Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Dạy học trực tuyến cho sinh viên nghiên cứu trường hợp sinh viên trường đại học bách khoa hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (743.67 KB, 7 trang )

VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 489 (Kì 1 - 11/2020), tr 48-54

ISSN: 2354-0753

DẠY HỌC TRỰC TUYẾN CHO SINH VIÊN: NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
Đinh Thanh Xuân
Article History
Received: 24/8/2020
Accepted: 16/9/2020
Published: 05/11/2020
Keywords
E-learning, students, Hanoi
University of Science and
Technology, solutions,
effective.

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Email:
ABSTRACT
In the current Industrial Revolution 4.0 era, online teaching and learning is
increasingly affirming many outstanding advantages. On the basis of theory
combined with analyzing data collected through online learning surveys of
Hanoi University of Science and Technology students, the article analyzed
and evaluated the current situation of online learning of Vietnamese students
today. From there, the author proposes solutions on the part of the school, the
faculty and students to promote an active role, overcoming the limitations of
online learning to use this form of teaching more and more effective in
Vietnamese universities nowadays. Online teaching will be a part of teaching,


not just a situational solution that is only applied in certain contexts. However,
in order for online teaching to be really effective, it is necessary to have
synchronous solutions from the university, especially the faculty and students.

1. Mở đầu
Trong những năm gần đây, cụm từ “E-Learning” đã và đang trở nên gần gũi với tất cả mọi người. E-Learning
(học tập trực tuyến) là một phương thức học tập bằng truyền thông thông qua mạng Internet theo cách tương tác với
nội dung học tập và được thiết kế trên nền tảng phương pháp dạy học và được quản lí bởi các hệ thống quản lí học
tập nhằm đảm bảo sự tương tác, hợp tác đáp ứng nhu cầu học mọi lúc, mọi nơi của người học. Phương pháp học tập
này đáp ứng cho nhu cầu học tập, tích lũy kiến thức cho tất cả mọi người, đồng thời sẽ đem lại nhưng lợi ích to lớn,
tiết kiệm thời gian, cơng sức và tiền bạc, đồng thời cũng nâng cao chất lượng truyền đạt và tiếp thu kiến thức cho
học viên. Chính vì những ưu điểm, lợi ích mà đào tạo E-Learning mang lại và cũng là xu thế chung trong tương lai
nên các cơ sở giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học đang khơng ngừng tìm cách tiếp cận thị trường này (Gurmak
Singh và cộng sự, 2005).
Ở Việt Nam, dạy học trực tuyến mới chỉ bắt đầu phát triển một số năm gần đây, đồng thời với việc kết nối Internet
băng thông rộng được triển khai mạnh mẽ tới tất cả các trường học. Tuy nhiên, dạy học trực tuyến ở các trường đại
học ở Việt Nam trước đại dịch Covid-19 cịn diễn ra ở quy mơ nhỏ, mang tính chất thử nghiệm. Có thể nói, đại dịch
Covid-19 là cơ hội cho việc sử dụng hình thức dạy học trực tuyến, chuyển đổi số trong giáo dục ở Việt Nam nói
chung và các trường đại học nói riêng.
Mặc dù đã bắt đầu có những quy định có tính pháp lí về dạy học trực tuyến nhưng xung quanh việc triển khai
dạy học trực tuyến trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay còn nhiều ý kiến: Có nên học trực tuyến tồn phần
đối với một mơn học hay không?; Hiện nay, tỉ lệ các học phần giảng dạy trực tuyến nên chiếm bao nhiêu phần trăm
trong một chương trình đào tạo, hay trong một học phần?; Làm thế nào để quản lí tốt các lớp học trực tuyến?; Dạy
học trực tuyến thế nào cho hiệu quả?… Để góp phần trả lời cho các câu hỏi này, chúng tôi đi sâu nghiên cứu thực
trạng dạy học trực tuyến ở các trường đại học Việt Nam hiện nay và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng dạy học trực tuyến hiện nay (qua nghiên cứu trường hợp Trường Đại học Bách khoa Hà Nội - một trường đại
học kĩ thuật hàng đầu của cả nước với quy mô khoảng 40.000 sinh viên (SV), học viên).
2. Kết quả nghiên cứu
2.1. Khái niệm học trực tuyến
E-learning là viết tắt của từ “Electronic Learning”, hiểu theo nghĩa rộng là một hình thức học tập, đào tạo dựa

trên nền tảng cơng nghệ thơng tin. Hiện nay, có rất nhiều cách hiểu về E-learning, có thể kể ra một số định nghĩa đặc
trưng nhất:
- Việc học tập hay đào tạo được chuẩn bị, truyền tải hoặc quản lí sử dụng nhiều công cụ của công nghệ thông tin,
thông tin khác nhau ở mức cục bộ hay toàn cục (Means và cộng sự, 2009).

48


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 489 (Kì 1 - 11/2020), tr 48-54

ISSN: 2354-0753

- E-learning là sự phân phát các nội dung học sử dụng các công nghệ điện tử hiện đại như máy tính, mạng vệ
tinh, mạng Internet, Intranet,… trong đó, nội dung học có thể thu được từ các website, đĩa CD, băng video, audio,…
thơng qua một máy tính hay tivi; người dạy và người học có thể giao tiếp với nhau qua mạng dưới các hình thức như:
E-mail, thảo luận trực tuyến (chat), diễn đàn (forum), hội thảo video,… (Atkins, 2016).
Có 2 hình thức giao tiếp giữa người dạy và người học: giao tiếp đồng bộ (Synchronous) và giao tiếp không đồng
bộ (Asynchronous). Giao tiếp đồng bộ là hình thức giao tiếp trong đó có nhiều người truy cập mạng tại cùng một
thời điểm và trao đổi thông tin trực tiếp với nhau như: thảo luận trực tuyến, hội thảo video, nghe đài phát sóng trực
tiếp, xem tivi phát sóng trực tiếp,… Giao tiếp khơng đồng bộ là hình thức mà những người giao tiếp khơng nhất thiết
phải truy cập mạng tại cũng một thời điểm, ví dụ: các khóa tự học qua Internet, CD-ROM, E-mail, diễn đàn. Đặc
trưng của kiểu học này là giảng viên (GV) phải chuẩn bị tài liệu khóa học trước khi khóa học diễn ra; học viên được
tự do chon lựa thời gian tham gia khóa học.
Theo tổng kết của Zandberg và Lewis (2008), có thể kể đến một số hình thức đào tạo E-learning phổ biến trên
thế giới như sau:
- Đào tạo dựa trên cơng nghệ (Technology-Based Training - TBT) là hình thức đào tạo có sự áp dụng cơng nghệ,
đặc biệt là dựa trên công nghệ thông tin; đào tạo dựa trên máy tính (Computer-Based Training - CBT). Hiểu theo
nghĩa rộng, thuật ngữ này nói đến bất kì một hình thức đào tạo nào có sử dụng máy tính nhưng thơng thường, thuật

ngữ này được hiểu theo nghĩa hẹp để nói đến các ứng dụng (phần mềm) đào tạo trên các đĩa CD-ROM hoặc cài trên
máy tính độc lập, khơng nối mạng, khơng có giao tiếp với thế giới bên ngồi. Thuật ngữ này được hiểu đồng nhất
với thuật ngữ CD-ROM Based Training.
- Đào tạo dựa trên web (Web-Based Training - WBT) là hình thức đào tạo sử dụng cơng nghệ web. Nội dung
học, các thơng tin quản lí khóa học, thông tin về người học được lưu trữ trên máy chủ và người học có thể dễ dàng
truy nhập thơng qua trình duyệt web. Người học có thể giao tiếp với nhau và với giáo viên, sử dụng các chức năng
trao đổi trực tiếp, diễn đàn, E-mail,… thậm chí có thể nghe được giọng nói và nhìn thấy hình ảnh của người giao tiếp
với mình.
- Đào tạo trực tuyến (Online Learning/Training) là hình thức đào tạo có sử dụng kết nối mạng để thực hiện việc
học, chẳng hạn như lấy tài liệu học, giao tiếp giữa người học với nhau và với giáo viên,… thông qua các công cụ kết
nối như: máy tính, các thiết bị di động,…
- Đào tạo từ xa (Distance Learning) là thuật ngữ nói đến hình thức đào tạo trong đó người dạy và người học
khơng ở cùng một chỗ, thậm chí khơng cùng một thời điểm, ví dụ như việc đào tạo sử dụng cơng nghệ cầu truyền
hình hoặc cơng nghệ web.
2.2. Ưu điểm và hạn chế của dạy học trực tuyến
2.2.1. Ưu điểm
Qua thời gian hình thành và phát triển, E-learning đã thể hiện rõ nhiều đặc điểm ưu việt:
- E-learning làm thay đổi cách học cũng như vai trò của người học, người học thực sự đóng vai trị trung tâm và
chủ động của q trình đào tạo, có thể học mọi lúc, mọi nơi nhờ có phương tiện trợ giúp việc học. Người học có thể
học theo thời gian biểu cá nhân, với nhịp độ tùy theo khả năng và có thể chọn các nội dung học, do đó hình thức này
sẽ mở rộng đối tượng đào tạo rất nhiều. Tuy không thể hoàn toàn thay thế được phương thức đào tạo truyền thống
nhưng E-learning cho phép giải quyết một vấn đề nan giải trong lĩnh vực giáo dục, đó là nhu cầu đào tạo của người
lao động và số lượng SV tăng lên quá tải so với khả năng của các cơ sở đào tạo.
- E-learning sẽ có sức lơi cuốn rất nhiều người học kể cả những người trước đây chưa bao giờ bị hấp dẫn bởi lối
giáo dục kiểu cũ và rất phù hợp với hoàn cảnh của những người đang đi làm nhưng vẫn muốn nâng cao trình độ. Các
chương trình đào tạo từ xa trên thế giới hiện nay đã đạt đến trình độ phong phú về giao diện, sử dụng rất nhiều hiệu
ứng đa phương tiện như: âm thanh, hình ảnh, hình ảnh động ba chiều, kĩ xảo hoạt hình,… có độ tương tác cao giữa
người sử dụng và chương trình, đàm thoại trực tiếp qua mạng. Điều này đem đến cho học viên sự thú vị, say mê
trong quá trình tiếp thu kiến thức cũng như hiệu quả trong học tập.
- E-learning cho phép học viên hồn tồn làm chủ q trình học của bản thân, từ thời gian, lượng kiến thức cần học

cũng như thứ tự học các bài, đặc biệt cho phép tra cứu trực tuyến những kiến thức liên quan đến bài học một cách tức
thời, duyệt lại những phần đã học một cách nhanh chóng, tự do trao đổi với những người cùng học hoặc giáo viên ngay
trong quá trình học, những điều mà theo cách học truyền thống là không thể hoặc địi hỏi chi phí q cao.
2.2.2. Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm nổi bật như trên, học trực tuyến cịn có một số hạn chế cần phải khắc phục như:

49


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 489 (Kì 1 - 11/2020), tr 48-54

ISSN: 2354-0753

- Đối với nội dung học tập: Trong nhiều trường hợp, không thể đưa ra các nội dung quá trừu tượng, quá phức
tạp, đặc biệt là nội dung liên quan tới thí nghiệm, thực hành mà nền tảng học trực tuyến không thể hiện được hay thể
hiện kém hiệu quả. Hệ thống học trực tuyến cũng không thể thay thế được các hoạt động liên quan tới việc rèn luyện
và hình thành kĩ năng, đặc biệt là kĩ năng thao tác và vận động.
- Đối với học viên: Do đã quen với phương pháp học truyền thống nên học viên sẽ gặp một số khó khăn về cách
học tập và giảng dạy. Ngồi ra, họ cịn gặp khó khăn trong việc tiếp cận các công nghệ mới. Người học cũng cần
phải biết lập kế hoạch phù hợp với bản thân, tự định hướng trong học tập, phương pháp tiếp cận các nguồn lực, thực
hiện tốt kế hoạch học tập đã đề ra. Học viên có những rào cản nhất định khi học hỏi trao đổi thông tin với bạn bè,
giáo viên và cần phải có gắng nỗ lực hết mình khi tham gia khóa học để có kết quả học tập tốt do việc môi trường
học tập phân tán. Vì đào tạo từ xa là mơi trường học tập phân tán nên mối liên hệ gặp gỡ, trao đổi thông tin giữa giáo
viên và học viên, học viên với học viên bị hạn chế cũng làm ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả học tập của học viên.
Do đó, học viên cần phải tập trung, cố gắng nỗ lực hết mình khi tham gia khóa học để kết quả học tập tốt. Mặt khác,
do học trực tuyến được tổ chức cho đơng đảo học viên tham gia, có thể thuộc nhiều vùng quốc gia, khu vực trên thế
giới nên mỗi học viên có thể gặp khó khăn về các vấn đề yếu tố tâm lí, văn hóa.
Học trực tuyến không phù hợp với các thành phần học viên lớn tuổi, không thành thạo các thiết bị điện tử hiện

đại (điện thoại thơng minh, máy tính bảng, máy vi tính,…) và học viên nhỏ tuổi chưa có khả năng làm việc độc lập,
cũng như ý thức tự giác chưa cao.
- Đối với GV: GV phải mất nhiều thời gian và công sức để soạn bài giảng, tài liệu giảng dạy, tham khảo cho phù
hợp với phương pháp học tập trực tuyến. Một số GV không quen với việc sử dụng các nền tảng học trực tuyến nên
làm tăng khối lượng cơng việc cũng như áp lực cho chính mình.
- Đối với việc đào tạo nói chung: Cần phải xem xét cơng nghệ hiện thời có đáp ứng được các mục đích đào tạo
hay khơng, chi phí đầu tư cho cơng nghệ đó có hợp lí khơng. Ngồi ra, khả năng làm việc tương thích giữa các hệ
thống phần cứng và phần mềm cũng cần được xem xét. Nguồn lực đầu tư cho học trực tuyến không hề nhỏ. Bên
cạnh đó, sự thay đổi nhanh chóng về cơng nghệ cũng là bài toán nan giải cho các nhà đầu tư: cơng nghệ tốn kém và
mang tính rủi ro cao bởi công nghệ nhanh lạc hậu và thường thay đổi. Kinh nghiệm cho thấy, nhiều tập đồn cơng
nghệ lớn trên thế giới đã thất bại khi đầu tư cho học trực tuyến. Những thất bại này có thể được lí giải bởi sự phức
tạp của giáo dục và công nghệ (Zandberg và Lewis, 2008).
Hệ thống học trực tuyến cũng không thể thay thế được các hoạt động liên quan tới việc rèn luyện và hình thành
kĩ năng, đặc biệt là kĩ năng thao tác và vận động. Môi trường của học trực tuyến khơng kích thích được sự chủ động
và sáng tạo của học viên. Học trực tuyến qua mạng làm giảm khả năng truyền đạt với lòng say mê nhiệt huyết của
giáo viên đến học viên. Hạ tầng công nghệ thông tin (nền tảng học trực tuyến, mạng Internet, băng thơng, chi phí,…)
cũng ảnh hưởng đáng kể tới tiến độ và chất lượng học tập.
Học trực tuyến làm nảy sinh các vấn đề liên quan đến an ninh mạng cũng như các vấn đề về sở hữu trí tuệ. Nhược
điểm quan trọng của hình thức học trực tuyến đó chính là sự tương tác của học viên với giáo viên một cách trực tiếp.
Tuy một số trang web khóa học trực tuyến có cung cấp tính năng trao đổi trực tiếp giữa giáo viên và học viên thông
qua các phần mềm trị chuyện trực tuyến nhưng cũng khơng đầy đủ và sinh động bằng việc trao đổi như hình thức
đào tạo truyền thống.
Như vậy, học trực tuyến có nhiều ưu điểm hơn so với phương pháp dạy học truyền thống, tạo ra được một môi
trường rất tốt phục vụ cho phương pháp dạy học tương tác, cá nhân hóa người học. Tuy vậy, học trực tuyến cũng còn
nhiều hạn chế cần khắc phục khi sử dụng.
2.3. Thực trạng dạy và học trực tuyến ở Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Để đánh giá thực trạng học tập trực tuyến của SV Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, chúng tôi sử dụng kết quả
khảo sát được thực hiện bằng bảng hỏi đối với 522 SV Trường Đại học Bách khoa Hà Nội của các niên khóa khác
nhau trong thời gian tháng 4-5/2020, khi đại dịch Covid-19 đang diễn ra.
2.3.1. Tổng quan về tình hình dạy và học trực tuyến ở Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội là trường hàng đầu của cả nước về khoa học công nghệ. Nhận định được ưu
điểm vượt trội và xu thế tương lai của học trực tuyến nên ngay từ năm 2015, Nhà trường đã bắt tay ngay vào việc
xây dựng, thực nghiệm, triển khai hình thức học trực tuyến cho SV. Những bước đi đầu tiên là đẩy mạnh mơ hình
Blended Learning với sự kết hợp của hai hình thức học tập trực tuyến và học tập truyền thống. Blended Learning
vừa kế thừa được những ưu điểm của hai hình thức học tập trực tuyến và học tập truyền thống, vừa lấy ưu điểm của
hình thức này để giải quyết những hạn chế của hình thức kia nhằm tạo môi trường học tập tốt nhất cho SV. Tham

50


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 489 (Kì 1 - 11/2020), tr 48-54

ISSN: 2354-0753

gia lớp học Blended Learning, yếu tố tích cực tác động đến SV là giảm thời gian học tập, giảm chi phí cho việc đi
lại; với những kiến thức khó hiểu, SV có thể xem lại nhiều lần bài giảng được lưu lại trên hệ thống từ bất cứ đâu, vào
bất kể thời gian nào với thiết bị học tập trực tuyến của mình. Ngồi ra, cịn có những giờ học thực hành, trao đổi qua
hình thức dạy - học truyền thống củng cố và mở rộng thêm phần kiến thức đã học. Tuy nhiên, để xây dựng được một
khố học Blended Learning tốn tương đối nhiều cơng sức, phù hợp với những GV trẻ nên tỉ lệ các học phần được tổ
chức giảng dạy theo hình thức này chưa nhiều.
Bởi vậy, với câu hỏi “Nền tảng học trực tuyến SV đã sử dụng tại Trường trước khi đại dịch Covid-19 xuất hiện
ở Việt Nam” cho kết quả: 27% SV đã từng sử dụng hình thức học tập trên nền tảng LMS (Blended Learning), 15%
đã từng học trực tuyến thời gian thực (trên nền tảng Zoom, Sky, Microsoft Teams,…), 54% chưa từng sử dụng hình
thức học trực tuyến, 4% sử dụng hình thức khác. Như vậy, trước khi đại dịch xảy ra, tỉ lệ SV Trường Đại học Bách
khoa Hà nội đã sử dụng hình thức học trực tuyến cịn thấp. Con số này hồn tồn phù hợp với thực tế là hình thức
học tập chủ yếu của SV Trường Đại học Bách khoa Hà Nội là hình thức truyền thống - học trực tiếp trên lớp. Do yêu
cầu bắt buộc trong tình hình đại dịch, 100% các lớp học được chuyển đổi hình thức dạy học sang trực tuyến toàn
phần sử dụng nền tảng Microsoft Teams đã được Nhà trường mua bản quyền từ 2016. Khi được hỏi: “Sau đại dịch

Covid-19, nền tảng học trực tuyến SV thích sử dụng nếu Nhà trường tiếp tục tổ chức học trực tuyến là gì?” 89% SV
có câu trả lời là Microsoft Teams, chỉ có 4% thích sử dụng LMS, 7% thích sử dụng Zoom. Tỉ lệ này phần nào có thể
do thói quen nhưng rõ ràng có phản ánh tính hiệu quả của Microsoft Teams trong giảng dạy trực tuyến. So với các
nền tảng học tập trực tuyến khác, Microsoft Teams vượt trội bởi khả năng tích hợp với các ứng dụng Office như:
Word, Excel, PowerPoint, Forms, OneDrive, SharePoint, OneNote Class Notebook,… cùng với các ứng dụng khác
của bên thứ 3 giúp tăng cường trải nghiệm và hiệu quả công việc của người dùng trên Teams.
Về cách thức kết nối mạng Internet, theo kết quả khảo sát, 50% SV sử dụng mạng ở nhà (chiếm tỉ lệ cao nhất),
30% sử dụng mạng dữ liệu di động (3G, 4G), 14% sử dụng mạng WiFi công cộng, 3% sử dụng điểm truy cập mạng
hotspot, 3% có câu trả lời khác. Về tình trạng kết nối mạng Internet, 49% SV cho rằng tình trạng kết nối Internet là
tốt và rất tốt, 38% SV cho rằng tình trạng kết nối mạng Internet là khơng ổn định, 13% cho rằng tình trạng kết nối
Internet là bình thường. Tỉ lệ này phản ánh một thực tế về cơ sở hạ tầng để đảm bảo cho giảng dạy trực tuyến còn
phải cải thiện đáng kể mới đáp ứng được chất lượng dạy học trực tuyến.
Về loại thiết bị được sử dụng để học trực tuyến, theo kết quả khảo sát, 73% SV sử dụng điện thoại thơng minh
nhưng trong đó khoảng 20% sử dụng điện thoại có cấu hình thấp, 16% sử dụng máy tính để bàn, 10% sử dụng máy
tính xách tay, 1% sử dụng thiết bị khác/gặp khó khăn do khơng có thiết bị để học trực tuyến. Như vậy, tỉ lệ SV sử
dụng điện thoại thơng minh có cấu hình thấp và gặp khó khăn khơng có thiết bị cho việc học trực tuyến cịn cao.
Ngồi chất lượng đường truyền Internet, các thiết bị sử dụng để học trực tuyến cũng ảnh hưởng đến chất lượng học
tập của SV, bởi vậy, để đảm bảo chất lượng dạy học trực tuyến thì việc đảm bảo cho SV có đầy đủ thiết bị phục vụ
cho việc học trực tuyến cũng là một yêu cầu đặt ra.
Về tính dễ sử dụng của nền tảng học trực tuyến, kết quả khảo sát cho thấy, 58% SV đồng ý và rất đồng ý rằng
nền tảng học trực tuyến là dễ sử dụng, 23% trung lập, 19% không đồng ý và rất không đồng ý. Đây là lần đầu tiên
100% SV Việt nam nói chung, 100% SV Trường Đại học Bách khoa Hà Nội nói riêng học tập theo hình thức trực
tuyến nên việc vẫn cịn 19% ý kiến khơng đồng ý và rất khơng đồng ý, 23% có ý kiến trung lập về tính dễ sử dụng
của nền tảng học trực tuyến là không tránh khỏi. Bởi vậy, với câu hỏi “Học cách thao tác trên nền tảng học trực tuyến
có dễ dàng hay khơng” cho kết quả: 62% SV cho rằng học cách thao tác trên nền tảng học trực tuyến là dễ dàng,
24% có ý kiến trung lập, chỉ có 14% khơng đồng ý và rất không đồng ý. Hay với câu hỏi: “Cần sự hỗ trợ của kĩ thuật
viên mới có thể sử dụng được nền tảng học trực tuyến” thì 55% SV đồng ý và rất đồng ý, 31% trung lập, 14% không
đồng ý và rất không đồng ý.
2.3.2. Hiệu quả của dạy học trực tuyến ở Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Khi trả lời câu hỏi về tính hữu ích khi học trực tuyến, 34% SV không đồng ý và rất không đồng ý, 34% có ý kiến

trung lập, 32% đồng ý. Kết quả này cho thấy hiệu quả của hình thức học tập chưa được SV đánh giá cao. Thực ra,
kết quả này khơng thể đánh giá được hình thức dạy học trực tuyến nói chung có hiệu quả hay khơng bởi có nhiều
hình thức dạy học trực tuyến, có thể hiệu quả với hình thức này nhưng khơng hiệu quả với hình thức khác. Hơn nữa,
có nhiều yếu tố tác động đến hiệu quả của dạy học trực tuyến như: kĩ năng dạy học trực tuyến của GV, chất lượng
đường truyền Internet, chất lượng thiết bị sử dụng cho dạy và học trực tuyến, cho đến kĩ năng học tập trực tuyến của
SV. Tuy nhiên, kết quả đó lại phản ánh phần nào hiệu quả của hình thức dạy học 100% trực tuyến đang sử dụng phổ
biến hiện nay bởi đối với câu hỏi: “Học trực tuyến có nâng cao hiệu suất giảng dạy và học tập hay khơng” thì 30%

51


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 489 (Kì 1 - 11/2020), tr 48-54

ISSN: 2354-0753

SV có ý kiến trung lập, 47% khơng đồng ý và rất khơng đồng ý, chỉ có 23% đồng ý và rất đồng ý. Hay đối với câu
hỏi: “Tương tác giữa người học với GV và bạn học trên nền tảng học trực tuyến là rõ ràng và dễ hiểu” thì 42% SV
có ý kiến trung lập, 34% khơng đồng ý và rất khơng đồng ý, chỉ có 24% đồng ý và rất đồng ý; và câu hỏi: “Học trực
tuyến cho phép nhanh chóng nhận được phản hồi và nhận xét từ GV và bạn học” cho kết quả 30% SV có ý kiến
trung lập, 17% khơng đồng ý và 18% rất khơng đồng ý, chỉ có 21% đồng ý và 14% rất đồng ý. Kết quả này có thể
do nền tảng học trực tuyến đang được sử dụng chưa phù hợp hoặc do kĩ năng của GV, SV trong dạy học trực tuyến
chưa tốt,…
Bảng 1. Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của dạy học trực tuyến
Không
Rất
Rất không
Trung lập Đồng ý
TT

Nội dung câu hỏi
đồng ý
đồng ý
đồng ý (%)
(%)
(%)
(%)
(%)
Học trực tuyến vì đây là phương thức học tập
1
13
15
31
19
22
bắt buộc tạm thời có điểm danh của trường
Có đủ các nguồn lực (về hạ tầng kĩ thuật…) để
2
8
9
40
23
21
sử dụng học trực tuyến
Có hiểu biết cần thiết (về học trực tuyến) để sử
3
6
5
41
28

20
dụng học trực tuyến
Có người (nhóm người) sẵn sàng hỗ trợ giải
4
15
10
46
18
11
quyết các trục trặc khi học trực tuyến
Học trực tuyến phức tạp một cách không cần
5
24
28
29
12
8
thiết
Các nền tảng học trực tuyến được tích hợp rất
6
14
12
39
24
11
tốt với nhau
Phần lớn mọi người sẽ học rất nhanh cách sử
7
10
12

31
31
16
dụng nền tảng học trực tuyến
Kết quả ở bảng 1 cũng phù hợp với nhận định: hiệu quả của học trực tuyến phụ thuộc rất nhiều vào các nguồn
lực về hạ tầng kĩ thuật cho dạy học trực tuyến, đặc biệt trong giai đoạn đầu phải ln có sự hỗ trợ để giải quyết những
vấn đề xảy ra trong quá trình dạy học, kĩ năng dạy - học trực tuyến của GV và SV.
Để đánh giá hiệu quả của học trực tuyến, có thể dựa trên kết quả khảo sát với nhóm câu hỏi về thái độ của SV
đối với học trực tuyến:
Bảng 2. Thái độ của SV đối với học trực tuyến
Không
Rất
Rất không
Trung lập Đồng ý
TT
Nội dung câu hỏi
đồng ý
đồng ý
đồng ý (%)
(%)
(%)
(%)
(%)
Hài lịng và thoả mãn khi sử dụng hình thức
1
12
15
34
26
13

học trực tuyến để học tập
2
Việc học trực tuyến thường xuyên thật là tuyệt
17
18
37
15
13
Việc học trực tuyến vừa tốt cho bản thân vừa
3
18
17
33
18
14
tốt cho nhà trường
4
Học trực tuyến là một trải nghiệm dễ chịu
11
18
29
26
17
Học trực tuyến vì đây là phương thức học tập
5
13
15
31
19
22

bắt buộc tạm thời có điểm danh của trường

TT
1
2

Bảng 3. Tác động của học trực tuyến lên kết quả học tập
Không
Rất không
Trung lập
Nội dung câu hỏi
đồng ý
đồng ý (%)
(%)
(%)
Học trực tuyến giúp bản thân tiến bộ trong học
24
16
39
tập
Học trực tuyến giúp nâng cao hiệu suất học tập
24
17
33

52

Đồng ý
(%)


Rất
đồng ý
(%)

17

5

16

10


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 489 (Kì 1 - 11/2020), tr 48-54

ISSN: 2354-0753

Học trực tuyến giúp việc học tập dễ đạt hiệu
23
19
32
19
7
quả hơn
Học trực tuyến giúp tiết kiệm được nhiều thời
4
10
9

27
28
30
gian và công sức trong việc triển khai học tập
Kết quả này cũng cho thấy SV chưa đánh giá cao hiệu quả của dạy học trực tuyến. Thực ra, kết quả này là phù hợp
với hình thức triển khai dạy học trực tuyến 100% online hiện nay, SV bắt buộc phải nghe giảng như học trực tiếp,
thậm chí khơng có bài giảng của GV để nghe lại thì chắc chắn không thể hiệu quả như được ngồi nghe giảng trực tiếp
trên lớp. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả của nhóm câu hỏi về dự định học trực tuyến của SV ở bảng 4.
Bảng 4. Dự định học trực tuyến của SV
Không
Rất
Rất không
Trung lập Đồng ý
TT
Nội dung câu hỏi
đồng ý
đồng ý
đồng ý (%)
(%)
(%)
(%)
(%)
1
Muốn sử dụng học trực tuyến thường xuyên hơn
25
18
27
18
12
Có kế hoạch sẽ tiếp tục học trực tuyến trong

2
38
13
24
16
9
học kì tới
3
Khuyến nghị bạn bè tham gia học trực tuyến
33
10
30
18
9
3

2.4. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học trực tuyến hiện nay
2.4.1. Về phía các trường đại học
- Dạy học trực tuyến thường có hai phần, học theo thời gian thực và không theo thời gian thực, trong đó học
khơng theo thời gian thực mới là phần chính của học trực tuyến. Vấn đề quản lí việc giảng dạy trong thời gian đó
như thế nào để đảm bảo thực hiện đúng, có chất lượng, hiệu quả, nội dung dạy học theo quy định. Bởi vậy, các trường
đại học phải ban hành những quy định cụ thể trong dạy học trực tuyến: có dạy học trực tuyến tồn phần khơng, học
phí cho khố học trực tuyến thế nào? vấn đề bản quyền bài giảng,… Cần quy định thống nhất và đồng bộ một phần
mềm dạy học trực tuyến an tồn, bảo mật, đảm bảo q trình dạy học hiệu quả nhất. Thực hiện tổ chức đánh giá chất
lượng dạy học trực tuyến của GV và kết quả học tập của SV.
- Chuẩn bị đầy đủ về hạ tầng công nghệ đáp ứng dạy học trực tuyến gồm: đường truyền Internet, thiết bị học trực tuyến,
hệ thống nền tảng phần mềm tích hợp tổng thể: giảng dạy trực tuyến, tương tác SV, cho phép SV trao đổi ý kiến của mình
thơng qua mạng, có thể trao đổi thơng qua hệ thống Messenger, GV có thể chấm bài trực tuyến, trả bài trực tuyến, kiểm
soát việc học của SV trực tuyến. Ln có bộ phận hỗ trợ cho những GV và SV trong dạy học trực tuyến.
- Tổ chức bồi dưỡng, huấn luyện kĩ năng dạy học trực tuyến cho đội ngũ GV để họ có thể sử dụng thành thạo nền

tảng phần mềm được nhà trường sử dụng trong dạy học trực tuyến, để “dạy học trực tuyến trở thành nghề chứ không
phải cứ đơn giản biết công nghệ là dạy được”.
- Sử dụng hình thức dạy trực tuyến phù hợp với từng học phần, từng nội dung. Các học phần có thể chia nhỏ ra
thành nhiều nội dung. Nội dung nào phù hợp với dạy học trực tuyến thì thực hiện dạy học trực tuyến để phát huy
hiệu quả như: giảm áp lực về cơ sở vật chất (khơng cần phải có bàn ghế, trường lớp); tiết kiệm thời gian; giảm chi
phí; tri thức được lan tỏa dễ dàng,… Tuy nhiên, nội dung nào không phù hợp thì vẫn dạy học trực tiếp trên lớp hay
kết hợp giữa trực tuyến và trực tiếp.
- Sử dụng hình thức dạy trực tuyến phù hợp với nguyện vọng của SV. Mỗi SV là một cá thể, phương pháp học
tập, điều kiện học tập (thiết bị học trực tuyến, việc tiếp cận mạng Internet,…) rất khác nhau. Bởi vậy, có những học
phần dạy học trực tuyến là phù hợp về nội dung giảng dạy nhưng lại không phù hợp với phương pháp học tập, điều
kiện học tập của một số SV nên bên cạnh những lớp học trực tuyến đối với học phần này, nhà trường vẫn cần tổ chức
lớp học trực tiếp đối với học phần đó để đáp ứng những nhu cầu đa dạng, khơi dậy được tinh thần, hứng thú học tập
của SV, qua đó nâng cao chất lượng đào tạo.
2.4.2. Về phía giảng viên
GV phải chủ động tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng phương pháp sư phạm dạy trực tuyến để dạy học trực
tuyến trở thành nghề.
Bên cạnh những kiến thức được diễn đạt bằng nhiều phương tiện, cách thức dưới sự hỗ trợ của công nghệ thông
tin giúp việc giảng dạy đạt được hiệu quả cao hơn thì cịn một bộ phận những kiến thức trừu tượng, phức tạp, khó
mơ phỏng. Vì vậy, ngồi việc thiết kế tích hợp những minh họa cho bài giảng, GV cũng cần đổi mới trong phương
pháp giảng dạy để đạt hiệu quả cao nhất trong học trực tuyến.

53


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 489 (Kì 1 - 11/2020), tr 48-54

ISSN: 2354-0753


Cùng với đó, GV cũng cần tăng cường mối liên hệ, trao đổi với SV, hỗ trợ một phần nào đó cho SV cách tiếp
cận với cơng nghệ mới, tăng hiệu quả giảng dạy. Để nâng cao chất lượng học tập của SV còn cần sự chung tay của
GV trong việc đảm bảo hoạt động học tập bằng việc tăng tần suất tương tác giữa GV và SV trong giờ học.
2.4.3. Về phía sinh viên
Cần nâng cao ý thức học tập của SV vì đối với hình thức học trực tuyến thì tinh thần ham học hỏi, phát huy tính
sáng tạo, ln chủ động trong học tập, ý thức tự giác, trách nhiệm trong học tập của mỗi cá nhân SV là rất quan trọng,
giúp các em có thể vượt qua những cám dỗ khi đứng trước một thiết bị điện tử hiện đại, có kết nối Internet.
Đổi mới phương pháp học tập bằng cách SV chủ động thay đổi tốc độ học, khối lượng học cho phù hợp với bản
thân, giảm căng thẳng và tăng hiệu quả học tập. Nâng cao thêm kiến thức thông qua những tài liệu của thư viện trực
tuyến, các khoá học trực tuyến miễn phí trên Internet, giúp SV giảm chi phí học tập.
3. Kết luận
Dạy học trực tuyến (hay chuyển đổi số) trong giáo dục là một xu thế tất yếu. Theo Thông tư số 20/2020/TTBGDĐT quy định chế độ làm việc của GV đại học (có hiệu lực từ ngày 11/9/2020) thì lần đầu tiên dạy trực tuyến
được cơng nhận như dạy trực tiếp (Bộ GD-ĐT, 2020). Theo đó, dạy học trực tuyến sẽ là một phần của hoạt động dạy
học, khơng phải là biện pháp tình thế chỉ được áp dụng trong thời gian dịch bệnh như giai đoạn vừa qua. Tuy nhiên,
để dạy học trực tuyến thực sự hiệu quả, cần có những biện pháp đồng bộ từ phía nhà trường, đặc biệt là đội ngũ GV
và cả SV. Có như vậy, các trường đại học Việt Nam mới có thể hồn thành được sứ mạng của mình là cung cấp
nguồn nhân lực chất lượng cao cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.
Tài liệu tham khảo
Adlakha, N., Mehta, M., Kaur, J., & Kocher, G. (2012). A Study into the Effects of e-Learning on Higher Education.
IJCA Proceedings on National Workshop-Cum-Conference on Recent Trends in Mathematics and Computing
2011 RTMC(15):16-18.
Atkins, S. S. (2016). The 2016-2021 Worldwide Self-paced eLearning Market: The Global eLearning Market is in
Steep Decline. Ambient Insight.
Bộ GD-ĐT (2020). Thông tư số 20/2020/TT-BGDĐT ngày 20/7/2020 quy định chế độ làm việc của giảng viên cơ sở
giáo dục đại học.
Bùi Kiên Trung, Nguyễn Đức Hòa (2014). Sơ kết chương trình đào tạo từ xa theo phương thức E-learning. Kỉ yếu
hội thảo khoa học “Sơ kết chương trình đào tạo từ xa NEU-EDUTOP theo phương thức E-learning”, Trường Đại
học Kinh tế Quốc dân.
Gurmak Singh, John O’Donoghue & Harvey Worton (2005). A Study into the Effects of eLearning on Higher
Education. Journal of University Teaching & Learning Practice, 2(1), 14-24.

Lê Huy Hoàng (2011). E-learning và ứng dụng trong dạy học. NXB Đại học Sư phạm.
Means, B. Toyama, Y. Murphy, R., Bakia, M., & Jones, K. (2009). Evaluation of Evidence-Based Practices in Online
Learning: A Meta-Analysis and Review of Online Learning Studies. Available from the U.S. Department of
Education at />Nguyễn Thị Bạch Tuyết (2014). E-learning - Xu thế đào tạo tất yếu trong nền kinh tế tri thức. Kỉ yếu hội thảo khoa
học “Sơ kết chương trình đào tạo từ xa NEU-EDUTOP theo phương thức E-learning”, Trường Đại học Kinh tế
Quốc dân.
Parker, A. (1997). A Distance Education How-To Manual: Recommendation from the field. Educational Technology
Review, 8, 7-10.
Vũ Hữu Đức (2017). Nghiên cứu về phương thức học tập, đào tạo dựa trên công nghệ thông tin (E-Learning) trong
giáo dục đại học và đào tạo trực tuyến mở dành cho đại chúng MOOCs (Massive Online Open Courses): Kinh
nghiệm thế giới và ứng dụng tại Việt Nam. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp quốc gia, mã số KHGD/16-20.ĐT.043,
Trường Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh.
Vũ Quý Phan, Lương Thiện Quang (2020). Học tập trực tuyến của sinh viên Đại học Bách khoa Hà Nội hiện nay - thực
trạng và giải pháp. Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên, mã số LLCT.05, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
Willis, B. (1995). Distance Education at a Glance. University of Idaho Engineering Outreach.
Zandberg, I. & Lewis, L. (2008). Technology-Based Distance Education Courses for Public Elementary and
Secondary Schools: 2002-03 and 2004-05. National Center for Education Statistics, Institute of Education
Sciences, U.S. Department of Education. Washington, DC.

54



×