có thể chấp nhận được. Để có thể giảm thiểu rủi ro, một mặt, Nhà nước phải có
một hệ thống tổ chức, điều hành chặt chẽ, nhưng linh hoạt hệ thống an sinh xã
hội; mặt khác, mọi thành viên trong xã hội cũng cần phải có ý thức tự giác tham gia
vào các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, quỹ phòng chống
thiên tai, quỹ an sinh xã hội v.v trước hết vì cuộc sống của bản thân và gia đình
của mỗi người, sau nữa là vì cộng đồng, sự ổn định và phát triển của xã hội. Việc
giảm thiểu rủi ro này chủ yếu thuộc về các chính sách bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp và các chính sách trợ giúp xã hội có liên quan đến giáo dục, dạy nghề, tạo
việc làm.
Ba là, khắc phục rủi ro được thực hiện chủ yếu thông qua các chính sách trợ giúp
xã hội (trợ cấp xã hội, tương trợ xã hội và cứu tế xã hội). Có hai chế độ trợ giúp:




thường xuyên (áp dụng đối với các đối tượng người già cô đơn, trẻ em mồ côi
không nơi nương tựa, người tàn tật nặng…) và trợ giúp đột xuất đối với những đối
tượng chẳng may gặp rủi ro, hoạn nạn. Hệ thống an sinh xã hội phải có trách nhiệm
chủ đạo trong việc khắc phục các rủi ro đó nhằm giúp cho mọi thành viên trong xã
hội mau chóng ổn định cuộc sống.
- Về nhiệm vụ: an sinh xã hội là một trong những công cụ quản lý nhà nước thông
qua hệ thống luật pháp, các chính sách và các chương trình quan trọng của một
quốc gia nhằm mục tiêu giữ gìn sự ổn định chính trị, xã hội của đất nước, sự an toàn
cho đời sống của con người trong bầu không khí dân chủ, bình đẳng giữa người với
người, bình đẳng về giới; xóa đói, giảm nghèo, xóa bỏ sự phân hóa giàu nghèo, sự
phân tầng trong xã hội; từ đó, tạo ra sự đồng thuận trong cộng đồng, tiến đến thực
hiện công bằng xã hội Dưới sự tổ chức, quản lý và điều hành của Nhà nước, hệ
thống an sinh xã hội có những nhiệm vụ sau đây:
Một là, điều hòa các mâu thuẫn xã hội đã, đang và có thể xảy ra bằng cách xử lý và
hạn chế các nguyên nhân làm nảy sinh mâu thuẫn, bất ổn của xã hội.
Hai là, áp dụng các giải pháp nhằm điều tiết phân phối lại thu nhập, điều tiết sự
phân phối lại giữa các khu vực kinh tế, các vùng kinh tế, giữa các nhóm dân cư; từ
đó, làm giảm sự bất bình đẳng giữa các vùng, miền, giữa các thành viên trong xã
hội.
Ba là, điều tiết phân phối lại của cải xã hội, cân đối, điều chỉnh các nguồn lực (vốn,
khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực…) nhằm tăng cường cho các vùng sâu, vùng
xa còn nghèo khó, chậm phát triển, từ đó, tạo nên sự phát triển hài hòa giữa các
vùng khác nhau trong nước, giảm dần sự chênh lệch giữa các vùng không chỉ về
kinh tế mà cả về đời sống của người dân.
Bốn là, hệ thống an sinh xã hội phải liên tục mở rộng các đối tượng tham gia vào
các loại bảo hiểm: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp… mở rộng
chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội nhằm làm giảm bớt sự bất bình
đẳng giữa các nhóm dân cư.




Thực hiện tốt các nhiệm vụ trên đây tức là hệ thống an sinh xã hội đã hoàn thành
được các chức năng phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro. Hệ thống an sinh
xã hội càng hoàn thiện, càng có nhiều khả năng làm tròn nhiệm vụ và chức năng
của mình. Với một hệ thống an sinh xã hội tốt sẽ có tác động mạnh mẽ và tích cực
thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh hơn, bền vững hơn, nhất là trong thời kỳ hội nhập
kinh tế như hiện nay, hệ thống an sinh xã hội càng đóng vai trò to lớn hơn đối với
sự phát triển của đất nước, trước hết là phát triển kinh tế. Vì rằng, các nhà đầu tư
trong nước và đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, khi đầu tư vào phát triển kinh
tế, họ không chỉ chú ý đến các yếu tố kinh tế mà còn rất quan tâm đến các yếu tố xã
hội như sự ổn định, an ninh, an sinh xã hội. Ngoài các yếu tố kinh tế, một xã hội ổn
định, an sinh tốt sẽ là cơ sở quan trọng giúp cho các nhà đầu tư yên tâm đầu tư phát
triển lâu dài, làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, liên tục và ngược lại. Một điều
quan trọng nữa là, bản thân sự phát triển của hệ thống an sinh xã hội hiện đại cũng
là một lĩnh vực dịch vụ “có thu” như lĩnh vực bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm thất nghiệp…, điều này sẽ tạo thêm nguồn tài chính góp phần vào phát triển
kinh tế đất nước.
Nhiệm vụ chính và quan trọng nhất của hệ thống an sinh xã hội là hướng đến sự ổn
định xã hội. Khi tham gia vào hệ thống an sinh xã hội, mỗi thành viên trong xã hội
đều có nghĩa vụ và quyền lợi. Trong cuộc sống không ai luôn gặp may mắn và cũng
không ai luôn gặp rủi ro, nhưng thường thì bất hạnh hay đến với những người
nghèo, vùng nghèo, những người yếu thế trong xã hội, mà khi đã gặp rủi ro, họ khó
có thể tự vượt qua được bằng nguồn tài chính eo hẹp của mình. Hệ thống các chính
sách an sinh xã hội sẽ giúp cho mọi người cùng biết chia sẻ trách nhiệm xã hội để
giảm thiểu và khắc phục các rủi ro khi những thành viên trong xã hội chẳng may
gặp rủi ro; từ đó, tạo sự ổn định, đồng thuận xã hội và đó là nền tảng để thực hiện
bình đẳng và công bằng xã hội, nền tảng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
* Về các thể chế và nguyên tắc cơ bản của hệ thống an sinh xã hội.
- Về thể chế: để xây dựng một hệ thống an sinh xã hội hoạt động một cách có hiệu
quả, cần phải tuân thủ nghiêm chỉnh các thể chế cơ bản sau:




Một là, thể chế chính sách - cần phải xác định đối tượng tham gia, đối tượng điều
chỉnh đối với các loại thành viên khác nhau trong xã hội, với những tiêu chí cụ thể;
xác định các chế độ hưởng thụ và những điều kiện ràng buộc; xác định trách nhiệm
của các cán bộ ngành, địa phương trong việc thực hiện chính sách.
Hai là, thể chế tài chính - là thể chế quan trọng nhất của hệ thống an sinh xã hội.
Nhiệm vụ cụ thể của thể chế tài chính của hệ thống an sinh xã hội là phải xác định
được cơ chế tạo nguồn tài chính (cụ thể là sự đóng góp của các đối tượng tham gia,
của người sử dụng lao động và của Nhà nước); cơ chế quản lý, sử dụng nguồn tài
chính; cơ chế chi trả hợp lý.
Ba là, thể chế về tổ chức quản lý và cán bộ chuyên trách.Phải thiết lập một hệ thống
tổ chức quản lý với đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phụ trách
việc điều hành hệ thống an sinh xã hội. Hệ thống tổ chức quản lý này có thể được
thiết lập cho từng trường hợp của an sinh xã hội hoặc cũng có thể sử dụng luôn bộ
máy chính quyền hiện có để thực hiện công việc này, tùy theo điều kiện cụ thể của
từng quốc gia, từng vùng lãnh thổ, từng địa phương… Tuy nhiên, dưới góc độ quản
lý nhà nước thì chỉ nên để một cơ quan, một hệ thống tổ chức quản lý là phù hợp
nhất.
Trong ba thể chế trên, thể chế tài chính là quan trọng nhất, vì đó là cơ sở vật chất
của sự tồn tại và phát triển bền vững của hệ thống an sinh xã hội. Nếu thể chế tài
chính không được thực hiện một cách nghiêm minh, chặt chẽ, minh bạch hoặc bị
xâm hại thì hệ thống an sinh xã hội cũng không thể tồn tại, cho dù thể chế chính
sách và thể chế về tổ chức quản lý vẫn còn đó. Ngay trong thể chế tài chính cũng
tồn tại nhiều cơ chế hoạt động, cách thức vận hành khác nhau: có thể chế tài chính
vận hành theo cơ chế “có đóng góp, có hưởng” (có chi, trả), mức hưởng phụ thuộc
vào mức đóng góp, chẳng hạn như bảo hiểm xã hội; hoặc có cơ chế “số đông bù số
ít” hay “mọi người vì một người và một người vì mọi người” như bảo hiểm y tế,
bảo hiểm thất nghiệp… Cũng có loại thể chế có hưởng nhưng không có đóng góp,

mức hưởng không phụ thuộc vào mức đóng góp mà chỉ phụ thuộc vào thu nhập,
như trợ cấp xã hội cho những người tàn tật nặng mất khả năng lao động, trợ cấp cho



trẻ em mồ côi, trợ cấp cho người già không nơi nương tựa, cứu tế xã hội trong
trường hợp rủi ro đột xuất.
Để có thể thực hiện được các thể chế của hệ thống các chính sách an sinh xã hội cần
phải tuân thủ theo các nguyên tắc cơ bản như:
Nguyên tắc thứ nhất: hướng tới “bao phủ” mọi thành viên trong xã hội vào hệ thống
an sinh xã hội, nhằm bảo vệ sự an toàn cho cuộc sống của họ trước những biến cố
rủi ro có tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế của họ và gia đình họ. Điều này phụ
thuộc rất lớn vào việc thiết lập hệ thống tiêu chí xác định các đối tượng tham gia
vào các hợp phần khác nhau của hệ thống an sinh xã hội sao cho phù hợp, để mỗi
loại đối tượng khác nhau có quyền lợi và nghĩa vụ (trách nhiệm) khác nhau, tương
thích với địa vị của họ trong xã hội, với hoàn cảnh cụ thể của họ.
Nguyên tắc thứ hai: phải đảm bảo tính bền vững về tài chính bằng cách bảo đảm
nguồn thu, sự đóng góp của các đối tượng tham gia vào hệ thống an sinh xã hội,
nguồn hình thành (chủ yếu lấy từ thuế, từ ngân sách nhà nước) và chi trả hợp lý,
đúng đối tượng được hưởng.
Nguyên tắc thứ ba: phải bảo đảm ổn định về thể chế tổ chức quản lý, điều này cho
phép hệ thống an sinh xã hội hoạt động liên tục và có hiệu quả. Về mặt cấu trúc, tổ
chức của hệ thống an sinh phải hợp lý để có đủ khả năng quản lý các loại đối tượng
tham gia vào hệ thống; cấu trúc hợp lý của tổ chức còn phải bảo đảm khả năng theo
dõi, đánh giá quá trình thực hiện của hệ thống an sinh xã hội một cách trung thực,
khách quan để làm cơ sở cho việc hoàn thiện các thể chế khác trong hệ thống, như
thể chế chính sách, thể chế tài chính và thể chế tổ chức quản lý thực hiện.
Nguyên tắc thứ tư: nhà nước phải là người bảo trợ cho hệ thống an sinh xã hội hoạt
động có hiệu quả và đúng pháp luật. Đối với hệ thống an sinh của một quốc gia,
nhà nước vừa giữ vai trò người tổ chức, người quản lý, người điều hành và thực

hiện (trợ giúp đặc biệt đối với những người có công, trợ giúp xã hội đối với những
người tàn tật nặng, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, người già yếu không còn
sức lao động…), vừa giữ vai trò là người bảo trợ (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
bảo hiểm thất nghiệp), đặc biệt là khi hệ thống an sinh xã hội gặp rủi ro về tài chính.



Trong điều kiện kinh tế thị trường, không chỉ có các cơ quan, các doanh nghiệp nhà
nước, mà tất cả các thành phần kinh tế khác trong xã hội đều có trách nhiệm tham
gia vào hệ thống an sinh xã hội. Vì vậy, Nhà nước không chỉ giữ vai trò tổ chức,
quản lý điều hành, mà còn phải có trách nhiệm bảo trợ cho các tổ chức ngoài quốc
doanh tham gia vào hệ thống an sinh xã hội khi họ gặp rủi ro, thất bát.
Việc xây dựng một hệ thống an sinh xã hội hoàn thiện từ việc xác định các hợp
phần cơ bản, chức năng, nhiệm vụ đến các thể chế và nguyên tắc cơ bản là vô cùng
khó khăn, phức tạp và lâu dài. Tuy nhiên, đây là việc làm rất cần thiết, bởi nước ta
đang hình thành nền kinh tế thị trường, mà đã là kinh tế thị trường thì phải có cạnh
tranh khốc liệt, người được, kẻ mất, nên rủi ro khôn lường. Hơn nữa, nước ta đã bắt
đầu quá trình hội nhập toàn cầu về kinh tế khi tham gia vào WTO. “Cái được” khi
tham gia vào WTO cũng nhiều, nhất là về mặt kinh tế, nhưng “cái mất”, “cái rủi ro”
cũng lắm. Ngoài những rủi ro từ kinh tế, xã hội, con người ngày nay còn phải chịu
nhiều rủi ro, tổn thất do thiên tai, vì những điều kiện tự nhiên ngày càng trở nên
khắc nghiệt hơn. Do vậy, để ổn định xã hội, tạo cơ sở, tạo đà cho tăng trưởng kinh
tế, kết hợp với thực hiện công bằng xã hội… thì việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống an sinh xã hội là đòi hỏi cấp thiết và quan trọng hơn bao giờ hết.q

(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập. t.49, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995,
tr.36.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biều toàn quốc lần thứ VIII.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.113.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.101.


NHO GIÁO VÀ CHỦ NGHĨA DÂN TỘC Ở VIỆT NAM TRONG THỜI Đ
ẠI
TOÀN CẦU HOÁ







LÊ THỊ LAN
(*)


Tư tưởng dân tộc chủ nghĩa đã hình thành rất sớm ở Việt Nam và được Nho giáo
bổ sung, nâng lên tầm mức lý luận, trở thành hệ tư tưởng chính trị của các triều
đại phong kiến. Trải qua nhiều thăng trầm, Nho giáo và chủ nghĩa dân tộc Việt
Nam khi thì gắn kết chặt chẽ, lúc bị tách rời về mặt hình thức hoặc nội dung,
nhưng ảnh hưởng của Nho giáo vẫn âm ỉ tác động tới sự vận động của chủ nghĩa
dân tộc Việt Nam. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích 3 vấn đề: 1/ Vai trò của
Nho giáo trong sự hình thành tư tưởng dân tộc chủ nghĩa ở Việt Nam; 2/ Đặc
trưng của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam; 3/ Biện chứng của chủ nghĩa dân tộc trong
thời đại toàn cầu hoá.


1. Vai trò của Nho giáo trong sự hình thành tư tưởng dân tộc chủ nghĩa ở Việt

Nam
Lý luận về chủ nghĩa dân tộc hiện nay dường như đã đạt được một số nhất trí khi
phái trung tâm châu Âu, kể cả quan điểm mácxít vấp phải những khó khăn không
nhỏ trong phân tích, lý giải và dự phóng về sự vận động lịch sử của các nước châu
Á đang phát triển, đặc biệt là các nước trong khu vực ảnh hưởng của Nho giáo, như
Trung Quốc, Việt Nam(1)… Đó là sự thừa nhận chủ nghĩa dân tộc nơi đây đã được
hình thành từ rất lâu và có sức mạnh bền vững đến mức người phương Tây khó có
thể tưởng tượng, trước khi chủ nghĩa tư bản xuất hiện với sức mạnh phá tan những
thành trì kiên cố nhất của chủ nghĩa phong kiến. Sự hình thành chủ nghĩa dân tộc
đặc biệt này, không nghi ngờ gì, có sự góp phần mạnh mẽ của lý luận Nho giáo.

×