Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

BƯỚC NGOẶT TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.11 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
ĐỀ TÀI: Làm rõ bước ngoặt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và
cách mạng giải phóng dân tộc.
S
T
T

sinh
viên
Họ và tên Công việc
Đánh
giá
Điểm
1. 4170 Lê Cẩm Giang Phần 1. Hồ Chí Minh ra
đi tìm đường cứu nước
từ chủ nghĩa yêu nước
2. Võ Hoàng Phần 2.1 Những hoạt
động nổi trội của Người
trong giai đoạn (1911-
1920).
3. Lưu Thị Phương
Dung
Phần 2.2 Bước tiếp cận
với chủ nghĩa Mác – Lê
nin.
4. Nguyễn Võ
Phương Trang
Phần 3.1 Những hoạt
động cơ bản của Hồ Chí
Minh giai đoạn (1920-


1930)
5. 7272 Nguyễn Thị Nga
(NT)
Phần 3.2 Tư tưởng cơ
bản của Hồ Chí Minh
về độc lập dân tộc và
cách mạng giải phóng
dân tộc.
K16QNH2-Khoa QTKD-DTU
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD: Nguyễn Hồng Thúy
1
LỜI MỞ ĐẦU
Với cả cuộc đời ra đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có vai trò vô
cùng to lớn trong việc đưa nước ta đến với một nền nước nhà độc lập, dân tộc hoàn
toàn tự do và nhân dân ta có cơm no áo ấm. Không sợ gian nan vất vả, người đã tìm
ra cho chúng ta một nền tư tưởng có tầm quan trọng sâu sắc- là tư tưởng mà sau
này Đảng cộng sản Việt Nam lấy nó làm “kim chỉ nam” cho hoạt động của mình
trong thời kì kháng chiến và cả trong thời kì hòa bình tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Để hình thành được một tư tưởng có giá trị đến như vậy, chúng ta đểu biết người đã
phải kinh qua biết bao nhiêu gian khổ, bao nhiêu tủi nhục. Qua mỗi một giai đoạn
như thế, người đã rút ra được nhiều bài học sâu sắc cho con đường đi tìm cho đồng
bào sự tự do, bình đẳng… Và có những giai đoạn mang nhiều ý nghĩa to lớn, có
tầm quan trọng sâu sắc và mang tính bước ngoặt trong việc hình thành tư tưởng của
Người.
Vậy những giai đoạn đó là khi nào, bước ngoặt to lớn ấy là gì và có ý nghĩa ra sao?
Nhóm chúng em tiến hành tìm hiểu đề tài “Làm rõ bước ngoặt trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về độc lập dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc” để giúp mọi người
hiểu rõ hơn những vần đề trên.
Quá trình tìm hiểu còn mang nhiều ý kiến chủ quan và còn kế thừa nhiều vào
những vấn đề đã tìm hiểu của những người đi trước, vì vậy bài tàm của nhóm

chúng em không thể tránh khỏi những sai sót và trùng lặp. Mong cô xem xét và có
ý kiến giúp đỡ nhóm hoàn thành tốt hơn đề tài này!
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
K16QNH2-Khoa QTKD-DTU
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD: Nguyễn Hồng Thúy
2
NỘI DUNG
1. Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước từ chủ nghĩa yêu nước
1.1. Hoàn cảnh lịch sử nước ta cuối TK XIX đầu TK XX
Vào giữa thế kỷ thứ XIX, đế quốc Pháp nổ súng đánh chiếm nước ta, giữa lúc chế
độ phong kiến Việt Nam đang trên đà suy tàn, mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân
với giai cấp địa chủ phong kiến trở nên gay gắt. Trước hành động xâm lược của đế
quốc Pháp, chế độ phong kiến mà đại biểu l0à triều đình nhà Nguyễn đã chọn con
đường quỳ gối đầu hàng, dâng nước ta cho Pháp. Chế độ phong kiến Việt Nam
trước đây đại biểu cho dân tộc, đến nay bộc lộ rõ sự thối nát, bất lực và phản động.
Mặc dù vậy, các phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta với truyền thống
kiên cường bất khuất đã liên tiếp nổ ra khắp Bắc, Trung, Nam. Một số phong trào
yêu nước nổ ra thời kỳ này :
 Năm 1885, phong trào Cần Vương dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu
nước phát triển rầm rộ, nhưng cũng chỉ kéo dài được đến năm 1896.
 Khởi nghĩa Yên Thế -Bắc Giang (1884 – 1913 ) do Hoàng Hoa Thám
lãnh đạo, nghiã quân Yên Thế đã đánh thắng nhiều trận, gây cho chúng nhiều
thiệt hại, nhưng cuộc khởi nghĩa này còn nhiều hạn chế nên nhanh chóng bị
Thực dân Pháp đàn áp và đến 1913 khởi nghĩa chấm dứt.
 Phong trào Đông Du (1906 – 1908) do Phan Bội Châu khởi xướng ,
ông chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài ( chủ yếu là Nhật ), để đanh
đuổi Thực dân Pháp nhưng không thành công và đến 1908 phong trào này
kết thúc.
 Phong trào Đông Kinh nghĩa thục do Phan Châu Trinh chủ trương
dùng những cải cách văn hóa, mở mang dân trí, nâng cao dân khí, phát triển

kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa trong khuôn khổ hợp pháp, làm cho dân
giàu, nước mạnh, buộc thực dân Pháp phải trao trả độc lập cho nước Việt
Nam
 Năm 1927-1930 Phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với sự
ra đời và hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng (25-12-1927). Cội nguồn
K16QNH2-Khoa QTKD-DTU
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD: Nguyễn Hồng Thúy
3
Đảng này là Nam Đồng thư xã, lãnh tụ là Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài,
Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính
 Ngày 9-2-1930, cuộc khởi nghĩa Yên Bái bùng nổ, trung tâm là thị xã
Yên Bái với cuộc tiến công trại lính Pháp của quân khởi nghĩa. ở một số địa
phương như Thái Bình, Hải Dương cũng có những hoạt động phối hợp.
Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản cuối
cùng đều thất bại. Một số nguyên nhân thất bại chủ yếu như sau:
- Khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản không còn phù hợp với thời đại mới
- Các phong trào này diễn ra lẻ tẻ không thống nhất nên dễ dàng bị thực dân Pháp
đàn áp.
- Các phong trào này quá phụ thuộc vào người lãnh đạo. Sau khi người lãnh đạo bị
bắt hoặc bị hy sinh thì các phong trào này đều bị thất bại.
- Chỉ hô hào cổ động không quan tâm đến vận động quần chúng, không chủ động
xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang.
1.2. Tiền đề xuất phát cho hình thành tư tưởng HCM về độc lập dân
tộc.
Trong bối cảnh lịch sử ấy, đánh giá được tình hình khó khăn của dân tộc,
ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành xuống con tàu A-mi-
ran La-tút-sơ Trê-vin, từ bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn), thực hiện một chuyến đi
lịch sử với mục đích tìm ra con đường cứu nước, cứu dân. Một cuộc hành trình
cách mạng của người con ưu tú của dân tộc, (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã
mở ra trang mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Người đã hội tụ đầy đủ các yếu

tố(cả khách quan và chủ quan) tạo nên sức mạnh và động lực thôi thúc Người ra đi,
chấp nhận mọi khó khăn gian khổ, kể cả hiểm nguy quyết tìm cho được con đường
cứu nước, cứu dân. Những yếu tố đó là:
Thứ nhất: Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
K16QNH2-Khoa QTKD-DTU
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD: Nguyễn Hồng Thúy
4
Người thấm đượm chủ nghĩa yêu nước Việt Nam , chính điều đó đã thôi thúc
Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Yêu nước là truyền thống cực kỳ quý
báu của dân tộc ta được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử lâu dài
dựng nước và giữ nước, trở thành tình cảm thiêng liêng trong mỗi người Việt
Nam.Chủ nghĩa yêu nước giữ vị trí chuẩn mực cao nhất của đạo lý và đứng đầu
trong bậc thang giá trị văn hóa tinh thần, là động lực nội sinh to lớn của dân tộc
Việt Nam trong công cuộc dựng nước và giữ nước suốt mấy ngàn năm lịch sử. Đây
là động lực quan trọng thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân, là nhân
tố khách quan nhưng chưa đủ, bởi cũng có nhiều người Việt Nam yêu nước nồng
nàn nhưng chưa tìm được con đường cứu nước đúng đắn, nên không thành công,
cần phải có thêm những yếu tố khác nữa.
Thứ hai : Truyền thống của quê hương và gia đình
Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đã thấm đượm trong con người
Bác, tình cảm ấy của Bác lại được nuôi dưỡng, tiếp sức và nhân lên gấp bội bởi
truyền thống của quê hương và gia đình. Chế độ cai tri tàn bạo của thực dân Pháp
đã tạo nên lớp sóng cồn trong xã hội Việt Nam, với truyền thống yêu nước nồng
nàn, nhân dân ta ở khắp mọi niềm, trong đó có Nghệ Tĩnh quê hương Bác liên tiếp
đứng đấu tranh anh dũng chống lại ách đô hộ thống trị của thực dân Pháp, giành
độc lập cho dân tộc, nhưng tất cả các cuộc đấu tranh đó đều thất bại.Thực tiễn đó
đặt ra cho Người câu hỏi: Làm thế nào để giành được độc lập cho Tổ quốc? Người
luôn trăn trở suy nghĩ quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân
Về gia đình: Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trong gia đình nhà nho nghèo, có
truyền thống yêu nước và tiến bộ, cả nhà Bác đều là những người yêu nước, thương

dân sâu sắc. Cụ Nguyễn Sinh Sắc – thân phụ của Bác là người rất giầu lòng yêu
nước thương dân.
Thứ ba: Với thiên tài của trí tuệ cùng với sự nỗ lực phấn đấu của Người.
Một hành trang hết sức quan trọng để Người lên đường, nhưng để có một
thành công, một kết quả như mong muốn, đòi hỏi Người cần phải có những nỗ lực
K16QNH2-Khoa QTKD-DTU
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD: Nguyễn Hồng Thúy
5
cao độ của cả trí tuệ và sức lực. Đây là nhân tố quyết định sự thành công của cuộc
hành trình tìm con đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Ninh.
Thực tế dã chứng minh rằng: Người quyết định sang phương Tây, một quyết
định lịch sử thể hiện thiên tài của một trí tuệ, một hướng đi khác hoàn toàn, thậm trí
còn đối lập với các nhà yêu nước đương thời, bởi mọi người đều tìm hướng sang
phương Đông còn Bác, người Việt Nam duy nhất đi sang phương Tây để tìm
đường cứu nước. Người cho rằng :”Muốn đánh hổ thì phải vào hang hổ”, chính từ
những suy nghĩ này giúp chúng ta hiểu hơn mục đích cuộc hành trình của Bác là đi
sâu vào trong lòng kẻ thù để hiểu kỹ hơn về kẻ thù, và cũng ở đây Người đã tìm
gặp được nguồn trong, gốc thẳng của một lý luận khoa học và cách mạng, đó là
Chủ nghĩa Mác – Lê Nin. Trên cơ sở đó Người nhận ra và chỉ rõ bản chất của chủ
nghĩa đế quốc là “con đỉa có hai vòi” và, nếu muốn giết con vật ấy người ta phải
đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi thì cái vòi còn lại kia sẽ
tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt
sẽ lại mọc ra. Như vậy, Người đã nêu ra cơ sở lý luận và thực tiễn của sự gắn kết
giữa cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản, gắn cách mạng Việt Nam
với cách mạng vô sản thế giới, Người cho rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”… "Chỉ có giải
phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này
chỉ có thể là sự nghiệp của CNCS và của cách mạng thế giới".chỉ có CNXH và
CNCS mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức …"Cách mạng giải phóng dân
tộc phải phát triển thành cách mạng CNXH thì mới giành được thắng lợi hoàn

toàn" Đây là cở sở lý luân của con đường cách mạng Việt Nam “Độc lập dân tộc
gắn liền với Chủ nghĩa xã hội”, sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình cách mạng, một bài
học lớn và là một trong những nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng ;Đồng thời, đây cũng là sự đóng góp vào kho tàng lý
luận Mác- Lê Nin của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc
trong thời đại mới.
K16QNH2-Khoa QTKD-DTU
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD: Nguyễn Hồng Thúy
6
2. Những hoạt động của Hồ Chí Minh trong thời kỷ nghiên cứu, khảo sát
con đường giải phóng dân tộc (1911-1920)
2.1. Những hoạt động nổi trội của Người trong giai đoạn (1911-1920).
2.1.1. Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh

Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Sau khi đánh chiếm được nước ta, thực dân Pháp đã đặt chính sách cai trị về
mọi mặt trong đời sống xã hội Việt Nam. Chính sách thống trị của Pháp đã tác
động đến mọi mặt của xã hội Việt Nam (chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ) trong
đó đặc biệt là sự ra đời của hai giai cấp mới: tư sản và công nhân. Trong lòng xã
hội Việt Nam tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản:
• Nông dân >< địa chủ phong kiến (mâu thuẫn vốn có ở xã hội Việt Nam)
• Dân tộc Việt Nam >< đế quốc thực dân Pháp: là mâu thuẫn nổi bật, hàng đầu.
Phong trào đấu tranh yêu nước giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ, chịu sự
chi phối và tác động bởi hai hệ tư tưởng lớn:
• Hệ tư tưởng phong kiến: tiêu biểu là phong trào Cần Vương (1885 – 1896) kết
thúc với thất bại của cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng.
• Hệ tư tưởng dân chủ tư sản: Phan Bội Châu (đại diện cho xu hướng bạo động,
dựa vào Nhật để đánh Pháp, “đuổi hổ cửa trước rước beo cửa sau), Phan Châu
Trinh (đại diện cho xu hướng cải lương, đàm phán, thỏa hiệp với Pháp để đòi độc
lập, chẳng khác nào “xin giặc rủ lòng thương”)

Kết quả: tất cả đều thất bại.
 Bối cảnh quốc tế
Cuối thế kỷ XIX, CNTB chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Để làm
giàu cho chính quốc của mình, chúng đã đẩy nhanh quá trình xâm lược, áp bức, bóc
K16QNH2-Khoa QTKD-DTU
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD: Nguyễn Hồng Thúy
7
lột thuộc địa rất dã man, làm cho hàng trăm quốc gia dân tộc trên thế giới lúc đó trở
thành nạn nhân đau khổ của chúng.
Cách mạng tháng Mười Nga nổ ra và giành thắng lợi có tác động, ảnh hưởng
sâu sắc đến phong trào cách mạng thế giới nói chung và phong trào giải phóng dân
tộc ở các thuộc địa nói riêng, trong đó, có cách mạng Việt Nam, mở ra thời đại
mới: “thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”.
Tháng 3.1919, theo sáng kiến của Lênin, Quốc tế III được thành lập. Điều đó có
nghĩa rằng kể từ đây, phong trào cách mạng thế giới nói chung, phong trào giải
phóng dân tộc ở thuộc địa nói riêng đã có một bộ tham mưu cách mạng chân chính,
một tổ chức lãnh đạo – đó là Quốc tế III. Kể từ đây, phong trào công nhân ở các
nước tư bản chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa
phương Tây có mối quan hệ mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù
chung là chủ nghĩa đế quốc.
2.1.2. Những hoạt động nổi trội của Hồ Chí Minh từ 1911 – 1920
(Giai đoạn tìm tòi khảo nghiệm, tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.)
- Ngày 5/6/1911, Người ra đi tìm đường cứu nước.
- Từ 1911 đến 1917: Người bôn ba qua nhiều nước trên thế giới. Qua đó, rút ra kết
luận: ở đâu bọn đế quốc thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu người lao động cũng
bị bóc lột nặng nề.
- Từ cuối năm 1917, dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga, Nguyễn Ái
Quốc về Pháp, gia nhập Đảng Xã hội Pháp, hoạt động trong phong trào yêu nước
của Việt kiều và phong trào công nhân Pháp.
 Những nhận thức và hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tuy mới bước đầu nhưng

đã là điều kiện cần thiết để Người đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin và con đường
cách mạng đúng đắn ở giai đoạn sau.
K16QNH2-Khoa QTKD-DTU
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD: Nguyễn Hồng Thúy
8
- Năm 1919, Người gửi tới Hội nghị Vec-xai Bản yêu sách của nhân dân An
Nam để tố cáo đế quốc. Đòi chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do dân chủ,
bình đẳng và quyền tự quyết cho dân tộc Việt Nam. Sự kiện này đã gây tiếng vang
lớn đối với nhân dân Pháp và các nước thuộc địa.
- Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Luận cương khẳng định: muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Từ đó Người quyết đi
theo Lênin.
- Tháng 12-1920, tại Đại hội của Đảng Xã hội Pháp, Người đã bỏ phiếu tán thành
Quốc tế thứ ba, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên và là một trong những
người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
 Như vậy đến năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định sự nghiệp giải phóng
dân tộc Việt Nam phải theo con đường cách mạng vô sản. Đó là con đường cứu
nước đúng đắn, con đường kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết hợp
tinh thần yêu nước với tinh thần quốc tế vô sản.
2.2. Bước tiếp cận với chủ nghĩa Mác – Lê nin.
Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và
chế độ thuộc địa và mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ càng gay gắt trở thành
trở ngại lớn, kìm hãm sự phát triển của xã hội Việt Nam. Chỉ có giải quyết
những mâu thuẫn trên thì mới tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, và xã hội
Việt Nam mới tiếp tục phát triển.
Các nhà yêu nước đương thời đã dự lập nhiều con đường, cách thức hành
động khác nhau để cứu nước và giải phóng dân tộc như: cụ Phan Chu Trinh
sang nước Pháp nhờ cậy vào Hội nhân quyền của Pháp. Cụ Phan Bội Châu sang
Nhật Bản mưu cầu vào lòng “hằng tâm hằng sản” của nhiều người trợ giúp

nhưng đều thất bại. Từ đó đòi hỏi phải tìm được con đường giải phóng dân tộc
đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại để mở đường cho dân tộc
Việt Nam phát triển đi lên.Nguyễn Tất Thành đã nhận thấy những hạn chế và bế
K16QNH2-Khoa QTKD-DTU
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD: Nguyễn Hồng Thúy
9
tắc về mục tiêu và phương pháp cách mạng của các nhà yêu nước đương thời
nên khó đi đến thành công. Người quyết định đi tìm con đường cứu nước mới:
thông qua con đường “Vô sản hóa”.
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, trên con tàu Amiran Latusơ Tơrêvin từ bến cảng
Nhà Rồng, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (bí danh Văn Ba) rời
Tổ quốc bắt đầu cuộc hành trình lịch sử đi tìm đường cứu nước
Người đã chọn hướng con đường cứu nước của mình sang phương Tây với
bến đỗ đầu tiên trong hành trình là nước Pháp. Đây không phải là hành động
ngẫu nhiên, tự phát của Người, mà là sự lựa chọn, trăn trở; một quyết tâm lớn,
nhằm đáp ứng đòi hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam. Trong thời gian
học ở trường Quốc Học Huế, người đã nhận thức về bối cảnh đất nước, về văn
minh phương Tây, văn hóa Pháp, từ đó đã thôi thúc Người muốn tìm hiểu về
nước Pháp để xem đằng sau những từ “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” là gì?. Hơn
nữa, chính chủ nghĩa thực dân Pháp đang thống trị Việt Nam, cho nên Người
quyết chí đến Pháp để trực tiếp xem xét, nghiên cứu về con đường giải phóng
đất nước.
Trong khoảng 10 năm (1911 - 1917), Người đã đi qua hàng chục quốc gia, từ
các nước tư bản phát triển đến các nước thuộc địa ở châu Phi, châu Mỹ La-tinh.
Người vừa phải tìm việc làm để kiếm sống, vừa tự học tập, tìm hiểu tình hình
chính trị - xã hội của nước sở tại và các nước tư bản chủ nghĩa khác và tham gia
hoạt động yêu nước ở nước ngoài. Đến đâu Người cũng quan sát kỹ lưỡng, so
sánh, nhận xét, đi sâu tìm hiểu cuộc sống của các tầng lớp nhân dân, nhất là
nhân dân lao động, để tìm hiểu sâu về nền văn hóa của các nước tư bản phát
triển thờì đó. Người hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và rút ra

những nhận xét rất sâu sắc: Ở đâu, chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác vô nhân đạo, ở
đâu, giai cấp công nhân và nhân dân lao động cũng bị bóc lột dã man. Vì thế,
chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù, giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở
đâu cũng là bạn. Từ kết luận này đã đặt cơ sở cho phát triển quan điểm đúng
đắn của Người về bạn, thù và sớm hình thành tư tưởng kết hợp chủ nghĩa yêu
nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, về sự đoàn kết cách mạng ở chính quốc với
cách mạng thuộc địa.
K16QNH2-Khoa QTKD-DTU
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD: Nguyễn Hồng Thúy
10
CM tháng 10 Nga bùng nổ và thắng lợi (11/1917) từ Luân Đôn người trở về
Pari để tiếp tục hoạt động, tại đây người đã tham gia Đảng xã hội Pháp. Tích
cực hoạt động trong phong trào công nhân Pháp.
Chiến tranh thế giới I kết thúc các nước thắng trận họp hội nghị hoà bình
Vecsai (1/1919) để phân chia quyền lợi sau chiến tranh. Tháng 6 năm 1919,
Người đã chớp lấy cơ hội đó để cùng với một số nhà yêu nước khác tại Pháp,
gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 tám điểm, tố cáo
chính sách của thực dân Pháp và đòi chính phủ Pháp phải thực hiện các quyền
tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách đã vạch
trần tội ác của thự dân Pháp. Làm cho nhân dân thế giới và nhân dân Pháp phải
chú ý tới tình hình Việt Nam và Đông Dương. Sự kiện trên đã gây tiếng vang
lớn trong thế giới thuộc địa. Bản Yêu sách phản ánh nguyện vọng chính đáng
của nhân dân Việt Nam nhưng không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc càng
nhận rõ bản chất của chủ nghĩa đế quốc và đã rút ra bài học vô cùng giá trị là:
Sự nghiệp giải phóng dân tộc mình chủ yếu phải do dân tộc mình quyết định,
phải trông cậy vào lực lượng của chính mình, chứ không phải dựa chủ yếu vào
bên ngoài… Qua sự kiện đó càng khẳng định sự nhạy cảm về chính trị, tính chủ
động, khôn khéo, sắc bén trong đấu tranh cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã vượt lên trên tầm nhìn của các nhà chí sĩ yêu nước đương thời; đồng thời,
đánh dấu sự tiếp cận gần hơn chủ nghĩa Mác - Lênin của Người.

Trong bóng tối dày đặc của chủ nghĩa thực dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
gặp được ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tháng 7 nǎm 1920 qua báo
Nhân đạo (L’Humanité) Pháp, Người được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất
những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin. Luận cương
của V.I.Lênin đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc con đường giành độc lập cho
đân tộc và tự do cho đồng bào, đáp ứng những tình cảm, suy nghĩ, hoài bão
được ấp ủ bấy lâu ở Người.”Luận cương về những vấn đề thuộc địa đến với
Người như một ánh sáng kỳ diệu nâng cao về chất tất cả những hiểu biết và tình
cảm cách mạng mà Người luôn nung nấu”
Tháng 12/1920, Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản (Quốc
tế III) và thành lập Đảng Cộng sản Pháp, tại Đại hội của Đảng Xã hội Pháp lần
thứ XVIII tổ chức ở thành phố Tua (Tours). Người đã trở thành một trong
K16QNH2-Khoa QTKD-DTU
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD: Nguyễn Hồng Thúy
11
những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và cũng trở thành người cộng sản
Việt Nam đầu tiên. Đó là một sự kiện chính trị vô cùng quan trọng trong cuộc
đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và trong lịch sử cách mạng
Việt Nam. đánh dấu một bước chuyển biến quyết định, bước nhảy vọt, thay đổi
về chất trong nhận thức tư tưởng và lập trường chính trị từ chủ nghĩa yêu nước
đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự lựa chọn và hành động của Chủ tịch Hồ Chí
Minh khi đó hoàn toàn phù hợp với trào lưu tiến hóa của lịch sử, chuyển từ chủ
nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng sản, đã kéo theo cả một lớp người Việt
Nam yêu nước chân chính đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đó, chủ nghĩa
Mác - Lênin bắt đầu thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam, cách mạng Việt Nam từ đây đã có một phương hướng mới.
Người đã rút ra một luận điểm hết sức khoa học và cách mạng triệt để: “Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản”.
Việc xác định con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc là công lao to lớn

đầu tiên của Hồ Chí Minh, Người “đã gắn phong trào cách mạng Việt Nam với
phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân ta đi theo con đường từ chủ nghĩa
yêu nước đến chủ nghĩa Mác-Lê nin.
3. Sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và cách mạng
giải phóng dân tộc (1920-1930)
3.1Những hoạt động cơ bản của Hồ Chí Minh giai đoạn (1920-1930)
Để giải phóng dân tộc mình khỏi ách đô hộ, Hồ Chí Minh đã trải qua biết bao
nhiêu năm tháng, bôn ba khắp năm châu với hy vọng tìm ra con đường đúng đắn để
giúp đất nước mình được tự do, ấm no, hạnh phúc. Những giai đoạn lịch sử luôn
gắn liền với các hoạt động chính trị của Người và giai đoạn từ năm 1920 đến năm
1930 cũng không là một ngoại lệ.
Tháng 7-1920 Nguyễn Ái Quốc đọc bản sơ thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê-nin. Người vô cùng phấn khởi và tin
K16QNH2-Khoa QTKD-DTU
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD: Nguyễn Hồng Thúy
12
tường vì đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam, đó là phải làm cách
mạng vô sản.
Tại đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp họp tại Tous ngày 25-12-1920,
Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập quốc tế thứ ba và tham gia sáng
lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặc trong tư tưởng chính trị
của Nguyễn Ái Quốc: Từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến với chủ nghĩa cộng
sản, từ một thanh niên yêu nước trở thành người chiến sĩ cộng sản đầu tiên của dân
tộc.
Tại Pháp, năm 1921 Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà yêu nước Angeri,
Maroc,…thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa nhằm tập hợp những người dân thuộc
địa trên đất Pháp; xuất bản báo “Người cùng khổ” (Le Paria). Người viết nhiều bài
cho báo Nhân Đạo, Đời Sống Công Nhân,… Đặc biệt là tác phẩm “Bản án chế độ
thực dân Pháp” (1925) và nó đã gây được tiếng vang rất lớn trên trường quốc tế.
Những sách báo trên góp phần tội ác của thực dân Pháp ở các nước thuộc địa và

truyền bá tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật từ Paris sang Liên Xô để dự hội nghị
Quốc Tế Nông Dân lần thứ I (10-1923) và đại hội V Quốc Tế Cộng Sản (7-1924).
Trong thời gian hoạt động ở Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực học tập và
nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin để phát triển và hoàn thiện thêm tư tưởng về
cách mạng giải phóng dân tộc. Đây là bước chuẩn bị quan trọng về chính trị, tư
tưởng cho sự ra đời của Đảng cộng Sản sau Việt Nam sau này.
Tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô đến Quảng Châu (Trung Quốc)
tập hợp những người Việt Nam yêu nước đang hoạt động tại đây, giáo dục, truyền
bá cho họ chủ nghĩa Mác-Lênin. Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn, giác ngộ một số
thanh niên tích cực trong tâm xã và lập ra Cộng Sản Đoàn vào tháng 2-1925. Đến
tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc lập ra Hội Việt Nam Cách Mạng thanh niên, xuất
bản báo thanh niên làm cơ sở ngôn luận cho hội.
Về Mục tiêu của cách mạng: cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới
phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải
K16QNH2-Khoa QTKD-DTU
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD: Nguyễn Hồng Thúy
13
phóng nhân dân lao động, giải phóng giai cấp công nhân, phải kết hợp độc lập dân
tộc với chủ nghĩa xã hội.
Như chúng ta đã biết, Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước với một xuất phát
điểm duy nhất là lòng yêu nước thương nòi. Người muốn ra nước ngoài, “xem
nước Pháp và các nước khác làm thế nào rồi sẽ về giúp đồng bào mình”. Năm
1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp vì đó là tổ chức duy nhất bênh vực quyền
lợi của các thuộc địa mà chưa hề có nhận thức rõ ràng về Chủ nghĩa Mác – Lênin,
về Chủ nghĩa xã hội. Đúng như sau này, Người đã thổ lộ: “Lúc bấy giờ, tôi ủng hộ
Cách mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên. Tôi chưa hiểu hết tầm quan
trọng lịch sử của nó. Tôi kính yêu Lênin vì Lênin là một người yêu nước vĩ đại đã
giải phóng đồng bào mình; trước đó, tôi chưa hề đọc một quyển sách nào của Lênin
viết. Tôi tham gia Đảng Xã hội Pháp chẳng qua là vì các "ông bà" ấy- (hồi đó tôi

gọi các đồng chí của tôi như thế) - đã tỏ đồng tình với tôi, với cuộc đấu tranh của
các dân tộc bị áp bức. Còn như Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa hiểu.” (Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin -
Bài viết cho tạp chí Các vấn đề phương Đông (Liên Xô) nhân dịp kỷ niệm lần thứ
90 ngày sinh của V.I.Lênin, năm 1960).
Tháng 7-1925, Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà cách mạng Trung Quốc, Triều
Tiên, Inđônêxia,…, lập ra Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông.
Tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã mở nhiều lớp huấn luyện, sau đó được tập
hợp và xuất hiện để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cách mạng. Phần lớn học viên là
thanh niên, học sinh, trí thức Việt Nam yêu nước. Họ học làm cách mạng, học cách
hoạt động bí mật. Sau khi học xong được đưa trở về nước để truyền bá lí luận cách
mạng trong các tầng lớp nhân dân; một số cán bộ ưu tú được giới thiệu vào học tại
Quân Chính Hoàng Phố (Trung Quốc) hoặc trường đại học phương Đông (Liên
Xô).
Những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện, sau đó được tập
hợp và xuất bản thành sách “Đường Kách Mệnh” vào đầu năm 1927. Báo thanh
niên và tác phẩm “Đường Kách Mệnh” đã trang bị lí luận cách mạng giải phóng
K16QNH2-Khoa QTKD-DTU
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD: Nguyễn Hồng Thúy
14
dân tộc cho cán bộ của hội Việt Nam cách mạng thanh niên và tuyên truyền đến
giai cấp công nhân, các tầng lớp nhân dân Việt Nam.
Cuối năm 1928, hội thực hiện chủ trương “Vô sản hóa” nhờ đó chủ nghĩa Mác
Lê-nin được truyền bá sâu rộng; nâng cao ý thức chính trị của giai cấp công nhân,
thúc đẩy phong trào công nhân phát triển.
Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (dưới sự lãnh
đạo của Nguyễn Ái Quốc) là bước chuẩn bị về cách tổ chức, chính trị cho sự ra đời
của Đảng ta sau này.
Cuối 1929, với sự xuất hiện và hoạt động tích cực của ba tổ chức cộng sản,
phong trào công nhân và phong trào yêu nước diễn ra hết sức sôi nổi. Tuy nhiên, sự

hoạt động riêng lẻ của ba tổ chức đã ảnh hưởng đến phong trào cách mạng Việt
Nam, có nguy cơ dẫn đến sự chia rẻ lớn, thêm vào đó thực dân Pháp thực hiện
chiến dịch đàn áp nhằm giữ vững nền thống trị của chúng trong thời kì khủng
hoảng kinh tế 1929-1933.
Yêu cầu cấp thiết lúc đó là phải thống nhất các tồ chức cộng sản thành một khối
để chống lại âm mưu chia rẻ, phá hoại của kẻ thù, đoàn kết với các lực lượng cách
mạng. Trước tình hình đó, vào cuối năm 1929 Nguyễn Ái Quốc đã từ Xiêm (Thái
Lan) về Hương Cảng (Trung Quốc) với cương vị đặc phái viên Quốc Tế cộng sản
triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập một Đảng Cộng Sản duy
nhất ở Việt Nam.
Hội nghị bàn việc hợp nhất thành lập Đảng Cộng Sản ở Việt Nam bắt đầu từ
ngày 6-1-1930 tại Cửu long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của
Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc đã phân tích tình hình, phê phán những nhận
thức lệch lạc, những quan điểm sai lầm của các tổ chức cộng sản riêng lẻ và chỉ ra
yêu cầu phải hợp nhất. Giai đoạn này tư tưởng về cách mạng Việt Nam đã được
hình thành một cách cơ bản.
Hội nghị đã thảo luận và nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành một
Đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng Sản Việt Nam, thông qua chính cương vắn tắt,
K16QNH2-Khoa QTKD-DTU
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD: Nguyễn Hồng Thúy
15
điều lệ vắn tắt, chương trình tóm tắt của Đảng - các văn kiện do Nguyễn Ái Quốc
soạn thảo. Đó là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta.
Những văn kiện đó thể hiện sự đóng gớp to lớn của Nguyễn Ái Quốc đối với
việc thành lập Đảng, tiếp sau xác định con đường cứu nước đúng đắn, truyền bá
chủ nghĩa Mac_Lenin vào Việt Nam.
 Tác dụng của những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc: Đó được xem là
bước trực tiếp chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời chính Đảng
vô sản ở Việt Nam.
 Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam từ nam 1920-

1930:
• Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác Lê-nin, tìm
thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc.
• Chuẩn bị về tư tưởng chính trị (1920-1924) và tổ chức (1925-1927) cho việc thành
lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam (1930).
Trên đây là tóm tắt về những hoạt động của Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1920-
1930 nhằm tìm ra con đường đúng đắn để giúp giải phóng dân tộc Việt Nam. Có
thể nói việc hợp nhất ba Đảng thành một chính Đảng duy nhất là Đảng Cộng sản
Việt Nam vào đầu năm 1930 do Hồ Chí Minh lãnh đạo là một cột mốc đáng nhớ, là
bước ngoặc quan trọng và có ý nghĩa rất lớn trong lịch sử dân tộc ta. Đây cũng là
lúc chúng ta xác định được kẻ thù của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa thực dân
(đối tượng cách mạng), là những kẻ bóc lột công nhân lao động và phương pháp
tiến hành cách mạng đúng đắn.
Nhận thấy rằng, cách mạng vô sản là cách mạng giải phóng giai cấp. Đây là
cuộc cách mạng duy nhất đem lại tự do cho dân tộc mình. Vì vậy mà chúng ta nói
rằng vấn đề dân tộc gắn liền với vấn đề giai cấp.
Không chỉ có vậy, từ năm 1930 chúng ta đã xác định được lực lượng cách mạng
là toàn dân, nòng cốt là liên minh giai cấp công nhân và nông dân; lực lượng lãnh
K16QNH2-Khoa QTKD-DTU
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD: Nguyễn Hồng Thúy
16
đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam; phương pháp tiến hành cách mạng là bạo lực cách
mạng của toàn dân trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có khởi nghĩa vũ trang và đấu
tranh chính trị. Vì với chủ nghĩa đế quốc thì chúng ta phải đổ xương máu là điều
chắc chắn. Theo đó ta lập nên mục tiêu mang tính chiến lược là không sợ bị hy
sinh, mất mát.
3.Tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và cách mạng giải
phóng dân tộc.
3.1.1. Vấn đề độc lập dân tộc
“Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn

toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành”
Là một công dân của một nước nô lệ đi tìm đường cứu nước, nhiều lần chứng kiến
tội ác dã man của bọn đế quốc với đồng bào mình và các dân tộc thuộc địa trên thế
giới, người luôn có một “ham muốn”, “ham muốn” đến cùng là nước ta được hoàn
toàn độc lập. Ý chí ấy được nung nấu trong suốt quá trình tìm đường cứu nước cho
đồng bào, cho dân tộc và ý chí, tư tưởng ấy càng bùng lên mạnh mẽ trong giai đoạn
từ 1920-1930. Đó là ý chí ra đi với ước muốn : “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi
được nghe ba chữ Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái Tôi rất muốn làm quen với nền
văn minh Pháp, muốn tìm xem làm thế nào để nhân dân tôi cũng có Tự do, Bình
đẳng, Bác ái” Và là giai đoạn bùng lên mạnh mẽ nhất ý chí đó, khi mà người đọc
được sơ khảo những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê nin đăng
trên báo L’Huamnite vào tháng 7 -1920, tất cả những vấn đề mà Người đã từng
trăn trở, tìm kiếm bao lâu nay đã được giải đáp: “Luận cương của Lênin làm cho tôi
rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc
lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng
đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta,
đây là con đường giải phóng chúng ta” … Tư tưởng ấy Người đã vận dụng cho
dân tộc ta được thể hiện một cách rõ ràng như sau:
K16QNH2-Khoa QTKD-DTU
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD: Nguyễn Hồng Thúy
17
 Độc lập dân tộc là khát vọng lớn nhất của dân tộc ta. Độc lập hoàn toàn và
thật sự trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao. Trong nền
độc lập, mọi người đều được sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
 Độc lập dân tộc phải gắn với hòa bình thật sự “ Nhân dân chúng tôi thành
thật mong muốn hòa bình… kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những
quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất
nước.
 Và tinh thần độc lập tự do ấy được thể hiện trong tất cả các tác phẩm mà

người đã viêt như Đường cách mệnh(1927), Cương lĩnh đầu tiên của Đảng
(1930). Người đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng là: Đánh đổ Đế quốc
Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập.
 Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư
tưởng Hồ Chí Minh, là tổng hợp những quan điểm chiến lược có ý nghĩa chỉ
đạo lớn về chính trị và lý luận, về nhận thức và hành động.Và tư tưởng đó đã
được thực tiễn thắng lợi của cách mạng tháng 8 đã chứng minh cho ý chí và
ham muốn trong tư tưởng của Người là hoàn toàn đúng đắn và có thể thực
hiện được.
3.1.2. Cách mạng giải phóng dân tộc
Giai đoạn 1920-1930 là giai đoạn quan trọng bậc nhất và có tính bước ngoặt trong
quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh với sự hình thành tư tưởng
về cách mạng giải phóng dân tộc . Trong đó, Hồ Chí Minh đã xác định rõ mục tiêu,
bản chất của cách mạng giải dân tộc, từ đó có cái nhìn đúng đắn về phương pháp
đấu tranh và phương pháp tập hợp lực lượng.
 Đi theo con đường cách mạng vô sản:
Rút ra được bài học thất bại của con đường cứu nước trước đó: Sinh ra và lớn lên
trong sự phát triển mạnh mẽ của các phong trào cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã
sớm hình thành một long yêu nước và ý chí cứu nước sâu sắc. Nhưng hầu hết các
phong trào đều thất bại, người nhận thấy rằng con đường của cụ Phan Bội Châu
chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, con đường của cụ Phan Châu
Trinh chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng thương”, con đường của Hoàng Hoa Thám
có phần thực tế hơn nhưng vẫn mang nặng cốt cách phong kiến. Vì vậy, mặc dù
K16QNH2-Khoa QTKD-DTU
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD: Nguyễn Hồng Thúy
18
luôn khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Người không tán thành con
đường đi đó và quyết tâm đi tìm con đường cứu nước mới.
Cách mạng tư sản là không triệt để: Trong suốt giai đoạn ở nước ngoài, người đã
được tận mắt tìm hiểu được các cuộc cách mạng trên thế giới như Cách mạng Mỹ,

cách mạng Pháp tuy đã giành thắng lợi hơn 150 năm nay, nhưng mà nhân dân lao
động vẫn khổ , họ đang muốn làm cách mạng một lần nữa. Việc đó đã giúp người
nhận thức được rằng, cách mạng tư sản chỉ thay thế chế độ bóc lột này thành chế độ
bóc lột khác tinh vi hơn chứ không xóa bỏ được áp bức, bóc lột. Vì vậy, người cho
rằng cách mạng này là không đến nơi,không triệt để, cứu nước theo ngọn cờ tư sản
không phải là lối thoát cho dân tộc ta.
Và ý chí phải tìm được con đường cứu nước vỡ òa trong vui mừng và sung sướng
khi người bắt gặp sơ khảo những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê
nin đăng trên báo L’Huamnite (7 -1920). Người đã tìm được một con đường cứu
nước mới- con đường cách mạng vô sản.
 Cách mạng giải phóng dân tộc phải do Đảng cộng sản lãnh đạo
Theo chủ nghĩa Mác – Lê nin và thực tế cách mạng vô sản ở các nước đã chứng
minh, muốn cách mạng diễn ra nhanh chóng và giành thắng lợi hoàn toàn thì cuộc
cách mạnh đó phải có một đường lối đúng đắn và sang tạo. Và người đưa ra đường
lối và chỉ đạo nhân dân tiến hành cách mạng một cách linh hoạt là một nhân tố vô
cùng quan trọng, và đó chính là Đảng làm nòng cốt, đảng lãnh đạo cách mạng. Do
đó, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Đảng có vững, cách mệnh mới thành công
cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy…”( Đường cách mệnh/1925).
Áp dụng vào cách mạng Việt Nam,đầu năm 1930, Người thành lập ĐCS Việt Nam-
một chính đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. Đảng của nhân dân
lao động, gắn bó với nhân dân, với dân tộc, một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc và
được nhân dân thừa nhận và đi theo sự lãnh đạo của Đảng. Và thực tế đã chừng
minh từ khi đảng ra đời đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
 Lực lượng giải phóng dân tộc bao gồm cả dân tộc
Cách mạng giải phóng dân tộc như Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định đó là “việc
chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai người”, vì vậy phải
đoàn kết toàn dân
“Dễ vạn lần tram dân cũng chịu
K16QNH2-Khoa QTKD-DTU

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD: Nguyễn Hồng Thúy
19
Khó vạn lần dân liệu cũng xong”
Bên cạnh đó, Người cúng nhấn mạnh sự đoàn kết toàn dân phải dựa trên đoàn kết
là lien minh công nông. Bởi theo người “Công nông là chủ cách mệnh… Công
nông là gốc cách mệnh….”. Trên cơ sở đó, Người chủ trương vận động tập hợp
rộng rãi các tầng lớp nhân dân trong một mặt trận dân tộc thống nhất nhằm huy
động sức mạnh toàn dân tộc, đấu tranh giành độc lập tự do.
 Cách mạng giải phóng dân tộc được tiến hành sáng tạo và có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Quan điểm quốc tế cộng sản cho rằng “chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc
giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành thắng lợi ở các nước tiên tiến”.
Nhưng theo Hồ Chí Minh, mâu thuẫn ở các nước chính quốc không gay gắt bằng
mâu thuẫn ở các nước thuộc địa. Mặt khác mỗi nước thuộc địa lại có một đặc điểm
khác nhau, do đó đi theo con đường như vậy là kìm hãm sự phát triển của dân tộc.
Do đánh giá đúng sức mạnh củ chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc của đất
nước mình, Nguyễn Ái Quốc dự báo: “Cách mạng ở thuộc địakhông cẩn thụ động
chờ đợi mà có thể nổ ra và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc”.
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn và được lịch sử
cách mạng Việt Nam chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
 Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con
đường cách mạng bạo lực
Đánh giá đúng bản chất của chủ nghĩa đế quốc, HCM khẳng định: “Trong cuộc
đấu tranh gian khổ chống kẻ thủ của giai cấp và của dân tộc cần dung bạo lực
cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành chính quyền và bảo vệ chính
quyền”. Và trong cách mạng tháng 8, bạo lực thể hiện bằng khởi nghĩa vũ trang
với lực lượng chính trị là chủ yếu. Đó là công cụ để đập tan chính quyền bọn phát
xít Nhật và tay sai giành chính quyền về tay nhân dân. Do đó, bạo lực cách mạng là
con đường không thể tránh khỏi khi mà ta đã dung mọi khả năng hòa bình để giải
quyết nhưng không thành công.

3.1.3. Mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô
sản ở chính quốc
Trước năm 1917, trong phong trào công nhân và phong trào cộng sản quốc tế luôn
có quan điểm “Thắng lợi của cách mạng các nước thuộc địa phụ thuộc trực tiếp
K16QNH2-Khoa QTKD-DTU
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD: Nguyễn Hồng Thúy
20
vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc”. Nhưng sau đó, thắng lợi của
cách mạng tháng 10 Nga thành công đã góp phần thay đổi một phần nào luận điểm
đó. Thắng lợi đó đã giúp cho HCM nhận định rằng: Cách mạng giải phóng dân tộc
ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối liên hệ mật thiệt với nhau,
tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ ngĩa đế
quốc. Đó là mối liên hệ bình đẳng chứ không phải là mối liên hệ lệ thuộc hay quan
hệ chính phụ. Năm 1925, HCM viết: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một vòi
bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở
thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt
cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút
máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc
ra” . Như vậy, theo nghĩa bóng thì hai vòi đó đều có ý nghĩa ngang nhau,không cái
nào phụ thuộc vào cái nào, không có cái trước cái sau, và ý của Người thật rõ ràng
và đúng đắn. Người đi đến kết luận: “công cuộc giải phóng anh, em (nhân dân
thuộc địa) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”, nhân
dân thuộc địa có một năng lực cách mạng to lớn. Người đã phát biểu ý kiến ở Đại
hội V quốc tế cộng sản (1924), Người đã khẳng định vai trò của cách mạng ở các
nước thuộc địa, và nó gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các nước
thuộc địa, đế quốc tư bản là một con rắn độc, nếu chỉ chú ý đến đánh chủ nghĩa tư
bản ở các nước đế quốc tức là “muốn đánh chết rắn bằng đuôi”. Và Người khẳng
định: “Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô
sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước và tác động trở lại nền cách
mạng ở chính quốc”.

Thực tiễn cách mạng tháng 8 đã chứng minh nhận định của Hồ Chí Minh đã vô
cùng đúng đắn, mang đầy tính sáng tạo và khoa học. Và với luận điểm này, HCM
đã chủ động lãnh đạo nhân dân trong việc giải phóng dân tộc, đồng thời cũng mở ra
con đường mới cho các nước ở Châu Á, Châu Phi và Mĩ La Tinh.
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
có những luận điểm sang tạo, đặc sắc, có giá trị lý luận và thực tiễn lớn.
K16QNH2-Khoa QTKD-DTU
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD: Nguyễn Hồng Thúy
21
Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, xác định con đường cứu nước theo khuynh
hướng chính trị vô sản, nhưng con đường giải phóng dân tộc là do Hồ Chí Minh
hoạch định, chứ không phải đã tồn tại từ trước.
Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh phải trải qua những
thử thách hết sức gay gắt. Song, thực tiễn đã chứng minh lý luận đó là đúng đắn.
Nó là một đóng góp lớn vào kho tàng lý luận cách mạng của thời đại, làm phong
phú thêm chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng thuộc địa.
Những tư tưởng mới mẻ của Hồ Chí Minh đã thâm nhập vào phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, góp phần quyết định trong việc xác
lập con đường cứu nước mới, làm cho phong trào yêu nước Việt Nam chuyển dần
sang quỹ đạo cách mạng vô sản.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và 30 năm chiến tranh cách mạng việt
Nam (1945-1975) đã chứng minh tinh thần độc lập, tự chủ, tính khoa học, tính cách
mạng và sang tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc ở
Việt Nam, soi đường cho dân tộc Việt Nam tiến lên, cùng nhân loại biến thế kỷ XX
thành thế kỷ giải trừ chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, chúng ta phải biết khơi dậy sức mạnh của
chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực mạnh mẽ để bảo vệ đất
nước; nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trương giai cấp công nhân;

chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giải quyết tốt mối quan hệ giữa các
dân tộc anh em và trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
K16QNH2-Khoa QTKD-DTU
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD: Nguyễn Hồng Thúy
22
1. Bộ giáo dục đào tạo,Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb chính trị quốc
gia, 2011
2. Phan Ngọc Liên, Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh với thời đại, NXB Lao
động, 2005
3. Gs.Trần Châm, Hồ Chí Minh nhà tư tưởng thiên tài, NXB chính trị quốc
gia,2005
4. />5. />ky-1920-1930
6. />thuoc-dia-va-cach-mang-vo-san-chinh-quoc
7. />ho-chi-minh
8. />ho-chi-minh
9.
10. />K16QNH2-Khoa QTKD-DTU
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GVHD: Nguyễn Hồng Thúy
23

×