Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Thu hút dòng vốn đầu tư trong nước vào thị trường chứng khoán niêm yết ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (970.95 KB, 95 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
CƠ SỞ II TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
***
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Tài chính quốc tế
THU HÚT DÒNG VỐN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC
VÀO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN NIÊM YẾT
Ở VIỆT NAM
Họ và tên sinh viên: Phan Thanh Huy
Mã sinh viên: 0853015435
Lớp: Anh 10
Khóa: 47C
Người hướng dẫn khoa học:
ThS. Phạm Thành Hiền Thục
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
“NHÀ KINH TẾ TRẺ – NĂM 2012”
TÊN CÔNG TRÌNH:
THU HÚT DÒNG VỐN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC
VÀO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN NIÊM YẾT
Ở VIỆT NAM
THUỘC NHÓM NGÀNH: KHOA HỌC KINH TẾ
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1:TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
1.1. Những vấn đề chung về Thị trường chứng khoán Việt Nam 4
1.1.1. Khái niệm Thị trường chứng khoán 4


1.1.2. Chức năng của Thị trường chứng khoán 5
1.1.3. Cơ cấu tổ chức của Thị trường chứng khoán Việt Nam 6
1.1.4. Hàng hóa giao dịch trên Thị trường chứng khoán Việt Nam 7
1.1.5. Chỉ số giá chứng khoán 8
1.1.6. Các chủ thể tham gia Thị trường chứng khoán 9
1.2. Tầm quan trọng của việc thu hút dòng vốn đầu tư trong nước vào Thị
trường chứng khoán Việt Nam 10
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư trong nước trên
Thị trường chứng khoán Việt Nam 12
1.3.1. Các yếu tố vĩ mô 12
1.3.2. Tình hình tài chính của doanh nghiệp 14
1.3.3. Các trường phái đầu tư 15
1.3.4. Tâm lý của nhà đầu tư 17
1.3.5. Tính thanh khoản 19
1.3.6. Thông tin minh bạch 20
1.3.7. Ảnh hưởng của các kênh đầu tư khác 20
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THU HÚT DÒNG VỐN ĐẦU TƯ TRONG
NƯỚC VÀO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
2.1. Tình hình phát triển của Thị trường chứng khoán niêm yết
Việt Nam 23
2.1.1. Giai đoạn 2000 – 2005 23
2.1.2. Giai đoạn 2006 – 2007 26
2.1.3. Giai đoạn từ năm 2008 đến 2011 29
2.2. Thực trạng của dòng vốn đầu tư trong nước trên Thị trường chứng
khoán niêm yết Việt Nam 31
2.3. Đánh giá tình hình dòng vốn đầu tư trong nước trên Thị trường chứng
khoán niêm yết Việt Nam 36
2.3.1. Vai trò của dòng vốn đầu tư trong nước trên Thị trường chứng khoán
Việt Nam 36
2.3.2. Một số hạn chế của dòng vốn đầu tư trong nước trên Thị trường 38

2.4. Nguyên nhân sự hạn chế của dòng vốn đầu tư trong nước trên Thị
trường chứng khoán trong thời gian qua 41
2.4.1. Nguyên nhân từ tình hình kinh tế vĩ mô 41
2.4.2. Sự “bội thực” cổ phiếu phát hành thêm 44
2.4.3. Các nhà đầu tư trong nước không được trang bị kiến thức cơ bản về đầu tư
chứng khoán 46
2.4.4. Sự thiếu chính xác của bộ chỉ số giá VN-Index 47
2.4.5. Tình trạng giao dịch nội gián, thao túng giá cổ phiếu 49
2.4.6. Thông tin kém minh bạch 50
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT DÒNG VỐN
ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC VÀO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN NIÊM YẾT
VIỆT NAM
3.1. Định hướng phát triển Thị trường chứng khoán Việt Nam từ nay đến
năm 2020 52
3.1.1. Mục tiêu, nhiệm vụ phát triển Thị trường chứng khoán 2011 – 2020 52
3.1.2. Cơ hội và thách thức cho Thị trường chứng khoán Việt Nam trong
giai đoạn sắp tới 53
3.2. Một số giải pháp thu hút dòng vốn đầu tư trong nước vào Thị trường
chứng khoán Việt Nam
3.2.1. Các biện pháp về mặt chính sách của Nhà nước 56
3.2.2. Các biện pháp về mặt kỹ thuật 62
3.2.3. Các biện pháp về mặt quản lý Thị trường 67
KẾT LUẬN 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số lượng công ty niêm yết, vốn hóa thị trường và tình hình
giao dịch trên HOSE giai đoạn 2000 – 2005 24
Bảng 2.2. Tổng vốn hóa thị trường so với GDP giai đoạn 2005 – 2007 27
Bảng 2.3. Tình hình vốn hóa Thị trường giai đoạn 2008 – 2011 31

Bảng 2.4. Số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán qua các năm 33
Bảng 2.5. Cơ cấu các loại chứng khoán đầu tư của nhà đầu tư trong nước 36
Bảng 3.1. Số lượng công ty chứng khoán qua các năm 70
Hình 2.1. Khối lượng và giá trị giao dịch cổ phiếu trên HOSE 2005 – 2007 32
Hình 2.2. Tỷ trọng giá trị giao dịch của các dòng vốn đầu tư trên HOSE 34
Hình 2.3. Tổng hợp giao dịch của nhà đầu tư trong nước trên toàn
Thị trường 35
Hình 2.4. Diễn biến các chỉ số kinh tế vĩ mô chủ yếu giai đoạn 2006 – 2011 42
Hình 2.5. Thống kê cổ phiếu niêm yết bổ sung trên HOSE từ 2006 – 2011 45
Hình 3.1. Diễn biến VN-30 và VN-Index từ ngày 6/2/2012 đến 20/3/2012 74
1
LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới, việc các tập đoàn lớn mạnh của nước ngoài đặt chân vào thị trường Việt Nam
chỉ còn là vấn đề thời gian. Trong bối cảnh như vậy, để nâng cao sức cạnh tranh của
mình, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tự đổi mới mình, nâng cao tiềm lực và
khả năng hoạt động sản xuất trước khi các công ty nước ngoài bắt đầu thâm nhập
thị trường. Để làm đuợc những điều đó thì yếu tố đầu tiên mà các doanh nghiệp
phải nghĩ tới đó chính là nhu cầu về vốn, vì không có vốn thì doanh nghiệp rất khó
lòng để thay đổi, để cải thiện dù cho doanh nghiệp đã đáp ứng được các yếu tố khác
như môi trường, con người, pháp luật, Vì vậy, việc huy động vốn đối với các
doanh nghiệp trong nước hiện là một vấn đề cấp thiết và mang ý nghĩa sống còn.
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường, có 2 kênh huy động
vốn chủ yếu cho doanh nghiệp. Đó chính là hệ thống ngân hàng và Thị trường
chứng khoán, trong đó Thị trường chứng khoán được xem là kênh huy động vốn dài
hạn mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng đều phải quan tâm nếu muốn tồn tại và phát
triển. Ở Việt Nam, Thị trường chứng khoán tuy chỉ mới thành lập được hơn 11 năm
nhưng cũng đã thực hiện chức năng đó một cách khá hiệu quả và góp phần không
nhỏ nâng cao giá trị các doanh nghiệp Việt không chỉ trong nước mà còn vươn ra
tầm quốc tế. Tuy nhiên, cũng chính vì mới thành lập nên Thị trường chứng khoán

Việt Nam vẫn còn chứa đựng trong nó nhiều lỗ hổng, thiếu sót và mâu thuẫn gây
khó khăn cho các nhà đầu tư. Cộng thêm với việc kinh tế Việt Nam và thế giới bắt
đầu rơi vào suy thoái từ năm 2008 làm cho tình hình Thị trường những năm gần đây
ngày càng trở nên xấu đi. Điều này khiến cho ngày càng nhiều nhà đầu tư chán nản
và rời bỏ Thị trường nhằm bảo toàn vốn hoặc chuyển qua các kênh đầu tư khác.
Nếu tình trạng này tiếp tục kéo dài sẽ là một thách thức thật sự đối với những nhà
quản trị vốn của doanh nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế Việt Nam nói chung đang
trong quá trình nỗ lực vượt qua cơn bão khủng hoảng và đón đầu cơ hội mới. Vì
vậy, tất cả mọi nhà quản lý doanh nghiệp cũng như quản lý kinh tế hiện nay đều
đang phải đối mặt với một bài toán khó khăn: làm thế nào để thu hút dòng vốn của
các nhà đầu tư quay trở lại Thị trường chứng khoán.
2
Xét theo nguồn gốc của dòng vốn thì trên Thị trường chứng khoán có 2 dạng
nhà đầu tư: nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Đã có rất nhiều nghiên
cứu được đưa ra nhằm thu hút và lôi kéo dòng vốn ngoại từ các nhà đầu tư nước
ngoài tham gia vào Thị trường chứng khoán Việt Nam, tuy nhiên, dòng vốn đầu tư
trong nước – vốn đóng vai trò quan trọng không kém trong việc vực dậy Thị trường
chứng khoán cũng như huy động vốn cho doanh nghiệp – lại không được chú trọng
bằng. Với quy định ràng buộc nhà đầu tư nước ngoài chỉ được tham gia tối đa 49%
vốn điều lệ của công ty trên Thị trường chứng khoán Việt Nam thì có thể nói dòng
vốn nội vẫn chiếm vai trò chủ đạo trong việc góp phần nâng đỡ Thị trường những
lúc khó khăn như hiện tại. Chính vì vậy, người viết chọn đề tài “Thu hút dòng vốn
đầu tư trong nước vào Thị trường chứng khoán niêm yết ở Việt Nam” nhằm
gợi mở và đóng góp những quan điểm, giải pháp của cá nhân người viết vào một
vấn đề tuy mới nhưng lại ảnh hưởng đến sự sống còn của Thị trường chứng khoán
Việt Nam trong giai đoạn sắp tới.
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của đề tài này là tập trung đi sâu vào thực
trạng của dòng vốn đầu tư trong nước trên Thị trường chứng khoán niêm yết tại
Việt Nam, bao gồm Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) và
Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) và tìm hiểu những hạn chế cùng những

nguyên nhân của tình trạng này, từ đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao khả
năng thu hút vốn đầu tư trong nước của Thị trường chứng khoán. Vì vậy, phương
pháp chủ yếu mà người viết sử dụng trong nghiên cứu này là phương pháp so sánh,
phân tích, tổng hợp từ những nguồn số liệu về tình hình hoạt động của Thị trường,
chủ yếu là của thị trường giao dịch cổ phiếu niêm yết, giao dịch của các nhà đầu tư
trong nước,… để có cái nhìn chi tiết đối với những vấn đề được đề cập đến.
Nội dung bố cục của đề tài bao gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về Thị trường chứng khoán niêm yết Việt Nam
Chương 2: Thực trạng thu hút dòng vốn đầu tư trong nước vào Thị trường
chứng khoán niêm yết Việt Nam
Chương 3: Giải pháp tăng cường thu hút dòng vốn đầu tư trong nước vào Thị
trường chứng khoán niêm yết Việt Nam
3
Quá trình tìm tòi và chuẩn bị số liệu gặp nhiều khó khăn do đây là một đề tài
trước đây được ít người nghiên cứu, cũng như Thị trường chứng khoán là một lĩnh
vực khá rộng lớn và có ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh, nhiều đối tượng của nền
kinh tế. Bên cạnh đó, với kiến thức và kinh nghiệm có hạn cũng như sự chủ quan
trong nhận thức của người viết nên đề tài không tránh khỏi có những sai sót và hạn
chế. Vì vậy người viết rất mong nhận được những góp ý chân thành từ người đọc,
đặc biệt là những người quan tâm đến Thị trường chứng khoán để nghiên cứu được
hoàn chỉnh hơn.
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
1.1. Những vấn đề chung về Thị trường chứng khoán Việt Nam
1.1.1. Khái niệm Thị trường chứng khoán
Khi nền kinh tế còn trong giai đoạn sơ khai, con người còn sản xuất ở quy
mô nhỏ, chủ yếu là “tự cung tự cấp” thì vấn đề về vốn không được quan tâm nhiều,
bởi người ta chỉ kinh doanh sản xuất trên số vốn tự có của mình. Tuy nhiên, khi xã
hội phát triển cao hơn, nhất là từ khi nền kinh tế thị trường ra đời thì những doanh

nghiệp, cơ sở sản xuất nhỏ muốn tồn tại và cạnh tranh được không còn cách nào
khác là phải mở rộng quy mô hoạt động nhằm tăng sức cạnh tranh của mình. Đến
lúc đó, nhu cầu về vốn xuất hiện và trong xã hội cũng phân hóa thành 2 nhóm: một
nhóm người có vốn trong tay nhưng không hoặc chưa có mục đích sử dụng số vốn
đó và nhóm còn lại là những người cần vốn để sử dụng.
Thời gian đầu, do hạn chế về mặt thông tin, địa lý và phương tiện nên 2
nguồn cung – cầu về vốn này muốn gặp được nhau phải thông qua một trung gian
tài chính, là những cá nhân hay tổ chức có mối quan hệ rộng, am hiểu thị trường, có
nhiệm vụ huy động vốn từ những người thừa vốn và điều chuyển đến cho những
người thiếu vốn. Hình thức này được gọi là kênh dẫn vốn gián tiếp và đại diện trung
gian tài chính tiêu biểu của hình thức này là hệ thống ngân hàng, chủ yếu cung cấp
các khoản vay ngắn hạn nhẳm bổ sung nguồn vốn lưu động cho doanh nghiệp.
Sau đó, khi công nghệ và các phương tiện thông tin đã phát triển thì những
tin tức về nguồn cung và cầu vốn được truyền đi rộng rãi và đầy đủ đến mọi thành
viên trên thị trường. Nhờ vậy mà những người nắm giữ vốn và những người thiếu
vốn không cần phải thông qua các trung gian tài chính mà tự tìm đến hợp tác với
nhau. Khi đó, các kênh dẫn vốn trực tiếp ra đời và giúp khắc phục những nhược
điểm của kênh dẫn vốn gián tiếp như chi phí vay cao làm cho lợi nhuận bị phân
phối, người có vốn không được chủ động lựa chọn đối tượng nhận vốn, thời hạn cấp
vốn thường chỉ là ngắn và trung hạn,… Sự ra đời các kênh dẫn vốn trực tiếp tạo ra
thêm một sự lựa chọn cho những nhà đầu tư trên thị trường tài chính nhằm tối đa
hóa lợi ích mang lại từ đồng vốn của mình. Trong số đó, thị trường chứng khoán
được xem là một kênh dẫn vốn trực tiếp phổ biến và phát triển mạnh mẽ nhất tính
đến thời điểm hiện tại.
5
Thị trường chứng khoán (TTCK) là một bộ phận quan trọng của thị trường
vốn. Theo cách hiểu phổ biến, thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch
mua bán (bao gồm cả việc phát hành), trao đổi, chuyển nhượng các loại giấy tờ có
giá (chứng khoán) trung và dài hạn (trên 1 năm) (Sử Đình Thành, 2008, tr.375).
1.1.2. Chức năng của Thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán có 5 chức năng cơ bản sau:
• Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
Khi các nhà đầu tư mua cổ phiếu hoặc trái phiếu mới phát hành trên thị
trường sơ cấp thì số tiền đó sẽ chảy trực tiếp vào các chủ thể phát hành và các
chủ thể này sẽ sử dụng số vốn đó vào mục đích sản xuất kinh doanh (đối với chủ
thể phát hành là doanh nghiệp) hoặc sử dụng cho các công trình công cộng, an
sinh (đối với chủ thể phát hành là Chính phủ hoặc chính quyền địa phương), tạo
động lực cho kinh tế phát triển. Đó chính là quá trình luân chuyển vốn nhàn rỗi
từ trong tay các nhà đầu tư đến những người cần vốn – các doanh nghiệp, Chính
phủ. Đây được xem là chức năng cơ bản và quan trọng nhất của TTCK nói riêng
và của bất cứ thị trường vốn nào nói chung.
• Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
TTCK được thành lập không chỉ để huy động vốn cho nền kinh tế mà còn
tạo ra cho các nhà đầu tư một “sân chơi” mới với nhiều sự lựa chọn đa dạng và
phong phú. Mỗi loại cổ phiếu, trái phiếu trên TTCK chính là một loại công cụ
đầu tư khác nhau hoàn toàn về thời hạn, lợi suất, mức độ rủi ro, khả năng thanh
khoản,…Tùy theo nhu cầu và khả năng chấp nhận rủi ro khác nhau của từng nhà
đầu tư mà họ có thể chọn cho mình một hoặc xây dựng một danh mục kết hợp
nhiều loại chứng khoán khác nhau nhằm đạt được mức độ thỏa dụng cao nhất.
• Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
Một câu hỏi đặt ra là khi những nhà đầu tư đang nắm giữ chứng khoán muốn
hiện thực hóa lợi nhuận hoặc muốn chuyển đổi khoản đầu tư của mình ra tiền
mặt để thanh toán thì phải làm như thế nào? Câu trả lời là các nhà đầu tư khi đó
sẽ tham gia vào TTCK thứ cấp. TTCK thứ cấp là nơi mua bán, trao đổi các loại
chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Nói cách khác, thị trường
thứ cấp tạo điều kiện cho những người nắm giữ chứng khoán được tự do mua
6
bán, trao đổi, chuyển nhượng, làm cho các loại chứng khoán có thể dễ dàng
chuyển đổi ra tiền mặt, tức là tạo tính thanh khoản cho chứng khoán.
• Đánh giá giá trị doanh nghiệp và tình hình của nền kinh tế

TTCK được xem là “phong vũ biểu” của nền kinh tế, là nơi có khả năng dự
báo cũng như phản ánh khá chính xác và kịp thời những diễn biến dù là nhỏ nhất
của nền kinh tế một đất nước và cả thế giới. Về mặt vi mô, khi nhìn vào một loại
chứng khoán sẽ giúp cho nhà đầu tư và nhà quản lý nhận biết được giá trị, tình
hình hoạt động cũng như sức mạnh tài chính của một doanh nghiệp hoặc một
ngành, một lĩnh vực cụ thể của nền kinh tế, từ đó dễ dàng có sự so sánh, đánh
giá giữa các doanh nghiệp với nhau
Thông qua TTCK, Chính phủ có thể chào bán hoặc mua lại các loại trái
phiếu nhằm thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ nới lỏng hay thắt chặt của
mình nhằm kích thích kinh tế hay kiềm chế lạm phát. Ngoài ra, thông qua những
chính sách, quy định mang tính hành chính bắt buộc, Chính phủ còn có thể tác
động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư, “nắn” dòng chảy vốn vào những lĩnh
vực mong muốn, đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các khu vực kinh tế theo
định hướng của Nhà nước.
1.1.3. Cơ cấu tổ chức của Thị trường chứng khoán Việt Nam
Về mặt cơ cấu tổ chức, nếu dựa trên đặc điểm lưu chuyển của dòng vốn thì
chúng ta có thể chia TTCK ra làm 2 cấp:
• Thị trường sơ cấp: là thị trường mua bán, trao đổi các loại chứng khoán mới
phát hành ra công chúng (Sử Đình Thành, 2008, tr.375). Trên thị trường này,
vốn từ những nhà đầu tư mua chứng khoán sẽ chảy trực tiếp vào doanh nghiệp
hoặc chủ thể phát hành. Đây là thị trường duy nhất mang vốn đến cho chủ thể
phát hành, mọi giao dịch của chứng khoán đó về sau không ảnh hưởng đến
nguồn vốn điều lệ của công ty.
• Thị trường thứ cấp: là thị trường mua bán, trao đổi các loại chứng khoán đã
phát hành trên thị trường sơ cấp (Sử Đình Thành, 2008, tr.375). Khác với thị
trường sơ cấp, luồng vốn trên thị trường thứ cấp chỉ luân chuyển giữa những
người đầu tư và kinh doanh chứng khoán (như các công ty môi giới, các tổ chức
cho vay kinh doanh chứng khoán) với nhau, không ảnh hưởng đến số vốn điều
lệ ghi nhận trên sổ sách của doanh nghiệp hay chủ thể phát hành khác.
7

Ngoài ra, nếu căn cứ theo cách thức tổ chức giao dịch thì chúng ta có thể
chia TTCK làm 2 loại: thị trường phi tập trung (OTC) và thị trường tập trung hay
thị trường niêm yết (Sở giao dịch). Trên thị trường OTC, các giao dịch được tiến
hành thông qua mạng lưới các công ty môi giới (công ty chứng khoán) theo hình
thức thỏa thuận. Còn trên thị trường tập trung, các lệnh giao dịch được tập trung tại
một địa điểm và chuyển đến hệ thống máy tính của Sở giao dịch để tiến hành so
khớp lệnh. Chứng khoán trên thị trường này được giao dịch theo cả hình thức thỏa
thuận lẫn khớp lệnh.
Tại Việt Nam, sau hơn 10 năm ra đời, hiện nay đã có 3 sàn giao dịch tập
trung, 2 sàn giao dịch chứng khoán niêm yết là Sở giao dịch chứng khoán Thành
phố Hồ Chí Minh (gọi tắt là HOSE) và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX),
cùng với Sàn giao dịch UPCoM dành cho những công ty đại chúng chưa niêm yết.
Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, chúng ta chỉ tìm hiểu về 2 thị
trường giao dịch chứng khoán niêm yết là HOSE và HNX.
1.1.4. Hàng hóa giao dịch trên Thị trường chứng khoán Việt Nam
Tại các TTCK phát triển lâu đời trên thế giới, hàng hóa giao dịch rất đa dạng
và phong phú, từ các loại chứng khoán vốn (equity securities), chứng khoán nợ
(debt securities) đến các công cụ phái sinh (derivatives).
Tuy nhiên tại Việt Nam, do chỉ mới thành lập hơn một thập niên nên sự đa
dạng về các loại hàng hóa được giao dịch là khá hạn chế. Trên 2 sàn giao dịch
chứng khoán niêm yết là HOSE và HNX chủ yếu có 3 loại chứng khoán dưới đây:
• Cổ phiếu phổ thông: là điển hình của dạng chứng khoán vốn. Tại Việt Nam,
cổ phiếu là hàng hóa giao dịch chủ yếu, chiếm hơn 95% khối lượng giao dịch
toàn thị trường.
• Trái phiếu doanh nghiệp: là một dạng chứng khoán nợ do doanh nghiệp phát
hành, người nắm giữ được hưởng một phần lãi nhất định theo điều khoản ghi
trên đó gọi là trái tức.
• Chứng chỉ quỹ đầu tư: Sự thành lập TTCK đã kéo theo sự ra đời của
một hình thức đầu tư mới – quỹ đầu tư. Các nhà đầu tư cá nhân với số vốn ít có
thể góp vốn của mình vào một công ty quản lý quỹ và công ty này có nhiệm vụ

đem toàn bộ số vốn đó đi đầu tư, có thể là đầu tư vào các doanh nghiệp chưa
niêm yết bằng cách góp vốn, mua cổ phần hoặc đầu tư vào các doanh nghiệp
8
trên sàn niêm yết bằng cách mua chứng khoán của doanh nghiệp đó và chia lợi
nhuận cho những nhà đầu tư cá nhân theo tỷ lệ vốn góp.
Tại Việt Nam, hiện có 5 chứng chỉ quỹ được niêm yết trên TTCK, và toàn bộ đều
thuộc sàn HOSE, bao gồm Quỹ đầu tư tăng trưởng Manulife (MAFPF1), Quỹ đầu
tư cân bằng Prudential (PRUBF1), Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam (VFMVF1),
Quỹ đầu tư doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam (VFMVF4) và Quỹ đầu tư năng động
Việt Nam (VFMVFA).
1.1.5. Chỉ số giá chứng khoán
Mỗi loại chứng khoán niêm yết trên thị trường đều có một mức giá xác định
của nó trong từng phiên giao dịch dựa trên kết quả giao dịch khớp lệnh của nhà đầu
tư đối với chứng khoán đó trong phiên. Nhìn vào đó người ta có thể biết được sự
biến động về giá, tăng hoặc giảm bao nhiêu phần trăm. Tuy nhiên, để xác định “giá”
của toàn bộ TTCK nói chung không phải đơn giản, vì yêu cầu đầu tiên là mức “giá”
đó phải phản ánh được toàn bộ diễn biến giá của hàng trăm loại chứng khoán khác
nhau được niêm yết trên thị trường. Vì vậy, để ghi nhận và đánh giá tình hình phát
triển của TTCK, người ta sử dụng một công cụ gọi là Chỉ số giá chứng khoán.
Có nhiều cách tính chỉ số giá chứng khoán, và mỗi thị trường tại mỗi quốc
gia đều có riêng cách tính cho bộ chỉ số của mình. Tuy nhiên, nhìn chung thì
phương pháp được sử dụng nhiều và rộng rãi nhất chính là phương pháp tính chỉ số
bình quân gia quyền Passcher. Phương pháp này tính sự biến động theo % của giá
ngày hiện tại so với ngày gốc với cùng giá trị quyền số là số lượng chứng khoán
niêm yết ở ngày hiện tại. Công thức tính như sau:


×
×
=

n
n
PoQt
PtQt
Ip
1
1
x 100
với I
p
là chỉ số giá chứng khoán theo phương pháp Passcher
Q
t
là số lượng cổ phiếu niêm yết ở ngày hiện tại
P
t
là giá cổ phiếu ở ngày hiện tại
P
o
là giá cổ phiếu ở ngày gốc
Quy ước: Chỉ số giá ngày giao dịch đầu tiên của thị trường được tính là 100
điểm.
Nhìn vào công thức trên, có thể thấy được là chỉ số giá chứng khoán chỉ
phản ánh sự biến động về giá cổ phiếu tham gia tính giá, còn khối lượng cổ phiếu
thì được cố định tại thời điểm tính giá. Trong trường hợp có một cổ phiếu mới tham
gia hoặc rút khỏi thị trường, hoặc một loại cổ phiếu chia cổ tức hay chia tách thì Chỉ
9
số trên sẽ được điều chỉnh theo một hệ số chia mới sao cho luôn đảm bảo nguyên
tắc chỉ số giá chỉ biến động khi có sự thay đổi về giá cổ phiếu có mặt trong rổ tính
giá (xem cách tính ở Phụ lục 1).

Phương pháp tính chỉ số này được sử dụng ở hầu hết những TTCK lớn trong
khu vực và trên thế giới như Mỹ (Chỉ số S&P 500), Hàn Quốc (KOSPI), Anh
(FTSE-100), Nhật (TOPIX), Hong Kong (Hang Seng),… Con số phía sau các chỉ số
là để chỉ số lượng cổ phiếu nằm trong rổ đại diện, như S&P 500 là chỉ số được tính
dựa trên biến động giá của 500 cổ phiếu có vốn hóa lớn nhất TTCK Mỹ.
Ở Việt Nam cũng sử dụng phương pháp này với bộ chỉ số giá VN-Index trên
sàn HOSE và HNX-Index trên sàn HNX. Về quy định chọn rổ hàng hóa đại diện, cả
2 sàn chứng khoán của Việt Nam đều sử dụng tất cả các cổ phiếu niêm yết trên thị
trường để đưa vào rổ tính chỉ số. Những ưu và nhược điểm của việc tính chỉ số giá
này của TTCK Việt Nam sẽ được đề cập trong các phần sau.
1.1.6. Các chủ thể tham gia Thị trường chứng khoán
Các chủ thể tham gia TTCK Việt Nam bao gồm:
• Nhà phát hành: là những tổ chức có nhu cầu về vốn và thực hiện huy động
vốn thông qua TTCK bằng việc cung cấp các loại chứng khoán khác nhau cho thị
trường. Nhà phát hành trên TTCK bao gồm những đối tượng sau:
- Chính phủ và chính quyền địa phương.
- Tổ chức tài chính.
- Doanh nghiệp
• Nhà đầu tư: theo khoản 10 điều 6 Luật chứng hoán 2006 thì nhà đầu tư là
“tổ chức, cá nhân Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia đầu tư trên
thị trường chứng khoán”. Theo định nghĩa trên, có nhiều căn cứ để phân loại nhà
đầu tư trên TTCK. Nếu căn cứ vào quy mô tổ chức thì chúng ta có thể phân biệt nhà
đầu tư cá nhân và nhà đầu tư tổ chức. Còn nếu căn cứ vào nguồn gốc của nhà đầu tư
thì chứng ta có thể chia ra nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước. Đây là
đối tượng nghiên cứu chính của chúng ta trong đề tài này.
• Các tổ chức kinh doanh trên TTCK
Bao gồm các công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư, các trung gian tài chính có hoạt
động bao gồm một hay một số nghiệp vụ như môi giới, tự doanh chứng khoán, tư
vấn đầu tư, bảo lãnh phát hành chứng khoán, quản lý tài sản, quản lý quỹ đầu tư
chứng khoán.

• Các tổ chức liên quan đến TTCK
10
Đây là những tổ chức hoạt động với mục đích chính là giúp cho việc giao dịch
trên thị trường của các chủ thể trên được diễn ra thuận lợi, dễ dàng và tuân thủ theo
các quy định của pháp luật.
- Ủy ban chứng khoán Nhà nước.
- Sở giao dịch chứng khoán.
- Trung tâm lưu ký chứng khoán.
- Hiệp hội các nhà đầu tư chứng khoán.
1.2. Tầm quan trọng của việc thu hút dòng vốn đầu tư trong nước vào Thị
trường chứng khoán Việt Nam
Như đã trình bày ở trên, có 2 dạng nhà đầu tư chứng khoán nếu căn cứ vào
nguồn gốc của dòng vốn: nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Theo
quy định hiện hành thì tổng số cổ phiếu mà nhà đầu tư nước ngoài sở hữu – hay còn
gọi là room nhà đầu tư nước ngoài – không được vượt quá 49% tổng số cổ phiếu
của một doanh nghiệp (đối với các ngành nghề nhạy cảm như tài chính, ngân hàng,
… thì con số này chỉ là 30%). Số còn lại thuộc về các nhà đầu tư trong nước. Điều
đó chứng tỏ phần lớn vốn điều lệ của các doanh nghiệp niêm yết hiện nay là nguồn
vốn nội. Chính vì vậy, có thể nói dòng vốn trong nước đóng vai trò chủ đạo trong
các giao dịch diễn ra trên TTCK. Một doanh nghiệp muốn huy động vốn thì không
thể chỉ chú ý đến đối tượng các nhà đầu tư ngoại, vì cho dù doanh nghiệp có hấp
dẫn nhà đầu tư nước ngoài đến mấy và nguồn vốn của những nhà đầu tư này có dồi
dào như thế nào thì họ vẫn bị ràng buộc về tỷ lệ sở hữu. Trái lại, đối tượng mà các
doanh nghiệp nên tìm cách thu hút chính là dòng vốn đầu tư trong nước.
Hiện nay, theo tính toán của Ngân hàng Nhà nước thì số vốn nhàn rỗi trong
dân cư là rất lớn. Chỉ tính riêng lượng vàng trong dân theo ước tính đã đạt khoảng
300 -500 tấn vàng, tức khoảng 350 – 600 nghìn tỷ đồng, nếu đem so với GDP ước
tính của Việt Nam năm 2011 là 110 tỷ USD (khoảng 2,2 triệu tỷ đồng) thì nó chiếm
khoảng 25%. Con số này chứng tỏ tiềm lực của xã hội còn rất lớn, và nếu có thể thu
hút để số tiền này chảy vào các doanh nghiệp sẽ tạo nên đòn bẩy vô cùng lớn để

thúc đẩy kinh tế phát triển.
Một diễn biến nữa càng làm nâng cao vai trò của dòng vốn trong nước trên
TTCK hiện nay là tình hình huy động vốn của doanh nghiệp qua hệ thống ngân
hàng đang gặp nhiều khó khăn. Như chúng ta đều biết, về cơ bản có 2 cách để một
doanh nghiệp thực hiện huy động vốn: một là đi vay thông qua hệ thống các ngân
hàng thương mại, hai là phát hành cổ phiếu và trái phiếu trên TTCK. Thế nhưng với
11
tình hình lãi suất cho vay hiện nay của các ngân hàng đều ở mức rất cao, 17 – 18%,
cá biệt có ngân hàng chào mức lãi suất trên 20% kèm theo những điều kiện cho vay
và trả nợ khắt khe đã làm cho việc tiếp cận nguồn vốn này của đa số các doanh
nghiệp đều đang gặp khó khăn.
Bên cạnh đó, tuy nói TTCK sơ cấp là nơi tạo vốn cho doanh nghiệp, là thị
trường quan trọng cần sự hỗ trợ ngay lúc này nhưng cũng không thể xem nhẹ vai
trò của thị trường thứ cấp. Nhiệm vụ quan trọng nhất của TTCK thứ cấp chính là
tạo ra tính thanh khoản cho các chứng khoán, từ đó giúp cho việc phát hành trên thị
trường sơ cấp trong những lần sau có nhiều khả năng thành công hơn Nếu không
có thị trường thứ cấp thì nhà đầu tư sẽ phải gặp nhiều khó khăn và mất thời gian
hơn trong việc tự tìm người có nhu cầu mua chứng khoán và sẽ không còn mặn mà
với những đợt phát hành tiếp theo, từ đó gây khó cho việc huy động của doanh
nghiệp. Vì vậy, các biện pháp nhằm hỗ trợ và khắc phục những hạn chế hiện nay
của thị trường thứ cấp cũng cần được xem xét một cách nghiêm túc và khoa học,
tránh để xảy ra hiện tượng cổ phiếu bị chính các nhà đầu tư trong nước thờ ơ.
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư trong nước
trên Thị trường chứng khoán Việt Nam
Hiểu rõ vai trò quan trọng của dòng vốn đầu tư trong nước trên TTCK, bước
tiếp theo chúng ta cần tìm hiểu những yếu tố nào có thể tác động đến việc ra quyết
định đầu tư của các nhà đầu tư trong nước trên thị trường, là những chủ thể nắm giữ
dòng vốn đó. Trong phần này, chúng ta chỉ tìm hiểu các khái niệm, xu hướng tác
động cũng như tình hình cơ bản hiện tại của những yếu tố đó trên thị trường. Việc
đi sâu tìm hiểu thực trạng cũng như phân tích sự ảnh hưởng của những yếu tố này

đối với vấn đề đang nghiên cứu sẽ được trình bày trong các phần sau.
1.3.1. Các yếu tố vĩ mô
TTCK được xem là nơi dự báo và phản ánh một cách gần như ngay lập tức
với những biến động dù là nhỏ nhất xảy ra trong nền kinh tế. Chính vì vậy mà các
yếu tố vĩ mô cơ bản của nền kinh tế có một tầm ảnh hưởng quan trọng đến việc ra
quyết định của nhà đầu tư trên thị trường. Một số yếu tố có thể kể đến là:
• Tốc độ phát triển kinh tế: được thể hiện qua tốc độ tăng trưởng GDP, các chỉ
số phát triển sản xuất công nghiệp, dịch vụ, tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế quốc
gia và thế giới. Theo lý thuyết thì khi nền kinh tế của một nước hay toàn cầu đạt
mức tăng trưởng tốt và ổn định qua các năm thì đó là một chỉ báo khá chắc chắn
12
trong dài hạn cho sự đi lên của TTCK. Bởi vì lúc đó các nhà đầu tư hiểu rằng cơ hội
cho các doanh nghiệp trên sàn tiếp tục phát triển là có cơ sở, và doanh nghiệp sẽ cần
huy động thêm nhiều nguồn lực từ bên ngoài, làm gia tăng nhu cầu đầu tư trong xã
hội, từ đó kích thích dòng vốn chảy vào TTCK tăng lên.
• Lạm phát: ngược lại thì sự biến động của lạm phát, biểu hiện qua việc gia
tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) hay chỉ số giá sản xuất (PPI) sẽ thể hiện một nền
kinh tế tăng trưởng không bền vững, là dấu hiệu của việc lãi suất sẽ tăng lên, làm
giảm tỷ suất sinh lời thực tế của doanh nghiệp, qua đó ảnh hưởng đến thu nhập thực
tế của cổ đông (được biểu hiện bằng giá trị cổ tức). Điều đó khiến cho cổ phiếu của
doanh nghiệp trở nên kém hấp dẫn trong mắt các nhà đầu tư, khiến họ không muốn
nắm giữ nữa và đồng loạt bán ra, hệ quả là sẽ làm giá cổ phiếu giảm mạnh.
• Tình hình lãi suất: khi lãi suất tăng lên cũng đồng nghĩa với chi phí vay vốn
của doanh nghiệp tăng lên. Do đó sẽ làm giảm khả năng tiếp cận nguồn vốn vay của
doanh nghiệp, hoặc nếu có vay được thì sẽ làm cho giá thành tăng cao, làm giảm
khả năng cạnh tranh của sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất, từ đó ảnh hưởng kép
đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc lãi suất đầu vào tăng lên cũng
tác động đến các nhà đầu tư có vốn nhàn rỗi, họ giờ đây hoàn toàn có thể chuyển
qua kênh đầu tư khác an toàn và có lợi suất hấp dẫn hơn như kênh gửi tiết kiệm.
Tuy nhiên, việc biến động của lãi suất chỉ thật sự ảnh hưởng trái chiều đến

TTCK khi mà lãi suất đó phản ánh xu hướng chủ đạo của lạm phát. Nói cách khác,
chỉ khi nào lãi suất giảm và lạm phát cũng có xu hướng giảm thì giá cổ phiếu mới
có thể tăng bền vững và ngược lại, lãi suất tăng và lạm phát cùng tăng thì cổ phiếu
sẽ rớt giá. Bởi vì trong trường hợp lạm phát thấp nhưng lãi suất cao, điều này cũng
có thể báo hiệu một nền kinh tế đang trong quá trình tăng trưởng và nhu cầu về vốn
đang lấn át nguồn cung khiến cho lãi suất tăng cao. Khi đó, việc đầu tư vào cổ phiếu
có thể vẫn sẽ mang lại những khoản lãi lớn và nhà đầu tư vẫn sẵn sàng tham gia vào
thị trường.
• Chính sách thuế của Nhà nước đối với thu nhập từ chứng khoán: đây được
xem như là một rào cản do các nhà quản lý đặt ra trong trường hợp muốn ngăn sự
phát triển quá nóng của TTCK khi tăng thuế đánh trực tiếp lên thu nhập của các nhà
đầu tư trên thị trường, làm giảm lợi nhuận của họ. Ngược lại, trong những lúc thị
13
trường gặp khó khăn do thiếu thanh khoản, việc giảm thuế sẽ có tác dụng kích thích
các nhà đầu tư quay trở lại thị trường.
• Chính sách tín dụng của Chính phủ đối với chứng khoán: đây là biện pháp
nhằm tăng cường hay hạn chế nguồn cung tiền từ các tổ chức tín dụng đổ vào
TTCK. Một số nhà đầu tư chứng khoán muốn tăng tỷ suất lợi nhuận trên một đồng
vốn mình bỏ ra thường hay sử dụng những khoản vay từ ngân hàng và các tổ chức
tín dụng. Ví dụ một nhà đầu tư bỏ 10 đồng vốn mua cổ phiếu và cổ phiếu sau đó
tăng giá 50% thì lợi nhuận của người đó là 5 đồng, tỷ suất lợi nhuận trên vốn là
50%. Trong trường hợp người đó đi vay thêm 10 đồng để mua 20 đồng cổ phiếu thì
lợi nhuận tương đương sẽ là 10 đồng, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn là 100% (chưa trừ lãi
vay). Đây gọi là việc sử dụng đòn bẩy tài chính, chính điều này làm tăng sức hấp
dẫn của TTCK so với các kênh đầu tư khác. Vì vậy, khi Nhà nước có quy định buộc
các ngân hàng siết nguồn cho vay để kinh doanh chứng khoán thì những nhà đầu tư
này không còn tìm thấy sự hấp dẫn trên Thị trường, và sẽ đi tìm kênh đầu tư khác
phù hợp hơn.
• Ngoài ra cũng có một số nguyên nhân từ các yếu tố phi kinh tế như chính trị,
an ninh – xã hội cũng ảnh hưởng đến TTCK, từ đó tác động đến các nhà đầu tư.

Tuy nhiên, những yếu tố này ở TTCK Việt Nam không đóng vai trò quan trọng do
nền an ninh chính trị của ta được xem là ổn định và trong suốt hơn 11 năm qua chưa
có một sự ảnh hưởng đáng kể nào lên sự phát triển của TTCK.
1.3.2. Tình hình tài chính của doanh nghiệp
TTCK có hàng trăm cổ phiếu niêm yết, mỗi cổ phiếu đại diện cho một doanh
nghiệp trong một lĩnh vực ngành nghề cụ thể. Một nhà đầu tư không thể cùng lúc sở
hữu cổ phiếu của tất cả các doanh nghiệp có trong danh mục thị trường mà chỉ có
thể nắm giữ cổ phiếu của một hoặc một vài doanh nghiệp. Do đó, chỉ quan tâm đến
những số liệu vĩ mô của nền kinh tế đối với các nhà đầu tư vẫn là chưa đủ mà họ
còn cần phải nghiên cứu những chỉ tiêu kinh tế – tài chính của bản thân doanh
nghiệp và ngành nghề mà họ đang hoặc có ý định đầu tư. Một số chỉ tiêu tài chính
cơ bản mà các nhà đầu tư thường theo dõi bao gồm:
• Các chỉ tiêu về cấu trúc tài chính: bao gồm các tỷ lệ về cơ cấu tài sản, nguồn
vốn của doanh nghiệp. Cơ cấu tài sản thường cho biết tính thanh khoản của những
tài sản mà doanh nghiệp đang sở hữu, tình hình về vốn lưu động, tài sản và các
khoản đầu tư ngắn hạn – dài hạn. Còn việc phân tích cơ cấu nguồn vốn sẽ cho nhà
14
đầu tư một cái nhìn tổng quan về tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp, tỷ lệ nợ
chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng nguồn vốn, hệ số tự tài trợ của doanh nghiệp.
Nhìn chung, nhà đầu tư thường ưa thích cổ phiếu của những doanh nghiệp sở hữu
nhiều tài sản có tính thanh khoản cao để dễ dàng trang trải các khoản nợ khi đến
hạn và có cơ cấu nguồn vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng lớn, hoạt động không dựa
quá nhiều vào các khoản vốn vay. Điều đó chứng tỏ một nền tảng tài chính vững
mạnh, có thể giúp doanh nghiệp vượt qua những giai đoạn khó khăn khi nền kinh tế
có những biến động bất lợi.
• Các chỉ tiêu về hiệu quả hoạt động: nhóm này bao gồm các chỉ tiêu về đòn
bẩy hoạt động (tỷ lệ nợ/tổng tài sản), đặc biệt là các tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở
hữu (ROE) và lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA). Đây là các tiêu chí rất quan trọng
giúp nhà đầu tư nhận biết được khả năng sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp,
cùng 1 đồng vốn chủ sở hữu hay 1 đồng tài sản, doanh nghiệp nào tạo ra lợi nhuận

cao hơn thì thường sẽ được các nhà đầu tư đánh giá cao. Tuy nhiên, khi sử dụng
ROA, các nhà đầu tư cũng cần phải xem xét đến tỷ lệ đòn bẩy, tức trong 1 đồng tài
sản đó có bao nhiêu phần trăm là vốn vay và lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được
có đủ bù đắp chi phí lãi vay hay không, nếu không thì doanh nghiệp sẽ gặp phải rủi
ro thanh khoản khi các khoản vay đến hạn. Một điều cần lưu ý nữa là các tỷ lệ trên
giữa các ngành nghề khác nhau là không giống nhau, cho nên việc so sánh ROE,
ROA hay tỷ lệ đòn bẩy giữa các nhóm ngành nghề khác nhau là không có ý nghĩa
và không giúp ích được cho việc ra quyết định của nhà đầu tư.
Ngoài các chỉ tiêu trên, tình hình hoạt động và quản lý doanh nghiệp cũng
nằm trong số những quan tâm của các nhà đầu tư. Những thông tin về việc doanh
nghiệp cải tiến dây chuyền sản xuất, phát minh ra một công nghệ mới có khả năng
ứng dụng trong sản xuất hay việc mở rộng thị trường tiêu thụ,… thường thu hút
được nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư. Tương tự như vậy với việc thay đổi nhân
sự quản lý hoặc định hướng chiến lược phát triển công ty, nếu những thay đổi đó
được đánh giá là tích cực và khả thi sẽ thúc đẩy các nhà đầu tư, đặc biệt là những
nhà đầu tư dài hạn, sẵn sàng bỏ vốn vào giúp doanh nghiệp tiếp tục phát triển và
thực hiện những mục tiêu của mình.
1.3.3. Các trường phái đầu tư
Đối với các nhà đầu tư chứng khoán trên thế giới nói chung và ở Việt Nam
nói riêng, việc ra một quyết định đầu tư không chỉ đơn thuần là những nhận định,
15
phán đoán mang tính chủ quan của bản thân nhà đầu tư mà thường phải dựa trên
nền tảng của những phân tích, nghiên cứu chặt chẽ, khoa học. Trong quá trình
nghiên cứu và hoàn thiện các kỹ thuật phân tích chứng khoán đã chia thành hai
trường phái cùng tồn tại và phát triển song song với nhau.
Trường phái thứ nhất là ra quyết định đầu tư dựa theo phân tích cơ bản.
Phân tích cơ bản là những phân tích, tính toán các chỉ tiêu về giá và khả năng sinh
lời của cổ phiếu dựa trên những số liệu trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
Các chỉ tiêu mà nhà đầu tư thường hay quan tâm nhất là tỷ lệ giá cổ phiếu/thu nhập
(P/E), thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS – earning per share), giá trị sổ sách của cổ

phiếu (BV – book value), giá cổ phiếu/giá trị sổ sách (P/B),… Về lý thuyết thì
những cổ phiếu có EPS và BV càng cao thì càng thu hút nhà đầu tư theo trường
phái cơ bản vì thu nhập mà cổ phiếu mang lại hay giá trị của cổ phiếu ghi nhận trên
sổ sách kế toán đáp ứng tốt kỳ vọng của họ. Ngược lại, họ thường tránh mua những
cổ phiếu có tỷ lệ P/E và P/B cao vì giá của những cổ phiếu đó đã vượt quá kỳ vọng,
không còn phản ánh đúng giá trị thực tế cũng như thu nhập mà chúng có thể mang
lại.
Ưu điểm của trường phái phân tích cơ bản chính là những kết quả phân tích
mà nhà đầu tư có được phản ánh đúng tình hình và bản chất của doanh nghiệp hiện
tại. Họ cũng có thể dễ dàng kết hợp các chỉ tiêu đó với các yếu tố vĩ mô và yếu tố
ngành trong quá trình phân tích của mình. Chính vì vậy, kết quả của phân tích cơ
bản thường chỉ ra được triển vọng và xu hướng biến động của giá cổ phiếu trong
trung và dài hạn, thường là từ 1 tháng trở lên. Do đó, trường phái này rất phù hợp
với những nhà đầu tư giá trị dài hạn, những người tìm kiếm lợi nhuận dựa vào kết
quả hoạt động kinh doanh cũng như sự phát triển trong tương lai của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, phương pháp này cũng có những khuyết điểm. Thứ nhất là việc
thu thập số liệu trên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp là khá vất vả vì có khá
nhiều chỉ tiêu để lựa chọn, chưa kể còn phải đối mặt với rủi ro gian lận của các
doanh nghiệp khi lập báo cáo tài chính. Thứ hai là việc phân tích mất khá nhiều thời
gian của nhà đầu tư và không phải nhà đầu tư nào cũng có đủ kiến thức và hiểu biết
về tài chính doanh nghiệp để có thể phân tích một cách chính xác và đầy đủ. Và thứ
ba là khi sử dụng phương pháp này, nhà đầu tư chỉ có thể biết được giá trị thực của
16
cổ phiếu và xu hướng giá trong tương lai nhưng lại không thể biết được chính xác
đâu là thời điểm thích hợp để mua cũng như bán cổ phiếu.
Chính vì phân tích cơ bản có những hạn chế như vậy nên Charles H. Dow đã
nghiên cứu và đưa ra một phương pháp phân tích mới, dựa trên những biểu đồ thể
hiện giá và khối lượng giao dịch của cổ phiếu. Đó chính là trường phái phân tích
kỹ thuật. Phân tích kỹ thuật là môn khoa học của sự ghi nhận lại, thường là dưới
dạng đồ thị, những hoạt động giao dịch diễn ra trong quá khứ gây lên những thay

đổi về giá, khối lượng giao dịch, … của một chứng khoán bất kì hay với chung toàn
bộ thị trường và sau đó sẽ dựa trên “bức tranh về quá khứ” đó để suy luận ra xu
thế có thể xảy ra trong tương lai (Roberb D. Edwards và John Magee, 2001, tr.4).
Những giả định làm cơ sở để hình thành phương pháp này là: giá của cổ phiếu do
quan hệ cung – cầu trên Thị trường xác định, nó đã bao gồm tất cả các thông tin vi
mô, vĩ mô nên những thông tin đó không còn tác động đến sự biến động của giá; sự
thay đổi trong khuynh hướng hiện tại là do thay đổi tương quan cung – cầu và sớm
muộn cũng sẽ được nhận diện thông qua phản ứng của chính Thị trường; và cuối
cùng là lịch sử có tính tự lặp lại trong những điều kiện tương tự nhau (về giá và
khối lượng). Các nhà đầu tư kỹ thuật thường sử dụng những mô hình và lý thuyết
nổi tiếng như lý thuyết sóng Elliot, lý thuyết Dow, mô hình hai đáy, mô hình đỉnh –
đầu – vai,… trong quá trình phân tích kỹ thuật.
Lợi thế nổi bật của phương pháp phân tích kỹ thuật là về mặt thời gian. Tư
liệu đầu vào dễ kiếm, chính xác, không mất thời gian phân tích tình hình ngành và
doanh nghiệp nên nhà đầu tư có thể đưa ra những quyết định nhanh chóng và kịp
thời. Thêm nữa, nó còn có thể xác định được đâu là thời điểm tham gia cũng như
rời khỏi Thị trường với độ chính xác đến từng phiên giao dịch, giúp nhà đầu tư đạt
được lợi nhuận cao nhất. Chính vì vậy, trường phái này phù hợp với những nhà đầu
tư cơ hội ngắn hạn do yêu cầu phải đưa ra quyết định ngay khi thời cơ xuất hiện đôi
khi chỉ trong vài giây.
Ngược lại, do phương pháp này dựa quá nhiều trên những giả định nên
nhược điểm lớn nhất của nó chính là việc trong thực tế, một trong số các giả định
đó rất nhiều khả năng không thể thỏa mãn, từ đó sẽ làm sai lệch kết quả phân tích,
ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư.
17
Hai trường phái trên tuy khác nhau hoàn toàn về bản chất và phương pháp
nhưng trong một số trường hợp lại không phủ định mà còn bổ sung, hỗ trợ nhau để
giúp các nhà đầu tư ra quyết định một cách tự tin và chính xác hơn.
1.3.4. Tâm lý của nhà đầu tư
Với hai phương pháp phân tích trên, có lẽ mọi người đều sẽ nghĩ đầu tư vào

TTCK là một công việc khá dễ dàng vì đã có đủ các công cụ để hỗ trợ nhà đầu tư.
Thế nhưng vì sao trong lịch sử phát triển TTCK trên thế giới nói chung và tại Việt
Nam nói riêng vẫn có những thời kỳ giá biến động rất mạnh, những cú “sốc” thật sự
đối với Thị trường trong khi trước đó lại không hề có một chỉ báo tài chính hay mô
hình nào thể hiện điều đó. Các nhà đầu tư trên Thị trường thật sự bất ngờ trước
những diễn biến đó mặc dù họ đã nghiên cứu, phân tích cặn kẽ mọi khía cạnh từ cơ
bản đến kỹ thuật. Nguyên nhân là vì họ đã bỏ qua một yếu tố rất quan trọng trong
đầu tư nói chung và đầu tư trên TTCK nói riêng, đó chính là tâm lý nhà đầu tư.
TTCK, nhất là những thị trường mới phát triển như của Việt Nam, thu hút rất
nhiều dạng nhà đầu tư khác nhau do tiềm năng thu lợi nhuận ở những thị trường
đang tăng trưởng như vậy là rất lớn. Trong số đó chủ yếu là những nhà đầu tư
nghiệp dư nhỏ lẻ, những người mà kiến thức về chứng khoán còn khá yếu, nhất là
những kiến thức về phân tích, nhận định thị trường. Vì vậy, những quyết định đầu
tư của họ thường chỉ dựa vào cảm tính, đa phần họ mua – bán cổ phiếu theo trào
lưu, thấy người khác mua thì họ phải mua cho bằng được, người khác bán thì họ lại
ồ ạt bán tháo. Đây được gọi là “tâm lý bầy đàn” trong đầu tư chứng khoán, vốn
thường xuất hiện ở những thị trường mới nổi do trình độ của đa phần nhà đầu tư
còn hạn chế. Tuy chỉ là những nhà đầu tư cá nhân với số vốn khiêm tốn nhưng nếu
tập hợp số nhà đầu tư như vậy sẽ thành một con số khá lớn, đủ sức làm thay đổi xu
hướng của một cổ phiếu, thậm chí là cả Thị trường.
Trên thực tế, tâm lý bầy đàn không hẳn là một điều xấu, thậm chí nó còn
giúp ích rất nhiều cho những nhà đầu tư nào nhận biết được xu hướng của “bầy
đàn”. Nhà đầu tư huyền thoại Warren Buffet có một câu nói bất hủ: “Hãy tham lam
khi người khác sợ hãi, và hãy biết sợ hãi khi người khác tham lam” có thể minh
chứng cho điều này. Nếu hình dung tất cả nhà đầu tư trên TTCK là một “đàn” lớn
thì xu hướng của Thị trường cũng chính là xu hướng của “bầy đàn” đó. Vì vậy, nếu
lúc nào cũng sống tách biệt khỏi “bầy đàn” thì chỉ có một con đường thất bại, mà
mỗi nhà đầu tư phải biết “đi chung” với “bầy” để cùng nhau hưởng lợi. Tuy nhiên,
18
điều quan trọng chính là các nhà đầu tư phải tỉnh táo để nhận biết được khi nào là

thời điểm hợp lý để tách khỏi “bầy”, bởi chỉ cần những nhà đầu tư “đầu đàn” –
những người đã hưởng lợi nhiều nhất từ xu hướng hiện tại – đột ngột tách khỏi
“đàn” thì lập tức “bầy đàn” sẽ trở nên hỗn loạn và xu hướng hiện tại sẽ nhanh chóng
đảo chiều. Lúc đó những người lãnh hậu quả nặng nề nhất chính là những người
vẫn còn đi theo xu hướng đó – những ngươi vẫn còn mang trong mình một sự cả tin
và xen lẫn chút tham lam rằng thị trường sẽ vẫn tiếp tục như vậy, cứ “cố chờ đợi
thêm một chút nữa xem sao”. Đó là những biểu hiện tâm lý thường thấy của các nhà
đầu tư trên TTCK. Để tránh điều đó, nhà đầu tư không những phải tự học cách kiềm
chế cảm xúc của mình trước mỗi diễn biến của thị trường mà còn phải có khả năng
phán đoán được thời gian của một xu hướng mà mình muốn theo đuổi, từ lúc bắt
đầu đến khi kết thúc, để có những bước đi thích hợp nhằm đạt được lợi nhuận tối
đa. Muốn như vậy thì việc am hiểu tâm lý của thị trường, đặc biệt của những nhà
đầu tư lớn và chuyên nghiệp – những người thường bắt đầu một xu hướng – là một
trong những kỹ năng bắt buộc, mặc dù không phải ai cũng có thể đạt được.
1.3.5. Tính thanh khoản
Theo định nghĩa về mặt tài chính, tính thanh khoản (liquidity) chính là khả
năng một loại tài sản được mua bán trên thị trường mà không làm giảm đi giá trị
của tài sản đó. Tính thanh khoản của chứng khoán là khả năng người nắm giữ
chứng khoán đó có thể bán được nó tại mức giá thị trường hiện tại. Theo lý thuyết
thì nhà đầu tư thường thích nắm giữ những loại chứng khoán có tính thanh khoản
cao hơn, vì trong trường hợp cần tiền để thanh toán hay hiện thực hóa lợi nhuận
cũng như cắt lỗ thì họ đều có thể chuyển đổi số chứng khoán mình sở hữu ra tiền
mặt một cách dễ dàng với một mức giá chấp nhận được.
Trên TTCK, yếu tố được quan tâm nhiều nhất khi nói đến tính thanh khoản
của một loại cổ phiếu và của cả thị trường chính là khối lượng giao dịch. Khối
lượng giao dịch là số lượng cổ phiếu, chứng khoán được mua và bán trong một
phiên (tuần, tháng,…). Một cổ phiếu càng được nhiều người giao dịch đồng nghĩa
với nguồn cung và cầu của cổ phiếu đó càng lớn, và việc gặp nhau của hai nguồn
cung – cầu này cũng dễ dàng hơn.
Bên cạnh đó, một yếu tố nữa cũng giúp xác định tính thanh khoản của chứng

khoán, đó là giá trị giao dịch. Giá trị giao dịch là tổng số tiền nhà đầu tư đã bỏ ra để
mua chứng khoán trong phiên. Giá trị giao dịch giúp nhà đầu tư xác định rõ ràng
19
hơn tính thanh khoản của chứng khoán bên cạnh yếu tố khối lượng. Thông thường
một chứng khoán có khối lượng giao dịch lớn đi kèm với giá trị giao dịch cũng lớn
tương ứng thì đó là những chứng khoán có thanh khoản tốt. Tuy nhiên cũng có
trường hợp một cổ phiếu được nhà đầu tư giao dịch nhiều nhưng giá trị giao dịch ở
mức thấp, điều đó chứng tỏ bên bán đang áp đảo bên mua, nhiều người sẵn sàng
bán với giá thấp hơn giá thị trường hiện tại của cổ phiếu với mục đích là nhanh
chóng thu hồi vốn. Trong trường hợp này, cổ phiếu không được xem là có tính
thanh khoản cao do người nắm giữ đã phải giảm giá trị hiện tại của nó mới có thể
bán được. Nói cách khác, khối lượng và giá trị giao dịch phải tương xứng với nhau
mới chứng tỏ được một loại chứng khoán nào đó có tính thanh khoản hay không.
1.3.6. Thông tin minh bạch
Thông tin đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc ra quyết định của
bất kỳ một nhà đầu tư nào trên TTCK, bởi nhiều lúc chỉ cần một thông tin nhỏ được
công bố sẽ có tác động làm thay đổi cả Thị trường. Chính vì vậy, việc minh bạch
hóa thông tin trên TTCK được xem là một nhân tố sống còn giúp thị trường phát
triển và thu hút nhà đầu tư.
Minh bạch thông tin bao gồm việc các doanh nghiệp cung cấp đầy đủ và kịp
thời những thông tin, tình hình có liên quan đến doanh nghiệp, đến Thị trường;
đồng thời những nhà quản lý Thị trường có nhiệm vụ giám sát, đốc thúc, bảo đảm
các doanh nghiệp thực hiện các nghĩa vụ trên cũng như giải quyết, xử lý những
trường hợp vi phạm. Điều đó nhằm đảm bảo tính công bằng cho tất cả mọi nhà đầu
tư trên sàn, cũng như tránh những giao dịch nội gián, thao túng giá cổ phiếu có thể
xảy ra.
Minh bạch hóa thông tin là một yêu cầu chính đáng và hợp lý của cổ đông và
trái chủ, những người đã bỏ tiền của mình ra cho doanh nghiệp sử dụng thì phải có
quyền được biết những thông tin liên quan đến doanh nghiệp đó. Đối với những
doanh nghiệp niêm yết thì việc minh bạch thông tin không chỉ liên quan đến hai đối

tượng trên, mà còn ảnh hưởng rất lớn đến những nhà đầu tư khác trên Thị trường,
những người đang tìm kiếm cơ hội để trở thành cổ đông hoặc trái chủ của doanh
nghiệp. Đó phải được xem là trách nhiệm, là nghĩa vụ của bản thân doanh nghiệp
niêm yết, của các cơ quan quản lý và các công ty kiểm toán đối với cá nhân các nhà
đầu tư cũng như đối với toàn bộ các thành viên tham gia thị trường. Có như vậy thì
TTCK mới thực sự hấp dẫn và trở nên an toàn hơn trong mắt các nhà đầu tư.
20
1.3.7. Ảnh hưởng của các kênh đầu tư khác
TTCK về bản chất cũng chỉ là một kênh đầu tư, vì vậy nhà đầu tư hoàn toàn
có thể lựa chọn cho mình một kênh đầu tư khác phù hợp hơn với yêu cầu về tỷ suất
lợi nhuận và mức độ chấp nhận rủi ro của mình. Hai yếu tố này luôn tồn tại song
song với nhau, lợi nhuận lớn luôn đi cùng với rủi ro cao, và ngược lại. Đó chính là
quy luật cơ bản mà bất cứ nhà đầu tư nào cũng thuộc lòng. Và một khi có một kênh
đầu tư nào đó có thể đáp ứng được cả kỳ vọng lợi nhuận và khả năng chấp nhận rủi
ro của nhà đầu tư thì họ sẽ lập tức rời bỏ kênh đầu tư hiện tại để chuyển dòng vốn
của mình sang kênh mới. Hiện tại ở Việt Nam, ngoài TTCK, các nhà đầu tư trong
nước còn có thể bỏ vốn của mình vào những kênh đầu tư sau:
Gửi tiết kiệm: đây có thể xem là một nghịch lý của hệ thống tài chính của
Việt Nam. Ở các nước, lãi suất tiền gửi tiết kiệm rất thấp, xấp xỉ ở mức bằng 0%,
thậm chí một số nước còn buộc người gửi tiền đóng phí cho ngân hàng, xem như đó
là dịch vụ giữ hộ tiền cho người dân của ngân hàng. Nhưng nhìn chung thì mức lãi
suất tiền gửi so với lạm phát thường là thực âm. Còn ở Việt Nam thì từ nhiều năm
nay, lãi suất ngân hàng luôn ở mức cao hơn lạm phát, tức lãi suất là thực dương.
Chính vì vậy, người dân chỉ cần đơn giản đem tiền của mình gửi vào ngân hàng,
định kỳ đến ngân hàng rút lãi. Đây có thể xem là kênh đầu tư an toàn nhất, rủi ro
mất vốn là vô cùng thấp, trong khi vẫn có lãi. Từ đó hình thành nên tâm lý của đại
đa số người dân là thích gửi tiền vào ngân hàng hơn là mang số tiền ấy đi đầu tư,
ảnh hưởng đến việc huy động vốn của kênh chứng khoán.
Đầu tư bất động sản: thị trường bất động sản được đánh giá là có tính thanh
khoản kém xa TTCK do giá trị tài sản trên thị trường này khá lớn và nguồn cầu tuy

có nhưng không thường xuyên, chính vì vậy người nắm giữ bất động sản thường
khó có thể bán ngay tài sản khi muốn. Theo lý thuyết, với tính thanh khoản thấp
như vậy thì bất động sản không phải là một kênh đầu tư ưa thích của các nhà đầu tư
nếu so với chứng khoán.
Đầu tư vàng: từ xưa đến nay trong quan niệm của người Việt Nam, vàng
được xem là phương tiện cất giữ an toàn, rất ít người mua vàng để đầu tư hưởng
chênh lệch giá. Tuy nhiên, kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm
2008, tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động, làm cho giá vàng thế giới cũng
như trong nước có những biến động liên tục trong một phạm vi khá lớn. Chính điều
21
này đã kích thích giới đầu tư vàng vào cuộc và một lượng vốn không nhỏ đã chảy
vào kênh vàng, trong đó không ít vốn từ chính TTCK chuyển sang.
Trên đây là tổng quan tình hình những yếu tố mà theo người viết là có ảnh
hưởng đến việc thu hút dòng vốn đầu tư trong nước trên TTCK Việt Nam. Có thể
nói, TTCK đang thực sự gặp khó khăn trong việc hấp dẫn những nhà đầu tư trong
nước bởi có khá nhiều trở ngại cũng như thách thức do các yếu tố trên mang lại. Vì
vậy, việc đánh giá, tìm nguyên nhân giải thích cho những yếu tố trên là công việc
bắt buộc, để từ đó mới có thể đưa ra những giải pháp nhằm gỡ rối và tăng cường thu
hút đầu tư trong nước cho thị trường.

×