Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

MODULE 16 + 17 quản lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.65 KB, 12 trang )

MÔ ĐUN 16
Chỉ đạo hoạt động giáo dục trẻ em trong các nhóm, lớp ghép nhiều độ tuổi.
(THÁNG 10 +11 + 12)
1.Khái niệm nhóm, lớp ghép:
Nhóm, lớp ghép: là một hình thức tổ chức dạy học mà một GV có trách nhiệm tổ
chức dạy học cho HS ở hai hay nhiều trình độ khác nhau đạt đến những mục tiêu giáo
dục đã đặt ra. Như vậy, LG là lớp học gồm HS ở các trình độ (TĐ) khác nhau và
trong mỗi lớp có hai hay vài nhóm trình độ (NTĐ) khác nhau.
Với trẻ mẫu giáo, hoạt động vui chơi được xác định là hoạt động chủ đạo của trẻ,
trẻ học bằng chơi, chơi mà học.
Để tổ chức hoạt động học cho trẻ mẫu giáo ở các lớp đơn đạt hiệu quả địi hỏi phải
có sự linh hoạt, mềm dẻo trong việc vận dụng các phương pháp, hình thức tổ chức
giờ học.
Đối với lớp mẫu giáo ghép, sự linh hoạt, mềm dẻo đó cịn địi hỏi ở việc phù hợp
với trẻ nhiều độ tuổi trong lớp, trẻ dân tộc thiểu số hạn chế về tiếng Việt. Do vậy, một
trong những nguyên tắc vận dụng các hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ
nói chung và hoạt động học nói riêng là "hướng vào sự tương tác giữa trẻ ở các độ
tuổi".
2.Quy định hiện hành liên quan đến hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ trong
nhóm, lớp nghép nhiều độ tuổi.
Khoản 1 Điều 13 Điều lệ Trường Mầm non ban hành kèm theo Quyết định
14/2008/QĐ-BGDĐT quy định về nhóm trẻ và lớp mẫu giáo như sau:
Trẻ em được tổ chức theo nhóm trẻ hoặc lớp mẫu giáo.
- Đối với nhóm trẻ: trẻ em từ 3 tháng tuổi đến 36 tháng tuổi được tổ chức thành
các nhóm trẻ. Số trẻ tối đa trong một nhóm trẻ được quy định như sau:
+ Nhóm trẻ từ 3 đến 12 tháng tuổi: 15 trẻ;
+ Nhóm trẻ từ 13 đến 24 tháng tuổi: 20 trẻ;
+ Nhóm trẻ từ 25 đến 36 tháng tuổi: 25 trẻ.
- Đối với lớp mẫu giáo: Trẻ em từ ba tuổi đến sáu tuổi được tổ chức thành các
lớp mẫu giáo. Số trẻ tối đa trong một lớp mẫu giáo được quy định như sau:
+ Lớp mẫu giáo 3- 4 tuổi: 25 trẻ;


+ Lớp mẫu giáo 4-5 tuổi: 30 trẻ;
+ Lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi: 35 trẻ.
- Nếu số lượng trẻ em trong mỗi nhóm, lớp khơng đủ 50% so với số trẻ tối đa
được quy định tại Điểm a và Điểm b, Khoản 1 của Điều này thì được tổ chức thành
nhóm trẻ ghép hoặc lớp mẫu giáo ghép.
Theo đó, nếu số lượng trẻ ở nhóm trẻ hoặc lớp mầm non không đủ 50% so với số
trẻ tối đa theo quy định thì được tổ chức thành nhóm trẻ ghép hoặc lớp mẫu giáo
ghép.
Quy định này không áp dụng đối với trường hợp ghép nhóm trẻ vào lớp mẫu giáo.
3.Đặc điểm của nhóm, lớp ghép:
Lớp mẫu giáo ghép là lớp gồm các trẻ từ 3 đến 5 tuổi cùng tham gia vui chơi, học
tập, sinh hoạt.


2
Có các loại lớp mẫu giáo ghép sau: lớp ghép hai độ tuổi (3 tuổi và 4 tuổi; 4 tuổi và
5 tuổi, 3 tuổi và 5 tuổi); lớp ghép ba độ tuổi (3 tuổi, 4 tuổi và 5 tuổi), trẻ trong các lớp
mẫu giáo ghép có sự khác nhau rõ rệt về thể chất, ngơn ngữ, tình cảm, nhận thức và
giao tiếp.
Mỗi lớp mẫu giáo ghép thường có một giáo viên. Giáo viên ít có cơ hội tiếp cận,
trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm chuyên môn.
Ở lớp mẫu giáo ghép vùng dân tộc thiểu số, tiếng Việt của trẻ còn yếu; tiếng dân
tộc thiểu số của giáo viên dân tộc Kinh bị hạn chế, giáo viên dân tộc thiểu số ít sử
dụng tiếng Việt do có thói quen nói tiếng mẹ đẻ trong giao tiếp.
Cơ sở vật chất, thiết bị ở một số lớp chưa đáp ứng được yêu cầu tổ chức các hoạt
động chăm sóc giáo dục trẻ.
Từ những đặc thù như vậy, để thực hiện tốt chương trình giáo dục mầm non ở
lớp mẫu giáo ghép theo quan điểm “lấy trẻ làm trung tâm” chúng ta cần chú ý xem
xứt đến một số nội dung riêng có như sau:
Việc lập kế hoạch thực hiện chương trình giáo dục mầm non ở lớp mẫu

Giáo ghép:
Đối với kế hoạch giáo dục năm học:
Xác định mục tiêu giáo dục phải căn cứ Chương trình giáo dục mầm non, bộ
chuẩn phát triển trẻ em năm tuổi để xác định mục tiêu giáo dục riêng cho từng độ tuổi
có trong lớp ghép tương ứng. Đối với trẻ 5 tuổi, căn cứ vào bộ chuẩn phát triển trẻ 5
tuổi. Đối với các lứa tuổi 3 tuổi, 4 tuổi, căn cứ vào kết quả mong đợi của từng
Lứa tuổi trong chương trình giáo dục mầm non.
Nội dung giáo dục là các nội dung của các lĩnh vực trong chương trình giáo dục mầm
non. Căn cứ nội dung giáo dục các độ tuổi để xác định nội dung giáo dục chung của
các độ tuổi và nội dung riêng có của các độ tuổi có trong lớp.
Đối với kế hoạch giáo dục chủ đề:
Xác định mục tiêu giáo dục chủ đề: Là một phần của mục tiêu giáo dục năm
học, đảm bảo đủ các lĩnh vực phát triển, đồng thời cụ thể mức độ đạt được của mục
tiêu giáo dục dựa vào thời lượng, thời điểm triển khai chủ đề. Ở các lớp có trẻ dân tộc
thiểu số, khi lập kế hoạch giáo dục năm học giáo viên cần chú ý đến mục tiêu và nội
dung chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ. Đặc biệt là chú ý căn cứ trình độ, khả năng tiếng
Việt để xác định mục tiêu phù hợp, tác động đến “vùng phát triển gần” của trẻ nhằm
đạt hiệu quả tác động đến từng cá nhân trẻ.
Ví dụ: Chủ đề triển khai tại thời điểm đầu năm học thì mục tiêu phải có mức
độ, yêu cầu thấp hơn và được nâng dần ở những chủ đề tiếp theo.
Nội dung giáo dục của chủ đề: Là một phần nội dung giáo dục của năm học, đảm bảo
đủ các lĩnh vực giáo dục. Từ mục tiêu của chủ đề để lựa chọn và cụ thể hóa nội dung
trong chương trình, một mục tiêu có thể chọn một, hai hoặc ba nội dung. Nội dung
của tất cả các chủ đề trong năm học phải chuyển tải đầy đủ nội dung của chương trình
giáo dục mầm non ở các độ tuổi của trẻ có trong lớp.
Các hoạt động giáo dục dự kiến tổ chức trong chủ đề phải đảm bảo chuyển tải hết các
nội dung đã được xác định và đảm bảo hướng tới mục tiêu chủ đề. Đối với kế
hoạch giáo dục tuần.
Ở lớp mẫu giáo ghép vùng dân tộc thiểu số, giáo viên cần dành thời gian để tổ
chức hoạt động tăng cường tiếng Việt, tạo cơ hội cho trẻ thực hành tiếng Việt.



3
Việc tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục ở lớp mẫu giáo ghép
Tổ chức các hoạt động chơi:
Về hình thức tổ chức chơi: Tuỳ điều kiện cụ thể của lớp mà giáo viên linh hoạt
tổ chức cho trẻ chơi chung cả lớp hoặc chơi theo nhóm nhỏ. Chơi chung cả lớp
thường được tổ chức khi lớp học có địa điểm chơi hoặc sân chơi đủ rộng, đảm bảo an
tồn để cả lớp có thể vận động, di chuyển thoải mái; trẻ đã biết cách chơi và có một
số kĩ năng chơi để có thể chơi cùng nhau. Chơi nhóm nhỏ thường được tổ chức khi:
Có sự khác biệt về yêu cầu của trò chơi đối với từng độ tuổi, loại trò chơi khác nhau;
hạn chế về điều kiện cơ sở vật chất như địa điểm, diện tích chỗ chơi, đồ
Dùng, đồ chơi hoặc số lượng trẻ đông.
Về cách tổ chức chơi: Khi tổ chức cho trẻ lớp mẫu giáo ghép chơi, giáo viên
nên để trẻ lớn cũng như trẻ bé tự chọn trị chơi, nhóm chơi và bạn chơi. Khuyến
khích trẻ lớn và trẻ bé chơi cùng nhau. Với những trị chơi trẻ đã biết, giáo viên có
thể yêu cầu trẻ lớn hướng dẫn trẻ bé và những trẻ chưa biết. Với những trò chơi mới,
giáo viên cần hướng dẫn cho tất cả các trẻ. Bao quát trẻ trong khi chơi, chú ý khuyến
khích trẻ lớn giúp đỡ, hướng dẫn trẻ bé trong khi chơi. Có thể phân cơng trẻ lớn làm
trưởng nhóm chơi/ điều khiển nhóm chơi của trẻ. Khuyến khích và tạo cơ hội để kích
thích sự tương tác của trẻ trong nhóm chơi và giữa các nhóm chơi với nhau. Việc
đánh giá, nhận xét sau khi chơi có thể tiến hành với từng nhóm chơi, hoặc tập trung
cả lớp. Giáo viên chú ý nhận xét sự phối hợp, hợp tác cùng nhau, sự hỗ trợ của trẻ lớn
đối
với
trẻ

trong
quá
trình

chơi.
Lưu ý đối với trẻ ở vùng dân tộc thiểu số nên khuyến khích trẻ giao tiếp với
nhau bằng tiếng Việt, tăng cường các trị chơi ngơn ngữ. Đối với trẻ lứa tuổi 4 tuổi, 5
tuổi trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục, giáo viên cần lưu ý đến mức độ
trẻ đạt được những mục tiêu ở lứa tuổi trước đó để có kế hoạch luyện tập bổ sung kịp
thời, làm tiền đề cho trẻ đạt những mục tiêu của lứa tuổi hiện tại.
Tổ chức các hoạt động học:
Lớp mẫu giáo ghép có nhiều trẻ ở các độ tuổi khác nhau nên việc tổ chức hoạt
động học có những đặc điểm sau:
Mục tiêu giáo dục/ yêu cầu của hoạt động học ở lớp mẫu giáo ghép được xác
định riêng cho từng độ tuổi có trong lớp;
Nội dung học mang tính đồng tâm, phát triển, nghĩa là cùng một nội dung học nhưng
mức độ khác nhau đối với từng độ tuổi;
Phương pháp day - học được ưu tiên lựa chọn là những phương pháp mà trẻ ở
các độ tuổi đều được tham gia, tương tác với nhau và với giáo viên;
Hình thức tổ chức hoạt động học ở lớp mẫu giáo ghép đặc biệt hướng vào sự tương
tác giữa các cá nhân và các nhóm;
Đánh giá hoạt động học của trẻ theo mục tiêu cần đạt cũng theo từng độ tuổi có
trong lớp chứ khơng chỉ theo một độ tuổi như ở lớp đơn;
Để có thể tổ chức được hoạt động học cho trẻ ở lớp MG ghép, giáo viên cần
thực hiện các bước: chuẩn bị, soạn giáo án, thực hiện và đánh giá hoạt động học.
4. yêu cầu, nguyên tắc quản lý hoạt động chăm sóc, giáo dục tẻ trong các
nhóm, lớp ghép nhiều độ tuổi.
Việc xây dựng môi trường giáo dục ở các lớp mẫu giáo ghép cần tuân thủ các
nguyên tắc sau:


4
Đáp ứng theo mục tiêu, nội dung của chương trình giáo dục mầm non:
Môi trường giáo dục của lớp ghép phải đáp ứng được yêu cầu đổi mới chương

trình giáo dục mầm non và phù hợp với nội dung giáo dục trẻ theo từng độ
Tuổi ở lớp ghép.
Môi trường giáo dục đảm bảo sự phát triển toàn diện ở các lĩnh vực (thể chất,
nhận thức, ngơn ngữ, tình cảm xã hội và thẩm mĩ) của trẻ theo từng độ tuổi,
trong đó chú ý đến chuẩn bị tâm thế cho trẻ đi học lớp 1.
Đồ dùng, thiết bị phù hợp với các độ tuổi của trẻ trong lớp theo quy định hiện hành
của Bộ GD & ĐT
Đảm bảo công bằng với tất cả trẻ trong lớp:
Cơ sở vật chất, đồ dùng đồ chơi phong phú, đa dạng đảm bảo cho mọi trẻ
đều được học và chơi:
Tinh thần thái độ của mọi thành viên đều công bằng, thân thiện và hợp tác;
Đảm bảo mọi trẻ đều được tham gia các hoạt động, tránh kì thị hoặc phân biệt đối xử;
Tơn trọng tính đa dạng, chấp nhận sự khác biệt của trẻ các dân tộc, các độ
tuổi trong một lớp;
Tạo môi trường tương tác tích cực giữa các trẻ (trẻ cùng tuổi và khác độ tuổi
để học và tang cường tiếng việt.
Phát huy các điều kiện thực tế của trường, lớp, địa phương cho trẻ học
tiếng việt:
Khai thác nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để xây dựng môi trường học
tập cho trẻ;
Khai thác văn hóa dân gian ở địa phương để trẻ học (thơ, chuyện kể, ca dao,
hò vè, đồng dao, trò chơi dân gian…)
Huy động phụ huynh cùng tham gia vào q trình xây dựng mơi trường học tập
cho trẻ (đóng góp cơ sở vật chất để xây dựng mơi trường, cung cấp thêm vốn văn hóa
dân gian ở địa phương, tham gia học cùng trẻ đối với trẻ dân tộc thiểu số…).
Tạo môi trường giao tiếp bằng tiếng việt cho trẻ:
Căn cứ các tiêu chí xây dựng mơi trường tăng cường tiếng Việt cho trẻ do Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành để xây dựng môi trường tăng cường tiếng Việt của
trường, điểm trường, lớp đảm bảo các tiêu chí. Trong đó chú ý:
Tổ chức các trị chơi ngơn ngữ nhằm khuyến khích sự tham gia của tất cả trẻ;

Tổ chức chơi trong các góc mà ở đó có sự giao lưu giữa các trẻ, đặc biệt chú ý
đến việc đan xen về độ tuổi, về trình độ để trẻ có nhiều cơ hội học tập và chia sẻ lẫn
nhau;
Tăng cường sự giao tiếp của giáo viên với trẻ nhằm tăng cường tiếng Việt.
Với đặc thù một tỉnh miền núi, dân cư phân tán, tỉ lệ lớp ghép khá cao, hoạt động
chuyên môn cấp học Mầm non tỉnh nhà còn nhiều việc phải làm đặc biệt là việc nâng
cao chất lượng thực hiện chương trình giáo dục mầm non ở lớp mẫu giáo ghép theo
quan điểm giáo dục “lấy trẻ làm trung tâm”, đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của các cấp
quản lý, giáo viên và nhân viên. Với nội dung chia sẻ tại chuyên đề này, mong nhận
được nhiều sự trao đổi, chia sẻ của các đồng chí, đồng nghiệp./.
5. Quản lý hoat động chăm sóc, giáo dục trẻ trong các nhóm lớp ghép
nhiều độ tuổi:


5
Giáo viên mầm non vừa là chủ thể trực tiếp của q trình chăm sóc và giáo dục
trẻ vừa là chủ thể quản lí nhóm/lớp. Nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lí nhóm/lớp
là điều kiện quan trọng để đảm bảo chất lượng chăm sóc- giáo dục trẻ cũng như chất
lượng quản lí trường mầm non. Vì thế phát huy đúng vai trò, trách nhiệm của người
giáo viên trong quá trình thực hiện chức năng quản lí tồn diện nhóm/lớp là vấn đề
quan trọng đối với cán bộ quản lí trường mầm non.
Việc quản lí trẻ trong giờ học (hoạt động chung):
Hoạt động của trẻ thường dĩến ra trong thời gian nhất định tuỳ theo từng lứa
tuổi, tuỳ theo nhu cầu, húng thú của tre. Trong hoạt động, giáo viên có thể tổ chức
trong lớp hoặc ngồi trời, học cả lớp, học theo nhóm hoặc học từng cá nhân. Giáo
viên tổ chức các hoạt động theo yêu cầu của chương trình phù hợp với từng độ tuổi
nhưng khơng máy móc, cứng nhắc mà linh hoạt, mềm dẻo trên cơ sở phù hợp với
Đặc điểm đối tượng và hoàn cảnh thực tế.
Để thuận tiện cho việc quản lí trẻ trong hoạt động, giáo viên cần nghiên cứu
sắp xếp chỗ ngồi cho trẻ hợp lí đối với từng loại tiết học sao cho giáo viên dễ bao

quát chung và theo dõi riêng. Mọi trẻ trong nhóm/lớp đều được tham gia vào hoạt
động học đầy đủ, tích cực. Đối với những trẻ mới đến truờng hoặc vừa ốm dậy, giáo
viên cần quan tâm đến trẻ hoạt động vừa sức và làm quen dần. Giáo viên phải đánh
giá được khả năng, thái độ của từng trẻ tham gia học tập để điều chỉnh hoạt động dạy
học cho phù hợp, động viên, khuyến khích trẻ kịp thời nhưng không nên lạm dụng vỗ
tay nhiều lần làm ảnh hưởng tới sự tập trung chú ý của trẻ. Mức độ thu hút trẻ hứng
thú tham gia vào tiết học và kết quả của nó phụ thuộc rất nhiều vào nghệ thuật tổ
chức điều khiển của giáo viên mầm non.
Quản lí trẻ trong giờ chơi Vui chơi
Vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mầm non. Việc quản lí trẻ trong giờ chơi
như thế nào để khơng làm mất đi tính tích cực, tự nguyện, hứng thú chơi của
Trẻ là một yêu cầu cơ bản đối với giáo viên mầm non.
Trẻ không những đuợc chơi trong lớp mà cịn đuợc chơi ngồi trời nhằm tăng
cường sức khỏe và mờ rộng vốn hiểu biết cho trẻ. Mờ rộng khoảng không gian chơi
của trẻ là cần thiết và cần cỏ những yêu cầu quản lí phù hợp với các thời điểm
Chơi của trẻ trong ngày. Nhằm giúp trẻ hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân
cách, chuẩn bị cho trẻ bước vào lớp một. Giáo viên mầm non có nhiệm vụ quản lí
nhóm/lớp có hiệu quả. Để làm tốt cơng tác quản lí nhóm/lớp, giáo viên mầm non cần
phải có cái nhìn bao qt về quản lí nhóm/lớp, cần xác định rõ mục tiêu và nguyên
tắc quản lí nhóm/lớp. Việc xác định rõ thế nào là quản lí nhóm/lớp và tầm quan trọng
của quản lí nhóm/lớp sẽ giúp giáo viên có những nhìn nhận và định hướng đúng đắn
trước khi xác định và tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ mầm non. Đồng thời
quản lí các hoạt động giáo dục mầm non có hiệu quả.


6
MƠ DUN 17
Tổ chức cơng tác giáo dục hịa nhập trẻ khuyết tật trong cơ sở GDMN
(THÁNG 01 + 02 + 03)
I. Cách phát hiện sớm trẻ khuyết tật, đánh giá trẻ khuyết tật

1. Cách phát hiện sớm trẻ khuyết tật
Từ 0-6 tuổi là giai đoạn “vàng” phát hiện sớm, can thiệp sớm khuyết tật
Theo các bác sĩ, việc phát hiện sớm là sàng lọc phát triển của trẻ theo độ tuổi
nhằm phát hiện những trẻ có nguy cơ cao bị khuyết tật, bị chậm phát triển để có biện
pháp hỗ trợ, can thiệp kịp thời. Trẻ em từ độ tuổi 0-6 được xem là giai đoạn “vàng”
để phát hiện sớm, can thiệp sớm khuyết tật.
Việc can thiệp sớm giúp ngăn ngừa các yếu tố nguy cơ dẫn tới chậm phát triển
hoặc rối loạn chức năng, tạo ra những kích thích tốt với trẻ và giúp trẻ có mối tương
tác với môi trường xung quanh.
Đối với trẻ chậm phát triển, can thiệp sớm là biện pháp hiệu chỉnh chức năng,
giúp trẻ duy trì nhịp độ phát triển, giảm tác dụng phụ của các bệnh mãn tính và suy
giảm chức năng vĩnh viễn.
Các nhóm khuyết tật ở trẻ:
Khuyết tật về vận động gồm khuyết tật chân, tay và khuyết tật về khớp như:
bàn chân khoèo bẩm sinh, bàn chân bẹt, bàn chân gập mu, thiếu xương cẳng chân,
thừa hoặc thiếu một phần chân/tay; cứng đa khớp bẩm sinh, trật khớp bẩm sinh…
Khuyết tật về nghe/nói như: giảm thính lực bẩm sinh, dị tật tai, mù, cận/viễn thị
bẩm sinh, lác, giảm thị lực, rối loạn phát âm, nói ngọng, nói lắp…
Khuyết tật về trí tuệ gồm: hội chứng Down, suy giáp trạng, động kinh, các
bệnh di truyền - chuyển hóa nhiễm sắc thể…
Các khuyết tật khác như khuyết tật bẩm sinh về tim mạch, hô hấp…
Theo các bác sĩ khuyến cáo, việc phát hiện sớm khuyết tật cho trẻ rất quan
trọng, bất cứ ai cũng có thể giúp phát hiện được như bố mẹ, người trông trẻ, các cô
giáo mầm non, các cơ sở y tế. Chỉ cần quan sát và thực hiện một số hoạt động tương
tác với trẻ là có thể giúp phát hiện sớm, can thiệp sớm khuyết tật ở trẻ.
Các bác sĩ cũng lưu ý một số trường hợp cần được theo dõi, để ý đặc biệt như:
trẻ sinh thiếu tháng, có cân nặng khi sinh dưới 2,5kg; trẻ khơng khóc được ngay sau
khi sinh hoặc q mềm nhẽo khi bế lên; trẻ có bộ mặt bất tường như mắt xếch, mũi
tẹt, lưỡi thè, có khe hở mơi (hở hàm ếch)…
* Một số phương pháp mà cha mẹ có thể phát hiện sớm khuyết tật cho trẻ:

- Trẻ khơng quay lại nhìn khi gọi hoặc có tiếng động mạnh.
- Trẻ không phát ra những âm thanh như “da”, “ga”, “ca”, “ba”…
- Trẻ không đáp lại âm thanh khi có người chơi cùng.
- Trẻ khơng biết với, cầm, nắm đồ vật hoặc khơng chủ động tìm, lấy được đồ vật


7
mà mình muốn.
- Trẻ khơng có phản xạ sờ vào hình ảnh, cười với mình trong gương.
- Khi 12 tháng tuổi, trẻ không biết đứng dậy từ tư thế ngồi.
Khi cha mẹ nhận thấy những dấu hiệu bất thường ở trẻ trong phản xạ, giao tiếp
cũng như trong phát triển thể chất, cần phải sớm đưa trẻ đến các cơ sở y tế uy tín để
khám kịp thời và sớm được các bác sĩ có phát hiện, can thiệp sớm, đưa ra phương pháp
điều trị phù hợp nhằm giảm các nguy cơ có thể xảy ra.
1. Đánh giá trẻ khuyết tật

Các lĩnh vực phát triển là những mặt quan trọng mà một đánh giá toàn diện
cho trẻ nhỏ bị khuyết tật hoặc nghi ngờ là bị khuyết tật tìm hiểu. Hầu hết các
công cụ đánh giá được sử dụng cho trẻ nhỏ nhằm tìm hiểu chính xác mức độ
phát triển của một hay hơn một mặt phát triển sau: kĩ năng nhận thức, kĩ năng
vận động, kĩ năng ngôn ngữ và giao tiếp, kĩ năng xã hội và tình cảm, kĩ năng tự
phục vụ và thích ứng. Tuy nhiên, sự phát triển trong suốt giai đoạn tiền học
đường không thể tách riêng thành từng mặt phát triển riêng biệt được. Sở dĩ như
vậy là bởi vì các mặt phát triển có liên quan chặt chẽ với nhau và tác động với
nhau rất phức tạp ở trẻ nhỏ. Trên thực tế, mối quan hệ chức năng trực tiếp tồn
tại giữa những thay đổi ở một mặt phát triển này và những thay đổi đó xuất hiện
ở một mặt phát triển khác. Khi một đứa trẻ tập đi, nó tiếp cận với những trải
nghiệm mới và chính những trải nghiệm này sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển kĩ
năng (chẳng hạn như nhận thức, xã hội và ngôn ngữ). Hiểu được từng mặt phát
triển như đã mô tả ở dưới đây sẽ giúp ta hiểu trẻ đầy đủ hơn. Sự phát triển điển

hình có thể có tác dụng như là một lời hướng dẫn chung cho người làm can
thiệp và là một mốc tham chiếu để biết khi nào nên xem xét từng ưu điểm và
nhu cầu cũng như tiến bộ của trẻ.
Kĩ năng nhận thức
Kĩ năng nhận thức đề cập đến khả năng về tinh thần và trí tuệ của đứa trẻ.
Chỉ một hành vi nhận thức cũng đủ phản ánh những tiến bộ lớn lao diễn ra
trong hai năm đầu đời. Khi đánh giá kĩ năng nhận thức của trẻ sơ sinh, người ta
phải tìm hiểu khái niệm về tính bền vững của đồ vật, mối quan hệ không gian,
bắt trước, cách thức kết thúc, quan hệ nhân quả, và việc sử dụng đồ vật. Sự phát
triển nhận thức xuất hiện và thể hiện khi trẻ có ý định kích thích, chỉnh hợp
thơng tin mới với những kiến thức và kĩ năng đã có từ trước; biểu hiện những kĩ
năng tiền học đường chẳng hạn như đếm, phân loại và nhận mặt chữ; và khả
năng giải quyết vấn đề ngày càng phức tạp hơn. Hơn nữa, kĩ năng nhận thức
trong đó có cả khả năng dự đốn những sự kiện xảy ra của đứa trẻ, việc sử dụng
trí nhớ ngắn hạn và dài hạn, khả năng sắp xếp có trình tự các hoạt động, khả
năng phát hiện sự khác biệt giữa đồ vật và sự kiện, và khả năng lập kế hoạch sẽ


8

làm trong tương lai. Khi đang ở tuổi tiền học đường, việc đánh giá kĩ năng nhận
thức cho ta biết kĩ năng tiền học đường, gồm có tiền đọc, tiền viết và hình thành
biểu tượng về tốn. Đánh giá sự phát triển nhận thức trong suốt những năm
tháng tiểu học cho ta biết rõ hơn những kĩ năng tiền học đường và học đường.
Vào lúc này, khả năng nhận thức của trẻ trở nên tinh vi và sắc xảo hơn, nó thể
hiện ở sự hiểu biết của chúng về khái niệm, khả năng kể chuyện ngắn theo trật
tự và khả năng làm toán.
Kĩ năng vận động
Đánh giá kĩ năng vận động được chia thành hai phần: đánh giá kĩ năng
vận động tinh và đánh giá kĩ năng vận động thô. Kĩ năng vận động thô là khả

năng di chuyển và đi lại ở xung quanh môi trường. Kĩ năng vận động thơ tham
gia vào vận động và kiểm sốt các nhóm cơ lớn dùng để lẫy, ngồi, bị, đứng, đi
lại, ném và nhảy. Kĩ năng vận động tinh là khả năng dùng các nhóm cơ nhỏ
chẳng hạn như tay, chân và mặt. Kĩ năng vận động tinh dùng để với lấy, nắm và
thả một đồ vật chẳng hạn; xây tháp, buộc giầy; cắt và viết.
Kĩ năng vận động của trẻ sơ sinh chủ yếu mang tính phản xạ. Tuy nhiên,
khi não dần trưởng thành và cơ bắp được kiện toàn thì trẻ càng ngày càng có
thể kiểm sốt sự vận động của mình và đi lại ở xung quanh mơi trường. Trẻ nhỏ
khơng chỉ phát triển khả năng kiểm sốt vận động mà khả năng điều phối vận
động của chúng cũng tăng lên cùng với sự phát triển của kĩ năng vận động. Nói
chung, sự linh hoạt, dẻo dai, điều phối tay mắt của trẻ đều phát triển. Giữa lúc
2-6 tuổi, trẻ học và làm được nhiều việc một cách khéo léo hơn chẳng hạn như
đi lại và chạy nhanh nhẹn hơn, giữ thăng bằng và làm được nhiều hoạt động địi
hỏi kĩ năng vận động tinh phải chính xác hơn (ví dụ như vẽ nguệch ngoạc, cắt
bằng kéo, cài khuy, viết). Một đứa trẻ 8 tuổi có được kĩ năng vận động thô rất
thành thạo như nhào lộn, đi xe đạp hai bánh và chơi bóng (rê bóng, ném bóng
chính xác,....). Hầu hết trẻ 8 tuổi đã có thể viết khéo léo, chúng viết được gần
hết các từ, vẽ được tranh có chi tiết nhỏ, chơi xâu hạt, xếp hình, khối hoặc với
những đồ vật nhỏ khác. Đánh giá vận động tập trung tìm hiểu sự phát triển kĩ
năng vận động tinh và vận động thơ, trong đó lưu ý đến chất lượng kĩ năng vận
động của trẻ và cách chúng dùng những kĩ năng này như thế nào.
Kĩ năng giao tiếp và ngôn ngữ
Về kĩ năng giao tiếp và ngơn ngữ, có ba khía cạnh phát triển mà khi đánh
giá ta cần quan tâm đến. Giao tiếp là khả năng trao đổi thơng điệp giữa người
nói và người nghe. Ngôn ngữ là khả năng dùng biểu tượng (là những con chữ
được dùng theo nhiều cách để tạo thành từ) hay cú pháp (qui định tạo cấu trúc


9


câu), hoặc ngữ pháp khi giao tiếp với người khác. Lời nói là sự phát âm thành
tiếng/lời dùng trong giao tiếp.
Việc đánh giá kĩ năng giao tiếp và ngôn ngữ của trẻ nhỏ sẽ xét trên cả
ngôn ngữ tiếp nhận và ngôn ngữ biểu đạt. Ngôn ngữ tiếp nhận là khả năng hiểu
các thơng tin lời nói và phi lời nói. Ngơn ngữ biểu đạt là khả năng trình bày ý
nghĩ hay cảm xúc của mình qua lời nói, cử chỉ điệu bộ hoặc hành vi.
Giai đoạn phát triển kĩ năng giao tiếp và ngôn ngữ quan trọng nhất là
trước 5 tuổi. Giao tiếp của trẻ sơ sinh lúc đầu thường khơng có chủ ý; tuy nhiên
khi đến 3 tuổi hầu hết trẻ đã đạt được những yêu cầu chính đối với một hệ
thống giao tiếp. Phát triển ngôn ngữ trải qua nhiều giai đoạn, nó bắt đầu từ lúc
mới sinh. Khi đến tuổi đi học, trẻ thường dùng được tất cả những câu nói mà
người lớn phát ngơn. Khi kĩ năng giao tiếp bị khiếm khuyết hay chậm phát
triển, nghiệm viên chú ý đến ý định giao tiếp của trẻ, có nghĩa là họ tập trung
vào những cái mà trẻ cố gắng trao đổi mặc chúng có thể ẩn chứa nhiều nghĩa
(như cử chỉ điệu bộ, ánh mắt, phát âm).
Kĩ năng xã hội và tình cảm
Người ta tìm hiểu kĩ năng xã hội và tình cảm qua những hành vi mô tả
cách trẻ tương tác với người khác, kể cả người lớn và bạn cùng trang lứa; cách
chúng phản ứng trong nhiều tình xuống xã hội. Những kĩ năng này bao gồm cả
việc trẻ chủ động tương tác và phản hồi với những tương tác mà người khác gây
ra. Khi trẻ tương tác với người lớn, chúng cần những kĩ năng như chơi với
nhau, chia xẻ đồ chơi hoặc đề nghị đến lượt mình. Kĩ năng tình cảm là khả năng
phát hiện và trao đổi về cảm xúc cũng như hành động theo tình cảm của bản
thân mà vẫn tơn trọng quyền của người khác. Kĩ năng tình cảm bao gồm cả
cách kiểm soát cảm giác hưng phấn, giận dữ; cách giải quyết khi gặp xung đột.
Cá tính của trẻ sẽ được 'gọt rũa' nhờ chính những trải nghiệm của nó lúc cịn thơ
ấu. Chúng ta đều mong muốn là trẻ sẽ cảm thấy yên tâm về bản thân, biết cách
bày tỏ cảm xúc của mình vơi người khác sao cho hợp lý.
Kĩ năng tự chăm sóc và thích ứng
Đánh giá kĩ năng tự chăm sóc và thích ứng thường tập trung vào kĩ năng

ăn, chăm sóc cá nhân (đi vệ sinh, đánh răng, rửa tay,...) và mặc hoặc cởi quần
áo. Khi những kĩ năng khác mà trẻ đã thành thục (vận động thơ và tinh), thì
những kĩ năng tự chăm sóc và thích ứng cũng được phối hợp với nhau tốt hơn,
nhờ vậy trẻ có thể tự chăm sóc và thích ứng một cách độc lập hơn rất nhiều.
Lúc mới sinh, những kĩ năng tự chăm sóc và thích ứng nổi trội là ăn và ngủ.
Tuy vậy, khi lớn hơn và có thời gian tương tác với mơi trường nhiều hơn, trẻ
dần trở nên độc lập về kĩ năng ăn mặc và chăm sóc bản thân. Trẻ sơ sinh phát


10

triển kĩ năng từ các phản xạ bú, mút tới ăn bằng tay và uống khi đến tuổi chập
chững biết đi, rồi tự ăn bằng các đồ dùng hợp lý ở trường mẫu giáo hoặc nhà
trẻ. Đi vệ sinh, rửa tay, đánh răng, và chải tóc là những ví dụ về kĩ năng tự
chăm sóc. Những kĩ năng này cũng dần trở nên khéo léo hơn nếu trẻ cứ làm đi
làm lại nhiều lần. Tương tự như, hầu hết trẻ tiền học đường có kĩ năng mặc
quần áo sẽ tiến bộ từ chỗ tự biết cởi rồi biết mặc. Khi đến tuổi mẫu giáo và bắt
đầu đi học, trẻ tự làm được gần hết các kĩ năng tự phục vụ (cởi hoặc kéo phép
mơ tuya quần áo bò). Dần dà trẻ làm được nhiều việc hơn như ăn mặc và trong
các mơi trường như ở nhà, trưịng, cộng đồng. Đánh giá kĩ năng chăm sóc và
thích ứng tập trung tìm hiểu mức độ chính xác và độc lập khi trẻ dùng chúng.
Để đánh giá trong chương trinh can thiêp sớm cho trẻ khuyết tật ta có thể
sử dụng một số cách thức sau: Sử dụng các trắc nghiệm chính thức kiểm tra
trực tiếp trên trẻ hoặc những người liên quan, quan sát trong môi trường tự
nhiên, phỏng vấn và xem xét hồ sơ lưu trữ…
II. Xây dựng kế hoạch giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật trong cơ sở
GDMN
1.Nội dung
Lồng ghép trong KH giáo dục chung
Xác định mục tiêu, biện pháp, nhiệm vụ, điều kiện thực hiện

Tạo ra môi trường thuận lợi, thống nhất các lực lượng để đạt mục tiêu.
Xác định tiêu chuẩn để đo lường, đánh giá.
Các mốc thời gian thực hiện
2. Kế hoạch giáo dục cá nhân
Là văn bản xác định nội dung, phương pháp, hình thức và điều kiện thực hiện
theo thời gian hạn định trong mơi trường hồ nhập hay các mơi trường giáo dục khác
để đạt được mục tiêu can thiệp, giáo dục một trẻ khuyết tật
3. Nội dung bản khgd cá nhân
• Khả năng, nhu cầu của trẻ
• Mục tiêu giáo dục hằng năm và mục tiêu giáo dục của từng học kì
• Thời gian thực hiện;
• Nội dung, biện pháp thực hiện;
• Người thực hiện,
• Kết quả đánh giá và điều chỉnh sau đánh giá đối với trẻ
* Ý nghĩa của bản KHGDCN
- Thực thi chính sách hỗ trợ TKT,GV
- Thực hiện HĐ, chăm sóc GD trẻ KT tại gia đình và cộng đồng
- Quản lí hoạt động đã và đang diễn ra
- Đánh giá hiệu quả GD, sự tiến bộ của trẻ


11
- Huy động lực lượng xã hội tham gia
III. Tổ chức thực hiện giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật trong cơ sở
GDMN
* Thực hiện mục tiêu, nội dung chương trình và hướng dẫn GV điều chỉnh
kế hoạch giáo dục:
Hoạt động của GV
• Điều chỉnh MT, ND, cách thức tổ chức hoạt động
• Chuẩn bị tiếp nhận trẻ và tổ chức các hoạt động.

• Tổ chức hoạt động GD theo tiếp cận lấy trẻ làm TT
• Hoạt động của trẻ
Đối với TKT không cần KHGDCN
Đối với TKT được xây dựng KHGDCN
TỔ CHỨC GIÁO DỤC HÒA NHẬP
Đánh giá việc tổ chức hoạt động hồ nhập cho trẻ khuyết tật
• Sự chuẩn bị giáo án, đồ dùng, đồ chơi, phương tiện dạy học của giáo viên.
• Đánh giá thực hiện điều chỉnh mục tiêu, nội dung dạy học, trong đó bao gồm
việc đánh giá tiến hành bài học và đánh giá kết quả học tập trên trẻ
• Đánh giá kết quả giáo dục trẻ khuyết tật
• Sự phát triển về thể chất, vận động và các giác quan.
• Sự phát triển nhận thức
• Sự phát triển ngơn ngữ
• Khả năng tự phục vụ
• Xúc cảm – tình cảm xã hội
• Khả năng thẩm mĩ.
4. QUẢN LÍ KẾ HOẠCH CHUYỂN TIẾP
Các loại kế hoạch chuyển tiếp
- Kế hoạch chuyển tiếp nghỉ tết, nghỉ hè (bàn giao trẻ cho gia đình, cộng đồng).
- Kế hoạch chuyển tiếp lên lớp (ở các lớp từ thấp đến cao).
- Kế hoạch chuyển từ Mầm non lên Tiểu học, hoặc đến cơ sở GD khác.
- Kế hoạch chuyển sang trường khác
IV. Xây dựng mơi trường giáo dục hịa nhập cho trẻ khuyết tật trong cơ sở
GDMN
Môi trường giáo dục có vai trị rất quan trọng trong q trình phát triển toàn
diện cho trẻ, đặc biệt là đối với trẻ khuyết tật. Bởi vì khi có mơi trường giáo dục tốt
sẽ giúp phát triển nhân cách cho trẻ đồng thời giúp trẻ phát triển về tiềm năng của tư
cách, các năng lực tinh thần và thể chất. Hơn nưa đối với trẻ khuyết tật rất nhạy cảm
với mọi tác động bên ngồi. Khơng những thiếu dinh dưỡng có thể gây tác hại lâu dài
mà ngay cả những thiếu sót trong cách thức giáo dục, quan hệ tình cảm cũng dễ nảy

sinh những chấn thương tâm lý, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của trẻ. Cho nên
cô giáo mầm non có vai trị quan trọng trong việc giáo dục hòa nhập.


12
Cô giáo như mẹ hiền, thay thế mẹ để chăm sóc, giáo dục giúp đỡ cháu ở mọi
lúc mọi nơi. Vì vậy việc chăm sóc và giáo dục trẻ khuyết tật phải thường xuyên được
cải tiến, đổi mới, phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý và sở thích của trẻ. Tránh
mọi hình thức gị bó, áp đặt, mệnh lệnh làm căng thẳng ức chế tâm lý trẻ. Cô giáo
phải thường xuyên trò chuyện, âu yếm vỗ về trẻ, tạo cho trẻ tâm thế vui vẻ, thoải mái,
tạo môi trường đẹp, thân thiện để trẻ được hòa nhập cùng với các bạn, xây dựng
nhóm bạn cùng chơi với trẻ. Giúp trẻ mạnh dạn, tự tin thích được đến trường.
Song song với nhiệm vụ xây dựng môi trường thân thiện để trẻ khuyết tật hịa nhập
thì việc dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi là việc cần thiết. Đối với trẻ khuyết tật thì khả năng
nhận thức, diễn đạt những ý nghĩ, mong muốn của trẻ rất hạn chế. Vì thế cơ giáo phải
thường xun quan tâm chăm sóc, trị truyện, giúp đỡ trẻ ở mọi lúc mọi nơi, trong
mọi.hoạt.động.
Việc giáo dục trẻ khuyết tật phải thực hiện một cách thường xuyên, phải kiên
trì, nhẫn nại, thường xuyên nhắc nhở giáo dục trẻ, trong trường, trong lớp phải yêu
thương, giúp đỡ bạn lúc khó khăn, thấy bạn ngã phải đỡ bạn dậy, thấy bạn buồn, bạn
khơng khỏe thì phải quan tâm hỏi thăm, cùng chơi với bạn. Đây là cơ hội tốt để giáo
dục tình cảm, lịng nhân ái, nhân cách sống và kỹ năng sống cho trẻ mầm non.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×