Tải bản đầy đủ (.pptx) (14 trang)

Tác phẩm Thuật hứng Nguyễn Trãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.48 KB, 14 trang )

THUẬT
HỨNG BÀI
24
_NGUYỄN TRÃI_


Thuật hứng
bài 24

Nguy
ễn
trãi

Công danh đã được hợp về nhàn,
Lành dữ âu chi thế ngợi khen.
Ao cạn vớt bèo cấy muống,
Trì thanh phát cỏ ương sen.
 
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,
Thuyền chở n hà nặng vạy then.
Bui có một lịng trung liễn hiếu,
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen. 


Nội dung chính

01

03

Tác giả



Phân tích thơ

02

04

Tác phẩm

Tổng
kết


01
Tác giả


Tiểu
sử

- Nguyễn Trãi (1380 – 1442), hiệu Ức Trai, quê ở Hải Dương
- Ông là con trai của Nguyễn Phi Khanh , cháu ngoại của Trần
Nguyên Đán
- Thừa hưởng truyền thống yêu nước , yêu văn hóa văn học

Sự nghiệp sáng
- tác
Có nhiều tác phẩm tiêu biểu như : Bình ngô đại cáo , Quân

trung từ mệnh tập , Quốc âm thi tập , Dư địa chí ….

- Nội dung thơ văn : tư tưởng nhân nghĩa , tình yêu thiên nhhiên
và những ưu tư về thế sự


02
Tác phẩm


Hoàn cảnh sáng Sau khi trải qua bao biến cố của cuộc đời ông đã quyết định từ
bỏ chốn quan trường mà lui về ở ẩn. Và khi ở ẩn ở núi Cơn
tác
Sơn, Chí Linh
Thể
thơ

Thất ngơn xen lục
ngơn

Bố cục : 4 phần

- Phần 1 (2 câu đầu): Bỏ lại công danh trở
về với cuộc sống thanh nhàn
- Phần 2 ( 2 câu tiếp): Những thú vui chốn
quê nhà
- Phần3 ( câu 5,6): mở rộng làm rõ thêm
vẻ đẹp tâm hồn của Ức Trai
- Phần 4 (2 câu cuối): là lời tự bạch tác
giả bộc lộ qua tấm lịng mình

Ý nghĩa nhan đề Thuật hứng là bày tỏ sự hứng thú của riêng mình



03
Phân tích
thơ


a) Bỏ lại công danh trở về với cuộc sống
“Công danh đã được hợp về nhàn
thanh nhàn
Lành dữ âu chi thế nghị khen”​

- Cơng danh là cái đích cũng là niềm mơ ước mà bao nhiêu nhà Nho xưa hướng đến, tu
luyện phẩm chất, chăm chỉ học hành để cống hiến tài năng và sức lực cho đất nước, nhân
dân, và cũng là để nhận được sự đánh giá và công nhận của bề trên.Thời nào cũng vậy, việc
nam nhi tử hán đặt công danh lên làm gánh nặng là lẽ thường tình, kẻ khơng có cơng danh
- Nguyễn Trãi đã thể hiện được sự nhẹ nhõm, thanh nhàn khi trút bỏ được gánh nặng của
công danh. Bỏ qua tất cả cái ồn ào, đầy ghen tị của lũ tiểu nhân trong chốn quan trường,
Nguyễn Trãi tìm về một cuộc sống thanh nhàn, n bình trong chính cái tâm của mình, rút
khỏi những cuộc đấu đá quyền lực, tranh giành vinh hoa hèn mọn, đáng khinh bỉ bằng những
hành động ghê tởm “Lành dữ âu chi thế nghị khen”.
- Bao giờ cũng vậy, làm chức quan trong triều đình cũng gặp rất nhiều cám dỗ, nếu xuôi
theo bọn nịnh thần thì
sẽ có vinh hoa phú q, nhưng lại vơ tình đánh mất đi chính mình. Cịn nếu sống đúng với
chính mình, trong sạch, liêm khiết như áo trắng chẳng vết nhơ thì lại được cho rằng chống
đối với cả một tập đồn gian thần phía sau vỏ bọc tưởng chừng đẹp đẽ, thánh thần của áo
quan. Chúng luôn sống trong sự tung hô của những kẻ hầu mọn thân cận, cậy quyền cậy thế
làm càn, nhấn cuộc sống nhân dân xuống bùn lầy nhơ nhớn, ngông cuồng tạo nên những nỗi
đau bất hạnh cho chúng sinh. Nguyễn Trãi là một vị quan liêm chính, có lối sống trong sạch



b) Những thú vui chốn quê nhà
“Ao cạn vớt bèo cấy muống
Đìa thanh phát cỏ ương sen”

​- Mỗi câu thơ chỉ có 6 từ . Cấu trúc câu thơ cân xứng cho thấy phép đối được vận dụng
thần tình. “Ao cạn” với “đìa thanh”, “vớt bèo cấy muống” với “phát cỏ ương sen” đối nhau
chặt chẽ làm hiện len một cuộc đời cần mẫn, thanh bạch đáng tự hào. Cuộc sống chẳng
có sơn hào hải vị, chỉ có “muống”, có “sen” rất bình dị mà thanh cao
- Biện pháp tu từ: Liệt kê “ao cạn, vớt bèo, cấy muốn, phát cỏ, ương sen” đã làm tăng sức
gợi hình, gợi cảm, tạo nhịp điệu cho câu thơ. Nhấn mạnh về cuộc sống bình dị, nơng nhàn
của tác giả cho thấy tình u thiên nhiên, sự gắn bó với cuộc sống bình dị của tác giả
-. Tuy nhiên, liệu ông trở về quê trồng rau muống, ương sen như một lão nông tri điền đã
đúng với tinh thần của bài thơ này?. Nguyễn Trãi chỉ nói “hợp về nhàn”, chứ tuyệt nhiên
khơng nói đến việc ơng về q hay về đâu. Cái sự công danh đã được rồi, nên về nhàn là
cái nhàn tư tưởng, cái nhàn đầu óc.
- Hai câu này như là một tuyên bố cách ứng xử của nhà Nho, nhằm mục tiêu “chỉ có lịng
trung hiếu mài chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen”. Đó là phương châm ứng xử, trong mọi
trường hợp cũng mềm dẻo, linh hoạt để giữ lại cái căn cốt, ở đây là trung và hiếu. Ao cạn
thì khơng thất vọng mà bỏ, vẫn có thể thành ruộng trồng rau muống. Đầm trong, khơng
cịn ni tơm cá được nữa thì trồng sen.. Cái mầm sống muống và sen ấy, với Nguyễn Trãi
muốn nói đến, chính là lịng trung hiếu. Hai câu thơ này đặt trong tồn bài, truyền thông


c) Tâm hồn yêu thiên nhiên được thể
hiện
rõ nét
“Kho
thu phong nguyệt chở đầy qua
nóc


- Những câu thơ này thể hiện được lối sống thanh bạch của nhà thơ Nguyễn Trãi
chở tức
yên
hà nặng
vậy
then”​
khi lấy Thuyền
“phong”, “nguyệt”
gió trăng
là người bầu
bạn,
cảm nhận nhịp sống
nơi dân dã, tâm hồn thanh bạch của con người vĩ đại này dường như đã được tỏa
rạng.
- Đối với ông thiên nhiên quả là báu vật, là nguồn của kho vơ tận mà chỉ có ở
những người như ơng yêu thiên nhiên hết mực mới cảm nhận được cái tuyệt mĩ.
hồn hảo của nó. “Một câu thơ đẹp, rất ảo, tràn đầy mỹ cảm, hình như chưa
thấy ở đâu, chưa thấy ai sáng tạo được như thế. Ức Trai quả thật là vị tiên trong
thơ, từ trong thơ mà lừng lững đi ra, rồi cùng với thơ đi vào bất tử”.
- Hình ảnh ở đây rất ảo diệu. “Kho” là hữu hạn, thu vào gió trăng vơ hạn.
“Thuyền” là hữu hạn, chở khói sơng là vơ hạn. Gió trăng dĩ nhiên đầy vượt qua
nóc. Cịn khói sơng tưởng nhẹ mà nặng vạy cả then thuyền. Con người nhàn
vượt lên thực tại, đó là cái chất trong tâm trí, cái kỳ diệu, mầu nhiệm của phẩm
chất trung hiếu. Dù cho hoàn cảnh thực tại phải ứng xử như cấy muống, trồng
sen, thì tâm hồn và trí tuệ vẫn là cái kho phong nguyệt và thuyền yên hà kia.


d) lời tự bạch nguyễn trãi bộc lộ tấm
lòng trung lẫn

long mìnhBui có mộthiếu,

Mài chăng khuyết, nhuộm
chăng đen.​
- Nguyễn Trãi được biết đến là người ln đau đáu trong lịng về vận sự đất nước, về đời

sống của nhân
dân.Nếu như nhân dân cịn khổ cực thì Nguyễn Trãi cũng chẳng thể ngồi yên mà hưởng
“nhàn” nơi vùng quê thanh vắng, bầu bạn cùng thiên nhiên.
- Con người Nguyễn Trãi là thế, ln mang trong mình trách nhiệm lo cho dân cho nước,
răn mình phải tìm
mọi cách khiến cho thái bình thịnh trị, vận nước an yên, nhân dân no đủ. Một người
“Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu
Hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”
thì làm sao có thể thản nhiên hưởng “nhàn” trong khi đất nước đang loạn lạc, công thần
sa đọa như thế.
- Hai câu kết khép lại những suy tư cảm xúc về lạc thú thanh nhàn và nhìn lại định hưởng
cho cả một đời người, ở đây, tự đáy lòng nhà thơ, vượt lên trên cái thú “phong nguyệt, yên
hủ” vẫn tâm niệm “một lòng trung lẫn hiếu”. Niềm trung hiếu này thể hiện một quan
niệm sống của một con người có nhân cách vĩ đại, tiết tháo cao cả: trung hiếu với vua, với


4. Tổng kết
Nội dung
Bài thơ thể hiện sự lựa chọn của Nguyễn Trãi khi lui về ở ẩn, trở về với
cuộc sống hịa mình vào thiên nhiên, với cơng việc đồng ruộng và rời
xa chốn quan trường đầy toan tính.Tuy vậy, ẩn sâu trong tâm hồn ơng
vẫn là tấm lịng luôn hướng về dân về nước. Bài thơ ca ngợi tâm hồn
thanh cao, trái tim yêu nước thương dân của Nguyễn Trãi


Nghệ thuật

- giọng thơ nhẹ nhàng, khoan thai, giọng điệu tâm
tình cởi mở
- sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ
- hình ảnh giản dị trong sáng


Cảm ơn cô
và các bạn
đã lắng nghe



×