Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Quản lý nhà nước đối với các công ty tham gia thị trường chứng khoán16

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.66 KB, 49 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỤC LỤC
MỤC LỤC.................................................................................................. 1
A. LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................3
B.NỘI DUNG.............................................................................................4
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TTCK:......4
1.Khái niệm cơ bản về quản lý và QLNN đối với TTCK:......................4
2. Vai trò của việc quản lý TTCK:............................................................6
3. Chức năng của quản lý TTCK:.............................................................6
4. Các nguyên tắc cơ bản trong quản lý TTCK:......................................7
4.1. Nguyên tắc thống nhất quản lý về chính trị và kinh tế:....................8
4.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ:.........................................................8
4.3. Nguyên tắc kết hợp giữa các lợi ích kinh tế: ...................................9
4.4. Nguyên tắc hiệu quả:.....................................................................11
5. Các biện pháp quản lý TTCK:............................................................11
5.1. Biện pháp giáo dục chính trị, tư tưởng:........................................13
5.2. Biện pháp hành chính luật pháp:...................................................13
5.3.Biện pháp tổ chức và chỉ đạo:.........................................................14
5.4. Biện pháp kinh tế:..........................................................................15
II. Quản lý nhà nước đối với các công ty tham gia thị trường chứng
khoán..............................................................................................................16
1. Khái niệm..............................................................................................16
2.Nội dung.................................................................................................16
2.1.Quản lý đối với việc phát hành TPCP, Trái phiếu được Chính phủ
bảo lãnh và TPCQĐP...........................................................................16
2.2. QLNN đối với hoạt động PHCK của các doanh nghiệp:................19
2.3.QLNN đối với hoạt động niêm yết và ĐKGD..................................26
2.4. QLNN đối với hoạt động GDCK:...................................................30
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
3.các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với các công ty tham


gia chứng khoán........................................................................................33
4. tiêu chí đánh giá hoạt động quản lý nhà nước đối với công ty tham
gia chứng khoán........................................................................................35
III. Đánh giá hoạt động quản lý nhà nước đối với các công ty tham gia
vào thị trường chứng khoán.........................................................................35
1.Khung pháp lý: .....................................................................................35
2.Những hạn chế:......................................................................................39
3. Các giải pháp chung:............................................................................42
3.1. Hoàn thiện khung pháp lý CK & TTCK:........................................42
3.2. Hoàn thiện bộ máy QLNN đối với TTCK:......................................45
C.KẾT LUẬN..........................................................................................47
D. Danh mục các văn bản pháp luật, các sách, báo, tạp chí:.................49
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
A. LỜI MỞ ĐẦU
Với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế của thế giới,với sự vươn lên không
ngừng của các nước trong khu vực mà đặc biệt là sự phát triển như vũ bão về
kinh tế, chính trị, xã hội.điều đó đặt nước ta vào một vị thế vô cùng quan trọng,
bởi vì nước ta nằm ở vị trí cực kỳ nhậy cảm,nhạy cảm về vị trí chiến lược trong
khu vực cũng như quân sự. chính vì thế mà đảng và nhà nước ta đã nhận thấy rõ
công việc của mình là phải lãnh đạo, định hướng phát triển nền kinh tế đất nước
sao cho thật tốt, để tiến tới kỷ nguyên mới với thành công rực rỡ. để đạt được
điều đó đảng, nhà nước đã đưa ra nhiệm vụ ,mục tiêu tiến hành “Công nghiệp
hóa và hiện đại hóa đất nước”.
Để tiến hành công nghiệp hóa và hiện đại hóa thành công, tăng trưởng
kinh tế bền vững, khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực cần
phải có nguồn vốn lớn. mà để có nguồn vốn lớn cần có thị trường chứng
khoán .tuy nhiên việc phát hành thị trường chứng khoán ở Việt Nam gặp rất
nhiều khó khăn về kinh tế cũng như sự hiểu biết về loại hình kinh doanh này còn
hạn chế, đặc biệt khi thị trường chứng khoán đi vào hoạt động cần phải có “sự

quản lý của nhà nước đối với các công ty phát hành chứng khoán”
Chính vì thế, mà hơn bao giờ hết chúng ta cần phải chuẩn bị một kỹ năng
kỹ càng cả về kiến thức cơ bản và học hỏi kinh nghiệm của một số nước trên thế
giới về tổ chức quản lý và kiểm soát hoạt động của các công ty phát hành chứng
khoán.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
B.NỘI DUNG
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TTCK:
1.Khái niệm cơ bản về quản lý và QLNN đối với TTCK:
Khi xã hội loài người xuất hiện thì nhu cầu quản lý cũng hình thành. Trình
độ quản lý phát triển theo sự phát triển của xã hội qua các phương thức sản xuất
khác nhau. Trong thời đại ngày nay, trong ba yếu tố cơ bản quyết định tới sự
phát triển của xã hội là sức lao động, tri thức và trình độ quản lý thì quản lý
được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu.
“Quản lý là sự tác động liên tục, có định hướng, có tổ chức của chủ thể
quản lý ( người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể ( đối tượng bị quản lý)
trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá,xã hội …thông qua hệ thống pháp luật,
các chính sách, các nguyên tắc, các quy định và bằng các biện pháp cụ thể
nhằm tạo ra mội trường và tạo điều kiện cho sự phát triển của đối tượng bị
quản lý”.
Quy mô của quản lý có thể khác nhau: toàn cầu, khu vực, quốc gia, ngành,
đơn vị…Quy mô khác nhau thì tính chất của quản lý cũng khác nhau. Quản lý ở
phạm vi quốc gia được coi là quản lý Nhà nước, quản lý ở một đơn vị kinh
doanh được coi là quản lý kinh doanh ( quản trị kinh doanh)…
TTCK là một lĩnh vực hoạt động trong nền kinh tế một quốc gia. Vì vậy:
“Quản lý Nhà nước đối với TTCK của một quốc gia là sự quản lý vĩ mô
của Nhà nước đối với các hoạt động xây dựng, vận hành và phát triển của
TTCK”.
Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên các khách thể chịu sự quản

lý, làm cho các khách thể vận động theo hướng mà chủ thể mong muốn. Bản
chất của hoạt động quản lý là quá trình đề ra các luật lệ, quy tắc, quy định và
thực hiện việc giám sát, cưỡng chế thực thi các luật lệ, quy tắc, quy định đó
nhằm kích thích và phát triển các yếu tố tích cực, đồng thời loại bỏ những yếu tố
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tiêu cực không mong muốn. Hoạt động có sự quản lý là hoạt động phải tuân thủ
các luật lệ, quy tắc do con người là chủ thể quản lý đặt ra. Lịch sử hình thành và
phát triển TTCK ở các nước cho thấy TTCK ở những nước phát triển ra đời và
hoạt động tự do nhiều năm trước khi có sự quản lý về lĩnh vực này. Việc quản lý
TTCK xuất hiện với mục đích chống lại những hành vi thao túng, lừa đảo,
chống lại sự lạm dụng trong hoạt động chứng khoán. Cùng với sự phát triển với
quy mô ngày càng rộng lớn và đa dạng, phức tạp của TTCK thì phương thức,
nội dung, chức năng của quản lý ngày càng được hoàn thiện và phát triển. Nếu
như trong thời kì sơ khai của TTCK, việc quản lý TTCK chủ yếu do các tổ chức
tự nhiên đảm trách, không có sự tham gia của các tổ chức quản lý Nhà nước và
pháp luật, thì cho đến ngày nay, ở hầu hết các nước đã có sự tham gia quản lý
của Nhà nước để tăng cường hiệu quả của quản lý. Nếu như trước đây, chức
năng chủ yếu của các chủ thể quản lý là duy trì sự ổn định kỷ luật của thị trường
thì ngày nay, ngoài các chức năng đó, các chủ thể quản lý còn phải thực hiện
chức năng phát triển thị trường và ngăn ngừa những rủi ro lây lan của toàn bộ hệ
thống.
Có thể khẳng định rằng, xu thế của tất cả các quốc gia là đưa TTCK vào
quỹ đạo quản lý Nhà nước có kết hợp với chế độ tự quản.
Quá trình hình thành và mức độ phát triển phức tạp, đa dạng của TTCK và
điều kiện cụ thể của mỗi nước dẫn đến sự đa dạng trong cơ chế và mức độ quản
lý thị trường. Trong khi hầu hết các TTCK ở các nước phát triển được hình
thành từ khu vực tư nhân nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, do các cá
nhân đứng ra tổ chức, vận hành và tự quản thì ngược lại, ở các nước đang phát
triển TTCK thường do Chính phủ đứng ra thành lập với những mục đích cụ thể

như hỗ trợ huy động vốn, tư nhân hoá hay thực hiện các mục tiêu kinh tế khác
của Nhà nước. Do vậy Chính phủ đóng vai trò chính trong việc tổ chức và quản
lý thị trường.
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2. Vai trò của việc quản lý TTCK:
Vai trò của việc quản lý TTCK là hướng tới việc tạo lập một thị trường
công bằng, công khai, trung thực và hiệu quả.
- Tính công bằng trong hoạt động của TTCK được đảm bảo bằng các biện
pháp quản lý chống độc quyền và bảo vệ sự cạnh tranh lành mạnh trong kinh
doanh chứng khoán, đầu tư chứng khoán, đặc biệt là công bằng với các nhà đầu
tư nhỏ.
- Tính công khai trong hoạt động của TTCK được đảm bảo bằng các biện
pháp quản lý bắt buộc công khai thông tin của các đối tượng tham gia thị trường,
nhằm tránh hoạt động lạm dụng, không lành mạnh.
- Tính trung thực trong hoạt động của TTCK được đảm bảo bằng các hoạt
động quản lý nhằm làm hạn chế những rủi ro phát sinh từ những hoạt động
không đúng đắn, rủi ro lây lan do mất lòng tin của công chúng đầu tư.
Một thị trường mà hệ thống quản lý được xem là có hiệu quả cần phải được
xem xét cả về khía cạnh tiết kiệm chi phí và lợi ích thu được.Tính hiệu quả tỷ lệ
thuận với kết quả và tỷ lệ nghịch với chi phí. Kết quả được đánh giá chủ yếu
thông qua việc thực hiện chức năng huy động vốn dễ, rẻ, luân chuyển vốn, phân
bổ và sử dụng nguồn vốn một cách hợp lý…Chi phí được tính chủ yếu được tính
đến là chi phí cho bộ máy quản lý và những chi phí thất thoát, mất mát do quản
lý kém. Việc quản lý thái quá hoặc không đầy đủ có thể dẫn đến làm tăng chi
phí, làm giảm hiệu quả quản lý thị trường.
3. Chức năng của quản lý TTCK:
Quản lý là một hình thức đặc biệt của hoạt động điều hành, là sản phẩm của
tiến trình phân công lao động và chuyên môn hoá việc quản lý. ở hầu hết các
nước đang phát triển, các chủ thể quản lý luôn có hai chức năng chính: duy trì sự

hoạt động ổn định của thị trường; tạo điều kiện để phát triển thị trường, làm cho
thị trường có thể cạnh tranh và thích ứng với mọi thay đổi trong xã hội.
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Với chức năng ổn định thị trường tức là phải tạo lập một thị trường có kỷ
luật, an toàn, trật tự, ít rủi ro thì các nhà quản lý phải xác định được nên cho
phép đối tượng nào tham gia thị trường, tiêu chuẩn tham gia gồm những yếu tố
gì, xác định phải quản lý cái gì và giám sát cái gì. Với chức năng phát triển thì
các nhà quản lý phải tạo động lực thúc đẩy thị trường. Các chức năng này được
sử dụng vào hoàn cảnh khác nhau, tuy nhiên trong hoạt động quản lý Nhà nước
thì các chức năng này thường được áp dụng một cách đồng bộ.
Đối với TTCK, hoạt động quản lý được cụ thể hoá ở một số lĩnh vực sau:
- Xây dựng kế hoạch hoạt động và phát triển TTCK với từng bước đi cụ thế
và thích hợp với điều kiện văn hoá, kinh tế, chính trị, xã hội, dân trí và các điều
kiện khác.
- Xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy của TTCK như: cơ quan quản lý Nhà
nước, SGDCK, TTGDCK, TTLKCK, CtyCK, CtyQLQ…
- Xây dựng sự phối hợp giữa các tổ chức, các cá nhân là thành viên tham
gia TTCK để tạo được sự thống nhất trong mọi hoạt động của TTCK.
- Điều chỉnh, xử lý các hành vi sai phạm trên TTCK như mua bán gian lận,
đầu cơ,…Mặt khác, tạo các điều kiện thuận lợi, khuyến khích những hoạt động
tiêu cực trên thị trường.
- Thực hiện công tác kiểm tra định kỳ, bất thường nhằm phát hiện các hành
vi vi phạm pháp luật, thực hiện tổng kết thống kê nhằm tổng hợp hoạt động của
thị trường.
4. Các nguyên tắc cơ bản trong quản lý TTCK:
Nguyên tắc quản lý là những nguyên tắc chỉ đạo, những tiêu chuẩn hành vi
mà các chủ thể quản lý phải tuân theo khi thực hiện việc chỉ đạo, điều hành của
mình.
Các nguyên tắc trong quản lý được hình thành theo một hệ thống nhất

quán. Con người đề ra các nguyên tắc quản lý nhưng những nguyên tắc này
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cũng chỉ mang tính chất khách quan vì nó nảy sinh từ chính bản chất xã hội.
Khoa học quản lý đã rút ra những nguyên tắc cơ bản của quản lý như sau:
4.1. Nguyên tắc thống nhất quản lý về chính trị và kinh tế:
Trong hoạt động con người thì chính trị và kinh tế là hai phạm vi khác nhau
nhưng lại có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thúc đẩy nhau. Giữa hai phạm vi
hoạt động này không phải lúc nào cũng thống nhất mà nhiều khi chúng có sự
độc lập tương đối nhưng lại có quan hệ tương hỗ và phụ thuộc nhau. Chính trị
nhiều khi là biện pháp để thực hiện các mục tiêu kinh tế và ngược lại, kinh tế lại
là đòn bẩy, là động lực để thực hiện các mục đích chính trị.
Nguyên tắc này cũng được áp dụng trong QLNN đối với TTCK. Yếu tố
kinh tế của TTCK được thể hiện ở chỗ nó được coi như là một thị trường của
các thị trường. Bên cạnh đó, TTCK không chỉ mang lại lợi ích mang tính kinh tế
mà còn có cả các yếu tố chính trị trong đó. Chính vì thế, trong quản lý TTCK, sự
kết hợp giữa kinh tế và chính trị là một yêu cầu bắt buộc, và trong trường hợp có
xung đột giữa hai mục đích thì mục tiêu chính trị phải được đặt lên trên nhất vì
trong chính trị đã bao hàm cả kinh tế. Để TTCK phát huy được hết vai trò, chức
năng của mình thì TTCK phải ổn định, phát triển lành mạnh. Với đặc điểm đây
là một thị trường có tính rủi ro hệ thống rất cao, dễ bị ảnh hưởng khi có thông
tin bất cân xứng trên thị trường thì nếu nhà quản lý không đặt mục tiêu an toàn
ổn định của TTCK lên trước mục tiêu kinh tế thì nguy cơ xảy ra những tác động
không tốt là rất lớn. Tuy nhiên, nhà hoạch định chính sách và quản lý TTCK
cũng không thể lơi là tính kinh tế trong việc thực hiện công tác quản lý. TTCK
cần được hoạt động đúng theo nguyên tắc của thị trường là quy luật tự do cung
cầu và chỉ khi đó TTCK mới đem lại lợi ích thiết thực.
4.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ:
Tập trung dân chủ là tập trung điều hành vào một cơ quan quyền lực cao
nhất. Đây là cơ quan vạch ra đường lối, điều lệ, quy chế, phương hướng, đường

lối, mục tiêu tổng quát và đề ra các biện pháp cơ bản, chủ yếu để thực hiện. Tính
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dân chủ trong quản lý thể hiện ở chỗ mọi người có thể tham gia bàn bạc, đóng
góp ý kiến để tìm ra các biện pháp khả thi nhất cho quá trình thực hiện. Hai vấn
đề tập trung dân chủ có sự tác động qua lại với nhau. Tuy nhiên trong thực tế,
quá trình thực hiện hai nguyên tắc này thường dễ làm nảy sinh hai thái cực, hoặc
là tập trung quan liêu độc đoán chuyên quyền, hoặc là dân chủ quá trớn, vô
chính phủ.
Đối với TTCK, sự tập trung quản lý thể hiện ở việc tập trung quyền hạn
quản lý cho một cơ quan nhất định, thường là UBCK quốc gia, và ở các TTCK
trong giai đoạn mới hình thành và phát triển thì điều này đặc biệt quan trọng. ở
những TTCK mới hình thành thì chủ thể tham gia thị trường còn chưa có hiểu
biết tốt, tình trạng không minh bạch, lừa đảo có thể xảy ra; đồng thời TTCK còn
là thị trường của những thị trường do vậy cần phải có một cơ quan quyền lực đủ
khả năng thực hiện những biện pháp cần thiết để tạo lập được một thị trường
công bằng và điều khiển mọi hoạt động của TTCK theo những nguyên lý cơ bản
của thị trường về quy luật cung cầu, quy luật tự do cạnh tranh, nếu không tính
hiệu quả của thị trường sẽ không còn nữa. Trong quá trình hình thành và phát
triển của TTCK, chính những chủ thể tham gia trên thị trường lại là những người
khởi xuớng, thống nhất những quy ước và tập quán chung cho toàn TTCK, và ở
các TTCK lâu đời thì vai trò của những quy ước, tập quán tự thiết lập này là rất
lớn nếu không nói là vai trò chính. Trong một chừng mực nào đấy, chính những
quy ước, tập quán này đã tạo lập được trật tự của TTCK và giúp cho TTCK
hoạt động có hiệu quả. Vì vậy, nếu sự tập trung quyền hạn bị lạm dụng trong
quản lý TTCK thì sẽ làm hỏng các chức năng lành mạnh của TTCK. Do đó,
người làm công tác quản lý cần có sự điều chỉnh mức độ dân chủ tuỳ theo sự
phát triển của thị trường với sự tập trung quyền lực quản lý nhất định.
4.3. Nguyên tắc kết hợp giữa các lợi ích kinh tế:
Trên thực tế luôn có lơi ích khác nhau giữa chủ thể và khách thể quản lý,

có sự mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội. Vai
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trò của công tác quản lý lúc này là phải tìm cách kết hợp, thoả mãn các lợi ích
theo đúng nhu cầu, đảm bảo cho các lợi ích không đối lập nhau, hỗ trợ thúc đẩy
nhau phát triển. Vấn đề này đòi hỏi công tác quản lý phải chú trọng tới từng loại
lợi ích trong từng mặt hoạt động như đầu tư, huy động vốn, phân chia lợi nhuận,
ban hành các quy định về thuế,…
Khi TTCK hoạt động ổn định, hiệu quả thì các nguồn vốn mới được sử
dụng tối đa nhât và đem lại lợi ích kinh tế. Người cần vốn có được chi phí vốn rẻ
nhất và lợi nhuận đem lại cho người đầu tư là cao nhất. Thực tế, bên cạnh sự
thống nhất chung thì luôn tồn tai mâu thuẫn giữa các lợi ích với nhau, mâu thuẫn
giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, và nguyên nhân phát sinh lại chính từ tính
chất cạnh tranh khốc liệt của cơ chế thị trường. Các nguồn vốn đầu tư được
thông qua TTCK thì lại tập trung chủ yếu vào trong các lĩnh vưc sản xuất, dịch
vụ là những nơi đem lại mức sinh lời cao, dễ thu hồi vốn và mức độ rủi ro lại
thấp. Ngược lại, tại những ngành thuộc lĩnh vực đầu tư mang tính công cộng,
tính xã hội cao như giáo dục, y tế, khoa học…thì lại không mấy được các nhà
đầu tư mặn mà vì khó thu hồi vốn, lợi nhuận thu được thấp và mức độ rủi ro cao.
Rủi ro trên TTCK còn phát sinh khi các cá nhân vì lợi ích riêng mà có thể có
những hành vi không tốt, không minh bạch như tình trạng đầu cơ, các hành vi
gian lận, làm giá gây thiệt hại tới lợi ích chung của toàn bộ thị trường, và khi đó
thì lợi ích của toàn xã hội cũng bị ảnh hưởng. Như vậy, thứ tự ưu tiên trong quản
lý là quyền lợi xã hội nói chung, thể hiện là quyền của người đầu tư phải được
đảm bảo. Khi đó thị trường mới có thể vận hành tốt được và đem lại lợi ích cho
những chủ thể tham gia khác như người môi giới kinh doanh dịch vụ…Do đó
cần phải có sự điều tiết quản lý của Nhà nước mới có thể đảm bảo nguồn vốn
đầu tư cho các ngành phi lợi nhuận hoạt động, đảm bảo sự phát triển đồng đều
và toàn diện của xã hội.
10

Website: Email : Tel : 0918.775.368
4.4. Nguyên tắc hiệu quả:
Tiết kiệm là hạn chế chi phí đến mức tối thiểu mà vẫn đem lại hiệu quả tối
đa. Tiết kiệm là nhằm để giảm thiểu chi phí nhưng chỉ có ý nghĩa khi thực hiện
nó mang tính hiệu quả. Hiệu quả là kết quả cuối cùng của hoạt động được đo
bằng giá trị, vật phẩm, thời gian tác động,…Tiết kiệm và hiệu quả luôn đi với
nhau và nó là thước đo để đánh giá kết quả cuối cùng của quản lý.
TTCK là mô hình tiêu biểu nhất về tính hiệu quả vì bản thân TTCK đã
mang trong nó tính tiết kiệm chi phí và nhằm tới hiệu quả kinh tế cao nhất vì
đây là môi trường thuận lợi nhất cho các nguồn vốn từ các nhà đầu tư được trực
tiếp đưa đến nơi cần vốn. Quá trình đầu tư thông qua TTCK được thực hiện với
chi phí thấp nhưng mang lại hiệu quả cao. Vì vậy, đảm bảo nguyên tắc này trong
TTCK tức là đảm bảo cho TTCK được hoạt động tự nhiên và phát huy những
chức năng vốn có của nó. Nguyên tắc này được coi là tiêu chí áp dụng cho bất kì
chính sách nào bởi mỗi chính sách đem lại lợi ích cũng kèm theo đó là chi phí.
Nếu chi phí lớn hơn lợi ích đem lại thì việc áp dụng các chính sách đó là không
có tác dụng.
5. Các biện pháp quản lý TTCK:
Biện pháp quản lý là tổng thể những cách thức tác động đến cá nhân hay
tập thể nhằm khuyến khích họ thực hiện tốt công việc.
Khác với nguyên tắc quản lý là những yêu cầu bắt buộc phải tuân theo thì
biện pháp quản lý là những cách thức linh hoạt mà người quản lý có thể tuỳ
chọn và sử dụng phối hợp theo ý mình nhằm tạo ra hiệu quả quản lý cao nhất.
Do đó biện pháp quản lý có rất nhiều, hình thức và cách áp dụng cũng khác
nhau. Đối với TTCK cần áp dụng phương thức quản lý nào thì lại phụ thuộc rất
nhiều vào mức độ phát triển của thị trường. Trên thực tế, xuất hiện hai trường
phái quản lý chính đối với TTCK là quản lý chặt chẽ của Nhà nước (phổ biến ở
những nước có TTCK mới phát triển) hoặc là tự quản (phổ biến ở những nước
có thị trường phát triển lâu đời).
11

Website: Email : Tel : 0918.775.368
QLNN được hiểu là Nhà nước giao quyền quản lý cho một hay nhiều cơ
quan của Nhà nước hoặc Chính phủ được phép đặt ra luật pháp hay quy định
cho thị trường và thực thi luật. Cho dù quyền quản lý này nằm trong tay một hay
nhiều cơ quan khác nhau thì vẫn thuộc quyền kiểm soát của Nhà nước. Khi một
nước theo trường phái Nhà nước tham gia nhiều vào quản lý, thông thường là
bẵng cách thông qua một cơ quan chuyên biệt trực thuộc Nhà nước thì việc áp
dụng biện pháp hành chính, luật pháp thường chiếm một vị trí lớn.
Trường phái tự quản lại cho phép chính người tham gia vào TTCK tự đặt ra
luật lệ. Ví dụ như rất nhiều SGDCK có tư cách là một hiệp hội và mọi hoạt động
của SGDCK đều do SGDCK tự đặt ra để mọi thành viên phải tuân theo…Trong
trường hợp này, biện pháp mà Nhà nước phải sử dụng là biện pháp tổ chức,
điều kiển và biện pháp kinh tế.
Mỗi trường phái đều có mặt mạnh và mặt yếu của nó. Tự quản cho phép
các quy định của thị trường phù hợp với yêu cầu của những người tham gia thị
trường, song chính các tổ chức tự quản này đôi khi có khả năng bất chấp và hi
sinh tính thống nhất của thị trường vì quyền lợi trước mắt của các hội viên. Mặt
tốt của các tổ chức tự quản này là thường xuyên có những đổi mới về tập quán
kinh doanh cho phù hợp với sự phát triển thực tế của thị trường, song cũng có
nguy cơ khi các tổ chức này có tính “ phản cạnh tranh” khi chúng tìm cách cố
định giá cả, hạn chế sự tham gia của các thành viên mới và phản đối sự thay đổi
cơ cấu ngành kinh tế khi sự thayđổi đó ảnh hưởng đến quyền lợi của các hội
viên. Trong trường hợp này, nếu có sự quản lý của cơ quan QLNN cùng với sự
hỗ trợ ngân sách cần thiết thì các cơ quan QLNN này có thể vượt qua được vấn
đề quyền lợi trước mắt và thực hiện các thay đổi cần thiết. Mặt khác, các cơ
quan QLNN thường lại thiếu nhân lực cũng như tài chính để vạch ra các chính
sách mang tính kĩ thuật và để trực tiếp giám sát, kiểm soát hoạt động của thị
trường. Trong công tác quản lý, người quản lý phải biết vận dụng khéo léo tất cả
các biện pháp trên để đạt được hiệu quả quản lý cao nhất.
Một số biện pháp điển hình thường được sử dụng là:

12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
5.1. Biện pháp giáo dục chính trị, tư tưởng:
Hầu hết các TTCK mới nổi đều không phải theo con đường tự nhiên như
các thị trường lâu đời ở phương Tây. Những thị trường này ra đời là do lỗ lực
của Chính phủ trong việc thiết lập một thị trường tài chính. Nó còn mới mẻ với
tất cả các chủ thể tham gia trên TTCK. Hầu hết mọi người chưa có nhận thức và
hiểu biết về TTCK do đó họ còn dè dặt trong việc đầu tư vào thị trường này. Bởi
vậy, việc trang bị cho họ những kiến thức cơ bản về chứng khoán và TTCK để
họ có thể hiểu về những lợi ích của hình thức đầu tư mới mẻ này đem lại, đồng
thời trang bị cho họ những kĩ năng để họ có thể đầu tư một cách hiệu quả nhất,
tự chịu trách nhiệm về các quyết định đầu tư của mình, tự phòng chống được các
rủi ro khi tham gia trên thị trường,… Vì thế yếu tố giáo dục, xây dựng tâm lý
cho người tham gia thị trường là cực kì quan trọng. Việc giáo dục bao gồm công
tác vạch đường lối chính sách phát triển kinh tế cho phù hợp, đào tạo phổ biến
kiến thức về thị trường, về chuyên môn nghiệp vụ; xây dựng và thiết lập những
chuẩn mực kinh doanh, kế toán, kiểm toán, xếp hạng cho hoạt động phát hành
và bảo lãnh chứng khoán.
5.2. Biện pháp hành chính luật pháp:
Bịên pháp này có tác động trực tiếp và có vai trò lớn nhất trong các biện
pháp quản lý của Chính phủ ở các TTCK mới nổi bởi ở những thị trường này
mọi hoạt động đang đều ở giai đoạn mới hình thành, hơn thế nữa nhiều khi lại ra
đời không theo con đường tự nhiên như ở các nước phát triển. Nhà nước đóng
vai trò chính trong việc điều hành và hướng dẫn thị trường. Ngoài ra, cho dù ở
bất kỳ TTCK nào thì hình thức quản lý cơ bản nhất vẫn là luật pháp. Bởi đây là
một thị trường đầy tính phức tạp thì luật pháp rõ ràng gần như là một điều kiện
tiên quyết để có một thị trường hoạt động trong khuôn khổ và ổn định. Luật
pháp về chứng khoán phải được hiểu là cả một hệ thống gồm Luật Chứng khoán
và các luật khác như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư,… Và vì vậy, việc xây
dựng một hệ thống luật pháp không chỉ đơn thuần là việc cho ra đời Luật Chứng

13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khoán mà còn bao gồm cả việc điều chỉnh và hoàn thiện dần các luật liên quan
để tạo môi trường pháp lý đầy đủ cho sự hình thành và phát triển của thị trường.
Trên thực tế, rõ ràng không thể có được một hệ thống luật pháp hoàn thiện
lý tưởng ngay từ khi TTCK mới hình thành. Do dó, biện pháp quản lý hành
chính là điều cần thiết để điều chỉnh và xử lý những hành vi có nguy cơ hoặc đã
gây thiệt hại cho thị trường, nhất là những thị trường mới nổi và đặc biệt đang ở
trong giai đoạn đầu mới hình thành thị trường. Điều này còn đúng hơn với thị
trường đang còn thiếu những chuyên gia giỏi về kiểm toán, kế toán, hệ thống
hành pháp thiếu những người có hiểu biết về TTCK.
5.3.Biện pháp tổ chức và chỉ đạo:
Tổ chức là định hình các cơ cấu bộ phận tạo thành, xác lập chức năng,
quyền hạn, nhiệm vụ và phạm vi hoạt động của từng bộ phận, đặt các bộ phận
trong quan hệ đối tác phù hợp, trong một tổng thể hoàn chỉnh. Thể chế hoá tổ
chức là quá trình Nhà nước quy định cơ cấu tổ chức, vạch ranh giới cho từng
cấp quản lý bằng các văn bản pháp luật, các văn bản quy định chức năng, nhiệm
vụ, cơ cấu tổ chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, là những cơ quan QLNN theo
lĩnh vực chuyên môn; quy định cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của DNNN hoặc cơ cấu tổ chức của các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, điều lệ
doanh nghiệp, điều lệ công ty…
Trong quản lý, sự tác động của tổ chức có ý nghĩa hiệu quả và thiết thực.
Nó chỉ cho mọi người, mọi cấp biết trước phải hoạt động theo trật tự quy định
trước, nhằm đạt được những chỉ tiêu định trước. Mặt khác, tổ chức có thể gây
cản trở nếu quy định quá chi tiết, cứng nhắc khiến người thừa hành không phát
huy được sáng kiến, mất tính linh hoạt, sáng tạo. Do đó, bên cạnh công tác tổ
chức phải có sự điều khiển trực tiếp. Điều khiển là sự đôn đốc, chỉ đạo cụ thể
nhằm điều chỉnh kịp thời những sai lệch so với mục tiêu đề ra. Đó là hình thức
tác động tích cực và linh hoạt nhất của biện pháp quản lý.Tổ chức và điều khiển
cần được thực hiện phối hợp lẫn nhau trong quá trình quản lý.

14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đối với TTCK, vai trò của biện pháp tổ chức trong QLNN là rất quan
trọng. Chỉ khi Nhà nước thể chế hoá được hệ thống quản lý TTCK thì mới có
thể thực hiện được việc quản lý. Thông thường, các Chính phủ phải thành lập
một uỷ ban chuyên trách trực tiếp quản lý TTCK, thường là UBCK quốc gia.
Ngoài ra, nếu không thành lập một uỷ ban riêng thì Nhà nước phải giao quyền
quản lý cho một Bộ hay một cơ quan tương đương cấp, ví dụ như NHTW. Tuỳ
thuộc vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà uỷ ban này được quy định, Nhà
nước thực hiện công tác quản lý của mình. Nếu việc thể chế hoá tổ chức được
thực hiện kém thì khả năng QLNN sẽ bị hạn chế đi rất nhiều.
Tuy nhiên, cần phải hết sức thận trọng khi sử dụng biện pháp này vì sự can
thiệp quá sâu vào TTCK thường để lại những hậu quả xấu. Trong trường hợp
cần thiết vẫn phải sử dụng biện pháp này vì các cơ quan quản lý thường chậm
thay đổi, khó có thể theo kịp những thay đổi và tiến bộ hàng ngày của thị
trường. Cách tốt nhất là hoàn thiện thể chế tổ chức quản lý và liên tục cải tiến,
đổi mới tổ chức quản lý.
5.4. Biện pháp kinh tế:
Biện pháp quản lý bằng kinh tế là cách thức vận dụng tổng hợp các đòn bẩy
kinh tế để kích thích các cá nhân, tập thể và toàn bộ xã hội thực hiện được mục
tiêu theo định hướng vạch sẵn. Những đòn bẩy này ở phạm vi vĩ mô là các chính
sách kinh tế, các chế tài, các chế độ thuế, chế độ hạch toán, kế toán,…Cơ sở lý
luận và thực tế của nhiều nước cho thấy chế độ thuế là một công cụ tích cực
trong quản lý TTCK. Chế độ thuế phù hợp có thể khuyến khích đầu tư vào
chứng khoán, làm tăng cầu chứng khoán, là động lực cho TTCK phát triển.
Nhiều quốc gia áp dụng chế độ hạch toán kinh tế độc lập cho các SGDCK, tạo
nguồn thu nhập cho các SGDCK, để chính các SGDCK này duy trì được vai trò
tự quản và thực hiện được những chương trình khoa học, áp dụng được những
công nghệ cần thiết cho quản lý.
15

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Như vậy, biện pháp kinh tế có tác dụng rất lớn trong lĩnh vực QLNN đối
với TTCK. Biện pháp này có ưu điểm là không áp dụng những chỉ thị, mệnh
lệnh trực tiếp của chủ thể quản lý nhưng có tác động rất thiết thực và sâu rộng.
II. Quản lý nhà nước đối với các công ty tham gia thị trường chứng khoán
1. Khái niệm
Quản lý Nhà nước đối với TTCK của một quốc gia là sự quản lý vĩ mô của
Nhà nước đối với các hoạt động xây dựng, vận hành và phát triển của TTCK
2.Nội dung
2.1.Quản lý đối với việc phát hành TPCP, Trái phiếu được Chính phủ bảo
lãnh và TPCQĐP
TPCP (gồm Tín phiếu kho bạc, Trái phiếu kho bạc, Trái phiếu công trình
trung ương, Trái phiếu đầu tư, Trái phiếu ngoại tệ và Công trái xây dựng tổ
quốc) và TPCQĐP là công cụ huy động vốn để bù đắp bội chi ngân sách, thực
hiện các chương trình trọng điểm của quốc gia và địa phương, đồng thời là công
cụ để Chính phủ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Hành lang pháp lý cho việc phát
hành các loại trái phiếu này đã được Chính phủ từng bước hoàn thiện. Ngày
20/1/2003,Chính phủ đã ban hành Nghị định 141/2003/NĐ-CP về việc phát
hành TPCP, TPCQĐP và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh thay thế cho Nghị
định 01/2000/NĐ-CP.
Theo các quy định mới này thì TPCP và TPCQĐP đều do Chính phủ quy
định (trừ Công trái xây dựng tổ quốc tuân theo quy định tại pháp lệnh số
12/1999/PL-UBTVQH10 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội). Theo Nghị định
141/2003/NĐ-CP, thì Chính phủ là chủ thể phát hành các loại TPCP, Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh là chủ thể phát hành TPCQĐP. Song các chủ thể này có thể
chuyển quyền cho các cơ quan chức năng trực thuộc như KBNN, Bộ Tài chính,
hoặc các tổ chức tài chính, tín dụng chịu trách nhiệm này. Bộ Tài chính chịu
trách nhiệm hướng dẫn và giám sát việc phát hành, sử dụng, thanh toán các loại
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368

TPCP, xây dựng phương án phát hành trái phiếu công trình trung ương để trình
Chính phủ quyết định; tổ chức việc phát hành trái phiếu kho bạc, trái phiếu công
trình trung ương, trái phiếu ngoại tệ và công trái xây dựng tổ quốc; thẩm định
phương án và giám sát toàn bộ quá trình phát hành trái phiếu chính quyền địa
phương; thoả thuận với các tổ chức phát hành về phương án phát hành, kế hoạch
triển khai đối với trái phiếu đầu tư của Chính phủ và trái phiếu công trình được
Chính phủ bảo lãnh; quyết định lãi suất trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình
trung ương; quyết định lãi suất trần của trái phiếu đầu tư, trái phiếu được Chính
phủ bảo lãnh, quyết định biên độ giới hạn lãi suất TPCQĐP. NHNN chịu trách
nhiệm phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức đấu thầu tín phiếu kho bạc, trái phiếu
ngoại tệ qua NHNN, tham gia với Bộ Tài chính trong việc xây dựng lãi suất
TPCP và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, tổ chức mua lại nguồn ngoại tệ
thu được từ việc phát hành trái phiếu ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối của Nhà
nước và bán ngoại tệ cho Bộ Tài chính để thanh toán tiền gốc và lãi trái phiếu
khi đến hạn, chỉ đạo các tổ chức tín dụng phát hành trái phiếu đầu tư theo quyết
định của Thủ tướng Chính phủ.
UBCKNN chịu trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức phát hành
TPCP thông qua hình thức đấu thầu tại TTCK, quản lý và giám sát các hoạt
động niêm yết và giao dịch trái phiếu qua thị trường giao dịch chứng khoán tập
trung.
Có thể thấy được, trong thời gian qua, các loại TPCP đã được đa dạng hoá
chủng loại và kỳ hạn trái phiếu. Nếu như trong giai đoạn 1990-1995, Bộ Tài
chính chủ yếu phát hành tín phiếu kho bạc, từ 1996 đã bổ xung thêm các loại trái
phiếu mới như trái phiếu công trình, trái phiếu kho bạc, công trái, trái phiếu đầu
tư, trái phiếu ngoại tệ…Kì hạn trái phiếu cũng được thay đổi cho phù hợp hơn
với yêu cầu của thị trường. Nếu như trước năm 1999 thì chỉ có loại kì hạn 1và 2
năm, từ năm 1999 trở đi đã được bổ xung thêm kì hạn 5 và 7 năm; từ năm 2003
trở đi, kì hạn 5 năm chiếm khoảng hơn 50% tổng dư nợ. Trước năm 1999, TPCP
chủ yếu được phát hành dưới dạng chứng chỉ có ghi tên người nắm giữ thì từ
17

Website: Email : Tel : 0918.775.368
1999 đến nay, việc phát hành TPCP được bổ xung thêm hình thức ghi sổ và
chứng chỉ quỹ không ghi tên người nắm giữ. Chính phủ cũng đã bổ xung và
từng bước hoàn thiện các phương thức và hình thức phát hành trái phiếu. Nếu
như trước năm 1995 việc phát hành trái phiếu chủ yếu là qua phương thức bán lẻ
qua hệ thống KBNN, đến cuối năm 1995 áp dụng thêm phương thức đấu thầu
qua NHNN, thì từ năm 2002 trở đi, việc phát hành được bổ xung thêm phương
thức đấu thầu qua TTGDCK và phương thức bảo lãnh phát hành. Quyết định số
2276/QĐ-BTC ngày 20/6/2006 do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành về việc tập
trung đấu thầu TPCP tại TTGDCK HN đã khắc phục việc chia cắt trong hình
thức đấu thầu TPCP trước đó, TPCP vừa được đấu thầu tại NHNN, vừa đấu thầu
qua TTGDCK. Từ thực tế cho thấy, tỷ lệ thành công của các phiên đấu thầu
TPCP ngày càng cao và lãi suất huy động ngày càng giảm, nhất là sau khi
TTGDCK HN đưa ra con số 12.005 tỷ đồng huy động được từ thị trường trái
phiếu, nhiều người lạc quan cho rằng hoạt động đầu tự loại chứng khoán này
đang thực sự chuyển biến tích cực và ngày càng hiệu quả hơn. Theo kết quả báo
cáo thống kê, cả 8 phiên đấu thầu trái phiếu diễn ra trong quý I/2007 đều thành
công với tỷ lệ trúng thầu đạt tới 99% ( khối lượng trúng thầu là 3.860 tỷ đồng/
3.900 tỷ đồng khối lượng gọi thầu. Riêng TPCP do KBNN phát hành năm 2006
và 6 tháng đầu năm 2007 qua gần 30 phiên đấu thầu tại TTGDCK HN đã huy
động được 12.695 tỷ đồng cho ngân sách Nhà nước. Hơn nữa, lãi suất đấu thầu
TPCP cũng giảm dần. Lần đầu tiên lãi suất TPCP đã giảm xuống thấp hơn lãi
suất ngân hàng. Cụ thể, lãi suất cơ bản vào ngày 1/6/2007 là 8,25% theo Quyết
định 1143/QĐ-NHNN ngày 29/5/2007, trong khi đó lãi suất trúng thầu TPCP kì
hạn 5 năm vào ngày 11/6/2007 là 7,15% dẫn đến lãi suất bảo lãnh phát hàng
cũng giảm. Điều này đã làm giảm đáng kể gánh nặng ngân sách Nhà nước trong
việc huy động vốn cho đầu tư phát triển, góp phần bình ổn lãi suất cho vay của
NHNN, từ đó góp phần bình ổn kinh tế vĩ mô.[15] Bên cạnh đó, Chính phủ còn
bắt đầu thực hiện việc phát hành TPCP trên thị trường nước ngoài và ban đầu đã
18

Website: Email : Tel : 0918.775.368
đạt được kết quả khá khả quan. Năm 2005, khối lượng phát hành thành công
khoảng trên 750 triệu USD trên TTCK Newyork.
2.2. QLNN đối với hoạt động PHCK của các doanh nghiệp:
Xét dưới góc độ kinh tế, PHCK là một hoạt động kinh tế hết sức nhạy cảm,
vì tuy là giai đoạn đầu nhưng nó hàm chứa nhiều yếu tố dẫn đến rủi ro của
TTCK. Nó được ví như con dao hai lưỡi, có thể đem lại một nguồn vốn to lớn
cho đầu tư phát triển kinh tế, nhưng nếu không được quản lý tốt sẽ gây khủng
hoảng cho TTCK, gây thiệt hại xấu cho người đầu tư và thông qua đó ảnh hưởng
xấu tới nền kinh tế đất nước.
Ơ Việt Nam, từ khi TTCK còn ở giai đoạn manh nha, hoạt động chưa có tổ
chức cho tới nay, pháp luật đã có những quy định cụ thể về chứng khoán và
PHCK. Trong thời gian qua, cơ sở pháp lý cho hoạt động PHCK của các doanh
nghiệp đã được Nhà nước ban hành tương đối cụ thể và hoàn thiện từng bước.
Các văn bản pháp lý chung cung cấp các cơ sở pháp lý về PHCK doanh nghiệp
đã được Nhà nước ban hành, sửa đổi và hoàn thiện như Luật Doanh nghiệp,
Luật Đầu tư, các văn bản pháp luật chuyên ngành như Luật Chứng khoán và các
văn bản hướng dẫn Luật…đã góp phần tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động PHCK.
Theo quy định của pháp luật về quyền PHCK của các doanh nghiệp đó là :
DNNN được phát hành trái phiếu, cổ phiếu; CtyCP được phép phát hành cổ
phiếu, trái phiếu; các NHTM quốc doanh được phép phát hành trái phiếu
NHTM; DNNN CPH được phát hành cổ phiếu. Việc Nhà nước cho phép nhiều
đối tượng khác nhau được PHCK góp phần tạo ra sự đa dạng về hàng hoá cho
TTCK, đặc biệt là thị trường tập trung. Các loại chứng khoán được phép phát
hành và giao dịch trên TTCK Việt Nam bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ
quỹ và các loại chứng khoán phái sinh, các giao dịch về các loại hình chứng
khoán phái sinh đã bắt đầu manh nha hình thành nhưng vẫn còn ít. Trên TTCK
hiện nay chỉ có cổ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ quỹ đang được giao dịch. Trên
phương diện pháp lý, có hai phương thức phát hành cơ bản là phát hành riêng lẻ
19

×