Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Tỷ giá hối đoái và quản lý tỷ giá hối đoái ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.46 KB, 40 trang )

Tỷ giá hối đoái
Mục lục
Lời mở đầu 1
Nội dung
Chơng 1: Tổng quan lý luận về tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ
giá hối đoái
3
1.Tỷ giá hối đoái 3
1.1. Tỷ giá hối đoái là gì 3
1.2. Các loại tỷ giá trên thị trờng 5
1.3 .Vai trò của tỷ giá hối đoái trong nền kinh tế mở 6
1.4. Các yếu tố cơ bản tác động đến tỷ giá hối đoái 8
1.5. Tầm quan trọng của tỷ giá hối đoái 9
2. Chính sách tỷ giá hối đoái và những tiền đề ,mục tiêu cho việc
hoạch định chính sách tỷ giá hối đoái 10
2.1 Chính sách tỷ giá hối đoái 10
2.2 Lựa chọn chế độ TGHĐ 12
Chơng 2 Sự ảnh hởng của chính sách tỷ giá hối đoái tới tốc độ
phát triển kinh tế của Việt Nam 21
1.Sự hình thành và vận động của tỷ giá cùng chính sách TGHĐ
trong giai đoạn trớc tháng 3/1989 thời kế hoạch hoá , tập trung kinh
tế. 21
2. Sự vận động của tỷ giá và chính sách TGHĐ từ tháng 3/1989 đến
nay, thời kì nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trờng với định hớng
xã hội chủ nghĩa. 24
2.1. Giai đoạn từ 1989-1992. 24
2.2. Giai đoạn cố định tỷ giá 1993-1996 .25
2.3. Giai đoạn từ tháng 7/1997 đến ngày 26/2/1999 30
2.4. Giai đoạn từ 26/2/1999 đến nay 33
Chơng 3 Một số giải pháp và kiến nghị 34
1.Một số nhận định chung .34


2. Định hớng về điều hành chính sách tỷ giá của NHNNVN. .36
3.Một số giải pháp . 37
Kết luận 41
Tỷ giá hối đoái
Lời mở đầu
Với sự phát triển nh vũ bão của nền kinh tế thế giới , các mối
quan hệ kinh tế trên mọi lĩnh vực của một nớc ngày càng đợc mở
rộng ra các nớc , do đó vấn đề thanh toán ,định giá , so sánh ,phân
tích đánh giá về mặt giá trị và hiệu quả trở nên phức tạp hơn nhiều .
Đơn vị thanh toán không chỉ là tiền tệ trong nớc mà còn phải sử
dụng các loại ngoại tệ khác nhau liên quan đến việc trao đổi tiền
của nớc khác . Tiền của mỗi nớc đợc quy định theo pháp luật của n-
ớc đó và đặc điểm riêng của nó ,vì vậy phát sinh nhu cầu tất yếu là
phải so sánh giá trị ,sức mua của đồng tiền trong nớc với ngoại tệ và
giữa các ngoại tệ với nhau . Hoạt động chuyển đổi đồng tiền này
thành đồng tiền khác trong quá trình quan hệ giữa các nớc nhóm n-
ớc với nhau đã làm nảy sinh phạm trù tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế nhạy cảm và rất phức
tạp . Kinh tế thị trờng thờng xuyên vận động thì tỷ giá hối đoái cũng
nh những hiện tợng kinh tế khác biến động là lẽ tất nhiên ,là hợp với
quy luật vận động của sự vật ,của hiện tợng . Tuy nhiên những diễn
biến có tính bất thờng , khác lạ của hiện tợng kinh tế tất phải do
những nguyên nhân ,hoặc do những trục trặc nào đó làm cho hiện t-
ợng kinh tế đó diễn ra chệch hớng theo logic bình thờng . Điều
đó làm chúng ta phải thận trọng xem xét các nguyên nhân từ mọi
phía,một cách toàn diện để có nhận thức , quan điểm đúng đắn , làm
cơ sở tin cậy cho việc điều chỉnh các hoạt động thực tiễn
Nghiên cứu sự vận động của tỷ giá hối đoái là một vấn đề phức
tạp nhng cũng đầy mới mẻ và hấp dẫn , nhất là trong bối cảnh nền
kinh tế phát triển và vận động không ngừng .Do đó , để lựa chọn đề

tài nghiên cứu trong đề án môn học Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ ,
tôi đã lựa chọn việc tìm hiểu về "Tỷ giá hối đoái và quản lý tỷ giá
hối đoái ở Việt Nam hiện nay"
Cơ cấu bài viết gồm 3 chơng :
Chơng 1 Tổng quan lý luận về tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ
giá hối đoái
Chơng 2 Sự ảnh hởng của chính sách tỷ giá hối đoái tới tốc độ
phát triển kinh tế của Việt Nam
Tỷ giá hối đoái
Chơng 3 Một số giải pháp và kiến nghị
Tỷ giá hối đoái
Nội dung
Chơng 1
tổng quan lý luận về tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối
đoái.
1. Tỷ giá hối đoái.
1.1 Tỷ giá hối đoái là gì?
Khái niệm của tỷ giá hối đoái rất phức tạp có thể tiếp cân nó
từ những góc độ khác nhau.
Xét trong phạm vi thị trờng của một nớc ,các phơng tiện
thanh toán quốc tế đợc mua và bán trên thị trờng hối đoái bằng tiền
tệ quốc gia của một nớc theo một tỷ giá nhất định .Do đó có thể
hiểu tỷ giá là giá cả của một đơn vị tiền tệ một đợc biểu hiện bằng
số lợng đơn vị tiền tệ của nớc khác hay là bằng số lợng ngoại tệ
nhận đợc khi đổi một đơn vị nội tệ hoặc bằng số lợng nội tệ nhận đ-
ợc khi đổi một đơn vị ngoại tệ .Các nớc có giá trị đồng nội tệ thấp
hơn giá trị ngoại tệ thờng sử dụng cách thứ hai .Chẳng hạn ở Việt
Nam ngời ta thờng nói đến số lợng đồng Việt nam nhận đợc khi đổi
một đồng USD ,DEM hay một FFR Trong thực tế ,cách sử dụng tỷ
giá nh vậy thuận lợi hơn .Tuy nhiên trong nghiên cứu lý thuyết thì

cách định nghĩa thứ nhất thuận lợi hơn
Tỷ giá hối đoái còn đợc định nghĩa ở khía cạnh khác ,đó là
quan hệ so sánh giữa hai tiền tệ của hai nớc với nhau . Một đồng
tiền hay một lợng đồng tiền nào đó đổi đợc bao nhiêu đồng tiền
khác đợc gọi là tỷ lệ giá cả trao đổi giữa các đồng tiền với nhau hay
gọi tắt là tỷ giá hối đoái hay ngắn gọn là tỷ giá .Nh vậy ,trên bình
diện quốc tế ,có thể hiểu một cách tổng quát : tỷ giá hối đoái là tỷ lệ
giữa giá trị của các đồng tiền so với nhau.
Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá dùng để biểu hiện và so sánh những quan hệ về mặt
giá cả của các đồng tiền các nớc khác nhau . Có hai loại giá : giá
trong nớc (giá quốc gia ) phản ánh những điều kiện cụ thể của sản
xuất trong một nớc riêng biệt ,và giá ngoại thơng ( giá quốc tế )
phản ánh những điều kịên sản xuất trên phạm vi thế giới . Do phạm
vi ,điều kiện sản xuất cụ thể trong mỗi nớc và trên phạm vi thế giới
khác nhau nên hàng hoá có hai loại giá : giá quốc gia và giá quốc
tế . Giá trị quốc gia đợc biểu hiện dới hình thức giá cả trong nớc
bằng đơn vị tiền tệ của nớc đó . Giá trị quốc tế biểu hiện qua giá cả
quốc tế bằng các ngoại tệ trên thị trờng thế giới .Tiền tệ là vật ngang
giá chung của toàn bộ khối lợng hàng hoá và dịch vụ trong nớc . Vì
vậy trong sức mua của đồng tiền đợc phản ánh đầy đủ các quan hệ
tái sản xuất trong nớc đó ,hay nói cách khác ,sức mua của một đồng
tiền do mức giá cả của toàn bộ các loại hàng hoá dịch vụ trong nớc
đó quyết định.Tỷ giá thể hiện sự tơng quan giữa mặt bằng giá trong
nớc và giá thế giới . Do sự khác nhau giữa hai loại giá cả trong nớc
và giá cả thế giới mà tiền tệ vừa làm thớc đo giá trị quốc gia vừa
làm thớc đo giá trị quốc tế. Trong các hoạt đọng kinh tế đối ngoại
khi tính đến vấn đề hiệu quả kinh tế ,thì phảI thờng xuyên so sánh
đối chiếu hai hình thức giá cả với nhau : giá quốc gia và giá quốc
tế . Muốn thế phải chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác ,

phải so sánh giá trị đồng tiền trong nớc với ngoại tệ thông qua công
cụ tỷ giá .Tỷ giá dùng để tính toán và thanh toán xuất , nhập khẩu
( không dùng để ổn định giá hàng hoá sản xuất trong nớc ) . Tỷ giá
hàng xuất khẩu là lợng tiền trong nớc cần thiết để mua một lợng
hàng xuất khẩu tơng đong với một đơn vị ngoại tệ .Tỷ giá hàng nhập
khẩu là số lợng tiền trong nớc thu đợc khi bán một lợng vàng nhập
khẩu có giá trị một đơn vị ngoại tệ.
Tỷ giá là tỷ lệ so sánh giữa các đồng tiền với nhau . Do đó
muốn so sánh giá trị giữa các đồng tiền với nhau ,cần phải có vật
ngang giá chung làm bản vị để so sánh .Tiền tệ là vật ngang giá
chung để biểu hiện giá trị của các hàng hoá ,nhng giờ đây đến lợt
cần so sánh giá cả giữa các đồng tiền với nhau lại phải tìm một vật
ngang giá chung làm bản vị để so sánh.
1.2. Các loại tỷ giá thông dụng trên thị trờng
Tỷ giá hối đoái
Để nhận biết đợc tác động của tỷ giá hối đoái đối với các hoạt
động của nền kinh tế nói chung ,hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng
,ngời ta thờng phân loại tỷ giá theo các tiêu thức sau đây :
* Dựa trên tiêu thức là đối tợng quản lý :
Tỷ giá chính thức : đây là loại tỷ giá đợc biết dến nhiều
nhất và là tỷ giá đợc nêu trên các phơng tiện thông tin đại chúng do
ngân hàng công bố chính thức trên thị trờng để làm cơ sở tham
chiếu cho các hoạt động giao dịch , kinh doanh ,thống kê
Tỷ giá thị trờng : tỷ giá đợc hình thành thông qua các giao
dịch cụ thể của các thành viên thị trờng .
Tỷ giá danh nghĩa : là tỷ lệ giữa giá trị của các đồng tiền so
với nhau ,đồng này đổi đợc bao nhiêu đồng kia .
Tỷ giá thực: là tỷ giá phản ánh tơng quan giá cả hàng hoá
của hai nớc đợc tính theo một trong hai loại tiền của hai nớc đó hoặc
là giá trị tính bằng cùng một đồng tiền của hàng xuất khẩu so với

giá hàng nhập khẩu v.v
* Dựa trên kỹ thuật giao dịch : cơ bản có hai loại tỷ giá :
Tỷ giá mua/bán trao ngay, kéo theo việc thay đổi ngay các
khoản tiền
Tỷ giá mua/bán kỳ hạn ,kéo theo việc trao đổi các khoản
tiền vào một ngày tơng lai xác định.
Bên cạnh đó ,trong quá trình theo dõi hoạt động kinh
doanh của ngân hàng ,ngời ta còn đa ra các khái niệm tỷ giá :
Tỷ giá điện hối : tức là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng điện
,thờng đợc niêm yết tại ngân hàng . Tỷ giá điện hối là tỷ giá cơ sở
để xác định các loại tỷ giá khác.
Tỷ giá th hối : là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng th .
Tỷ giá của sec và hối phiếu trả tiền ngay : đợc mua và bán
theo một tỷ giá mà cơ sở xác định nó bằng tỷ giá điện hối trừ đi số
tiền lãi của giá trị toàn bộ của sec và hối phiếu phát sinh theo số
ngày cần thiết của bu điện để chuyển sec từ nớc này sang nớc khác
và theo số ngày kể từ lúc ngân hàng bán hối phiếu đến lúc hối phiếu
đợc trả tiền .
Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối phiếu có kỳ hạn bằng tỷ giá điện hối trừ đi số
tiền lãi phát sinh tính từ lúc ngan hàng bán hối phiếu đến lúc hối
phiếu đó đợc trả tiền .Thời hạn này thờng là bằng thời hạn trả tiền
ghi trên hối phiếu cộng với thời gian chuyển tờ hối phiếu đó từ ngân
hàng bán hối phiếu đến ngân hàng đồng nghiệp của nó ở nớc của
con nợ hối phiếu .Thông thờng lãi suất đợc tính theo mức lãi suất
của nớc mà đồng tiền đợc ghi trên hối phiếu.
1.3. Vai trò của tỷ giá hối đoái trong nền kinh tế mở .
Đối với từng quốc gia hay nhóm quốc gia ( nếu có sự liên kết
và có đồng tiền chung ) thì tỷ giá hối đoái mà họ quan tâm hàng đầu
chính là tỷ giá giữa đồng tiền của chính quốc gia đó ,hay nhóm các

quốc gia đó (đòng nội tệ) với các đồng tiền của các quốc gia khác
( các đồng ngoại tệ) Tỷ giá giữ vai trò quan trọng đối với mọi nền
kinh tế.Sự vận động của nó có tác động sâu sắc mạnh mẽ tới mục
tiêu,chính sách kinh tế vĩ mô của mỗi quốc gia thể hiện trên hai
điểm cơ bản sau :
Thứ nhất, TGHĐ và ngoại thơng:Tỷ giá giữa đồng nội tệ và
ngoại tệ là quan trọng đối với mỗi quốc gia vì trớc tiên nó tác động
trực tiếp tới giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu của chính quốc gia
đó.Khi đồng tiền của một quốc gia tăng giá(Tăng trị giá so với đồng
tiền khác)thì hàng hoá nớc đó ở nớc ngoài trở thành đắt hơn và hàng
hoá nớc ngoài tại nớc đó trở nên rẻ hơn.Ngợc lại khi đồng tiền một
nớc sụt giá,hàng hoá của nớc đó tại nớc ngoài trở nên rẻ hởn trong
khi hàng hoá nớc ngoài tại nớc đó trở nên đắt hơn(các yếu tố khác
không đổi).Tỷ giá tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu vì vậy nó
tác động tới cán cân thanh toán quốc tế,gây ra thâm hụt hoặc thặng
d cán cân.
Thứ hai,TGHĐ và sản lợng, công ăn việc làm, lạm phát.Tỷ
giá hối đoái không chỉ quan trọng là vì tác động đến ngoại thơng
,mà thông qua đó tỷ giá sẽ có tác động đến các khía cạnh khác của
nền kinh tế nh mặt bằng giá cả trong nớc ,lạm phát khả năng sản
xuất , công ăn việc làm hay thất nghiệp
Với mức tỷ giá hối đoái 1USD =10500VND của năm 1994
thấp hơn mức 1USD = 13500VND của năm 1998 ,tức tiền Việt
Nam sụt giá và nếu giả định mặt bằng giá thế giới không đổi ,thì
không chỉ có xe con khi nhập khẩu tính thành tiền Việt Nam tăng
Tỷ giá hối đoái
giá mà còn làm tất cả các sản phẩm nhập khẩu đều rơi vào tình
trạng tơng tự và trong đó có cả nguyên vật liệu ,máy móc cho sản
xuất . Nếu các yếu tố khác trong nền kinh tế là không đổi,thì điều
này tất yếu sẽ làm mặt bằng giá cả trong nớc tăng lên . Nếu tỷ giá

hối đoái tiếp tục có sự gia tăng liên tục qua các năm ( đồng nội tệ
Việt Nam liên tục mất giá ) có nghĩa lạm phát đã tăng . Nhng bên
cạnh đó , đối với lĩnh vực sản xuất chủ yếu dựa trên nguồn lực trong
nớc ,thì sự tăng giá của hàng nhập khẩu sẽ giúp tăng khả năng cạnh
tranh cho các lĩnh vực này , giúp phát triển sản xuất và từ đó có thể
tạo thêm công ăn việc làm , giảm thất nghiệp ,sản lợng quốc gia có
thể tăng lên . Ngợc lại , nếu các yếu tố khác không đổi thì lạm phát
sẽ giảm ,khả năng cạnh tranh của các lĩnh vực trong nớc cũng có xu
hớng giảm ,sản lợng quốc gia có thể giảm ,thất nghiệp của nền kinh
tế có thể tăng lên nếu tỷ gá hối đoái giảm xuống ( USD giảm giá
hay VND tăng giá )
Tỷ giá hối đoái
1.4. Những nhân tố tác động tới tỷ giá:
Về dài hạn có 4 nhân tố tác động tới tỷ giá :Năng suất lao
động,mức giá cả tơng đối ở thị trờng trong nớc,thuế quan và hạn
mức nhập khẩu,a thích hàng nội so với hàng ngoại.
- Năng suất lao động(NSLĐ)trong nớc đóng một vai trò quan
trọng trong việc ảnh hởng đến tỷ giá hối đoái của đồng nội
tệ.NSLĐtrong nớc tăng lên tơng đối so với nớc ngoài, đồng nghĩa
với việc các nhà kinh doan có thể hạ giá thành sản phẩm,dich vụ của
mình tơng đối so với hàng ngoại nhập,dẫn đến sự gia tăng mức cầu
của hàng nội dịa so với hàng ngoại nhập,làm cho hàng nội địa vẫn
bán tốt khi giá đồng nội tệ tăng lên(TGHĐ)giảm xuống và ngợc lại.
Thực tế trên thị trờng thế giớiTGHĐ của đồng tiền phụ thuộc rất
khăng khít vào NSLĐ tơng đối của nớc đó.Một nền kinh tế phát
triển có NSLĐ cao trong thời kì nào đó thờng sẽ ảnh hởng trực tiếp
đến sự tăng giá của đồng tiền nớc đó.
- Mức giá tơng đối ở thị trờng trong nớc là nhân tố quan trọng
ảnh hởng trực tiếp đếnTGHĐ.Theo thuyết mức giá cả tơng đối,khi
mức giá cả hàng nội địa tăng tơng đối so với hàng ngoại nhập thì

cầu của hàng nội địa sẽ giãmuống và đồng nội địa có xu hớng giảm
giá để cho hàng nội bán đợc tốt hơn và ngợc lại nó sẽ làm đồng nội
tệ có xu hớng tăng giá,bởi vì hàng nội đíãe vấn bán tốt ngay cả với
giá trị cao hơn của đồng nội tệ.
- Thuế quan và hạn mức nhập lhẩu là những công cụ kinh tế
mà chính phủ dùng để điều tiết và hạn chế nhập khẩu.Chính công cụ
này nhiều hay ít đã tác động và làm tăng giả cảcủa hàng ngoại
nhập,làm giảm tơng đối nhu cầu với hàng nhập khẩu, góp phần bảo
hộ và khuyến khích tiêu dùng hàng sản xuất trong nớc.Những công
cụ mà nhà nớc dùng để hạn chế nhập khẩu sẽ ảnh hởng và làm cho
tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ có xu hớng giảm về lâu dài.
- Ưa thích hàng nội so với hàng ngoại. Nếu sự ham thích của
ngời nớc ngoài về mặt hàng trong nớc tăng lên thì cầu về hàng nội
sẽ tăng lên làm đồng nội tệ tăng giá,bởi hàng nội địa vẫn bán đợc
nhiều ngay cả với giá cao hơn của đồng nội tệ.Cầu đối với hàng xuất
của một nớc tăng lên làm cho đồng tiền nớc đó giảm giá.
1.5. Tầm quan trọng của tỷ giá.
Tỷ giá hối đoái
Bất kì một quốc gia nào cũng luôn luôn tìm cách để đạt đợc
hai mục tiêu lớn của nền kinh tế : Đó là mục tiêu cân bằng ngoại
(cân băng ngoại thơng) và mục tiêu cân bằng nội(cân bằng sản l-
ợng,công ăn việc làm và lạm phát)
Ta biết rằng, tỷ giá tác động đến giá cả tơng đối của hàng hoá
trong nớc và hàng hoá nớc ngoài . Khi đồng tiền của một nớc tăng
giá ( Tăng giá trị so với đồng tiền khác ) thì hàng hoá nớc đó tại nớc
ngoài trở lên đắt hơn và hàng hoá nớc ngoài trở lên rẻ hơn(giá nội
địa tại hai nớc giữ nguyên ) . Ngợc lại, khi đồng tiền của một nớc
sụt giá , hàng hoá nớc đó tại nớc ngoài trở lên rẻ hơn trong khi hàng
hoá nớc ngoài tại nớc đó trở lên đắt hơn.
Từ đó tỷ giá ảnh hởng tới quá trình sản xuất và xuất nhập

khẩu của các quốc gia và trở thành yếu tố chính ảnh hởng tới việc
thực hiện 2 mục tiêu lớn của nền kinh tế . Điều này có thể nhận thấy
một cách rõ ràng khi xem xét nền kinh tế Việt Nam. Hiện nay,đồng
VND đang đợc coi là tăng giá tơng đối so với các đồng tiền trong
khu vực ( do đồng tiền của các nớc này giảm giá so với đồng USD )
nên giá cả của hàng Việt Nam trên thị trờng quốc tế đang cao hơn
so với hàng hoá cùng chủng loại của các nớc trong khu vực dẫn đến
bị cạnh tranh một cách gay gắt và thực tế là tổng kim ngạch xuất
khẩu của nớc ta trong năm 2000 và mấy tháng đầu năm 2001 là
không tăng mà có tăng thì cũng chỉ tăng một lợng nhỏ.
2. Chính sách tỷ giá hối đoái và những tiền đề, mục tiêu
cho việc hoạch định chính sách tỷ giá hối đoái.
2.1. Chính sách tỷ giá hối đoái .
2.1.1 Khái niệm:
Chính sách TGHĐ là một hệ thống các công cụ dùng để tác
động tới cung cầu ngoại tệ trên thị trờng từ đó giúp điều chỉnh tỷ giá
hối đoái nhằm đạt tới những mục tiêu cần thiết.
Về cơ bản , chính sách tỷ giá hối đoái tập trung chú trọng vào hai
vấn đề lớn là : vấn đề lựa chọn chế độ ( hệ thống ) tỷ giá hối đoái
( cơ chế vận động của tỷ giá hối đoái ) và vấn đề điều chỉnh tỷ giá
hối đoái .
2.1.2. Mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái
Trong nền kinh tế mở động cơ hoạch định chính sách là
những mục tiêu cân đối bên trong và bên ngoài .Trong khi đó tỷ giá
hối đoái lại là một yếu tố có khả năng ảnh hởng trực tiếp đến những
cân đối này nên việc hoạch định những chính sách tỷ giá phải trực
tiếp nhắm đến hai mục tiêu này.
Trên đây là hai nhóm mục tiêu cơ bản mà chính sách tỷ
giá cuối cùng phải hớng đến .Tuy nhiên trong giai đoạn nhất định

nào đó , chính sách tỷ giá cũng có thêm những mục tiêu cụ thể nh :
thờng xuyên xác lập và duy trì mức tỷ giá cân bằng , duy trì và bảo
vệ giá trị đồng nội tệ, tiến tới thực hiện đầy đủ chức năng của đồng
tiền ( bao gồm việc thực hiện khả năng chuyển đổi của đồng tiền)
,gia tăng dự trữ ngoại tệ
Bây giờ sẽ lần lợt xem xét hai mục tiêu : cân bằng nội và
cân bằng ngoại.
* Mục tiêu cân bằng nội : Là trạng thái ở đó các nguồn
lực của một quốc gia đợc sử dụng đầy đủ, thể hiện ở sự toàn dụng
nhân công và mức giá cả ổn định. Mức giá biến động bất ngờ có tác
động xấu đến các khoản tín dụng và đầu t. Chính phủ cần ngăn chặn
các đợt lên hay xuống phát triển đột ngột của tổng cầu để duy trì
một mức giá cả ổn định, có thể dự kiến trớc đợc. Vì vậy, tỷ giá hối
đoái đợc xem nh là một công cụ đắc lực, hỗ trợ hiệu quả cho Chính
phủ trong việc điều chỉnh giá cả, đặc biệt là trong nền kinh tế, xu
thế hội nhập quốc tế nh hiện nay.
* Mục tiêu cân bằng ngoại : Khái niệm "cân bằng ngoại"
khó xác định hơn nhiều so với "cân bằng nội", nó chủ yếu là sự cân
đối trong "tài khoản vãng lai". Trên thực tế ngời ta không thể xác
định đợc "tài khoản vãng lai" nên cân bằng, thâm hụt hay thặng d
bao nhiêu chỉ có thể thống nhất rằng: không nên có một sự thâm hụt
hay thặng d quá lớn mà thôi. Tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính
trị xã hội của một quốc gia mà Chính phủ phải có cách để điều
chỉnh tỷ giá hối đoái của họ cho phù hợp, hiệu quả, chủ yếu tác
động vào các hoạt động xuất nhập khẩu và đầu t xuyên quốc gia.
2.1.3. Các công cụ của chính sách tỷ giá hối đoái.
- Phơng pháp lãi suất chiết khấu : Đây là phơng pháp thờng sử
dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trờng.Với phơng pháp
này, khi tỷ giá hối đoái đạt đén mức báo động cần phải can thiệp thì
Tỷ giá hối đoái

NHTƯ nâng cao lãi suất chiết khấu . Do lãi suất chiết khấu tăng nên
lãi suất trên thị trờng cũng tăng lên . Kết quả là vốn vay ngắn hạn
trên thị trờng thế giới sẽ dồn vào để thu lãi suất cao hơn . Nhờ thế
mà sự căng thẳng về nhu cầu về ngoại tệ sẽ bớt đi , làm cho tỷ giá
không có cơ hội tăng nữa. Lãi suất do quan hệ cung cầu của vốn vay
quyết định . Còn tỷ giá thì do quan hệ cung cầu về ngoại tệ quyết
định . Điều này có nghĩa là những yếu tố để hình thành tỷ giá và lãi
suất là không giống nhau , do vậy mà biến động của lãi suất không
nhất thiết kéo theo sự biến động của tỷ giá.
- Các nghiệp vụ của thị trờng hối đoái : Thông qua các nghiệp
vụ mua bán ngoại tệ điều chỉnh tỷ giá hối đoái là một trong những
biện pháp quan trọng nhất của nhà nớc để giữ vững ổn định sức mua
của đồng tiền quốc gia . Đây là biện pháp trực tiếp tác động vào tỷ
giá hối đoái . Việc mua bán ngoại tệ đợc thực hiện trên nguyên tắc
diễn biến giá cả ngoại tệ trên thị trờng và ý đồ can thiệp mang tính
chất chủ quan của nhà nớc . Việc can thiệp này phải là hành động có
cân nhắc, tính toán những nhân tố thực tại cũng nh chiều hớng phát
triển trong tơng lai của kinh tế, thị trờng tiền tệ và giá cả.
- Quỹ dự trữ bình ổn hối đoái : Nguồn vốn để hình thành quỹ
dự trữ bình ổn hối đoái thờng là : phát hành trái khoán kho bạc bằng
tiền quốc gia . Khi ngoại tệ vào nhiều,thì sử dụng quỹ này để mua
nhằm hạn chế mức độ mất giá của đồng ngoại tệ .Ngợc lại , trong
trờng hợp vốn vay chạy ra nớc ngoài quỹ bình ổn hối đoái tung
ngoại tệ ra bán và tiếp tục mua các trái khoán đã phát hành để ngăn
chặn giá ngoại tệ tăng .Theo phơng pháp này , khi cán cân thanh
toán quốc tế bị thâm hụt , quỹ bình ổn hối đoái sẽ đa vàng ra bán
thu ngoại tệ về để cân bằng cán cân thanh toán , khi ngoại tệ và
nhiều , quỹ sẽ tung vàng ra bán thu về đồng tiền quốc gia để thu
ngoại tệ nhằm duy trì sự ổn định tỷ giá hối đoái.
2.2. Lựa chọn chế độ TGHĐ

2.2.1. Các chế độ tỷ giá hối đoái
2.2.1.1Chế độ tỷ giá hối đoái cố định
2.2.1.1.1 Chế độ đồng giá vàng (1880 - 1932):
Sau một quá trình phát triển lâu dài, tiền thống nhất từ các dạng
sơ khai thành hai loại: vàng và bạc sau đó cố định ở vàng. Chế độ
bản vị vàng là chế độ ở đó, vàng đóng vai trò là vật ngang giá
Tỷ giá hối đoái
chung, chỉ có tiền đúc bằng vàng hoặc dấu hiệu của nó mới có thể
đổi lấy nó. Theo đó, đồng tiền của các nớc đợc đổi trực tiếp ra vàng,
tỷ giá hối đoái đợc hình thành trên cơ sở so sánh hàm lợng vàng của
các đồng tiền, sự so sánh đó đợc gọi là ngang giá vàng (gold parity).
Ví dụ: 1 GBP = 5 USD có nghĩa là: 1GBP có chứa "một hàm
lợng vàng" tơng đơng với 5 lần hàm lợng vàng của 1 USD. Nói cách
khác, ngang giá vàng của GBP so với USD là: GBP/USD = 5.
Trong chế độ bản vị vàng, khi việc đúc tiền vàng , đổi tiền ra
vàng và xuất nhập khẩu vàng đợc thực hiện tự do thì tỷ giá hối đoái
tách khỏi ngang giá vàng là rất ít vì nó bị giới hạn bởi các điểm
vàng. Thực hiện xuất nhập khẩu vàng sẽ quay quanh "điểm vàng".
Giới hạn lên xuống của tỷ giá hối đoái là ngang giá vàng cộng (hoặc
trừ) chi phí vận chuyển vàng giữa các nớc hữu quan. Điểm cao nhất
của tỷ giá hối đoái gọi là "điểm xuất vàng" vì vợt quá giới hạn này,
vàng bắt đầu "chảy ra khỏi nớc". Điểm thấp nhất của tỷ giá hối đoái
là "điểm nhập vàng" vì xuống dới giới hạn này, vàng bắt đầu "chảy
vào trong nớc".
Nhờ có đặc điểm trên, chế độ bản vị vàng có tính ổn định cao,
tiền tệ không bị mất giá, tỷ giá ít biến động, cán cân thơng mại tự
động cân bằng. Chế độ này có khả năng tự điều tiết khối lợng tiền tệ
trong lu thông mà không cần đến sự can thiệp của Nhà nớc, do đó
nó có tác động tích cực đối với nền kinh tế t bản chủ nghĩa trong
giai đoạn đầu phát triển. Đây cũng là thời kỳ phát triển rực rỡ của

thơng mại quốc tế.
Tuy nhiên chế độ bản vị vàng tồn tại không lâu, đến 1914 nó
sụp đổ do hàng loạt các nguyên nhân sau:
- Do xu thế phát triển kinh tế thế giới không đồng đều khiến
cho một số nớc công nghiệp phát triển ngày càng giàu lên, dự trữ
vàng lớn do xuất khẩu đợc nhiều hàng hoá. Còn ở các nớc kém phát
triển kho vàng ngày càng cạn kiệt do phải nhập khẩu hàng hoá. Do
đó, thế giới đợc chia thành hai khối: các nớc kinh tế phát triển và
các nớc kinh tế kém phát triển.
- Lạm hành việc phát hành tiền vàng, các Chính phủ đã chi
tiêu quá lớn dẫn đến việc dự trữ vàng trong kho nhà nớc không đủ
để đảm bảo cho việc đổi tiền phù hiệu ra tiền vàng, làm cho công
chúng có tâm lý sử dụng tiền phù hiệu và cất tiền vàng đi. Ai có
Tỷ giá hối đoái
vàng không đúc tiền vàng nữa mà dùng để đổi lấy tiền phù hiệu.
Dẫn đến tiền phù hiệu đợc l thông rộng rãi trên cơ sở ngang giá
vàng. Các nớc kinh tế phát triển có đồng tiền đợc coi là tiền chủ
chốt. Các nớc kinh tế kém phát triển có đồng tiền đợc coi là tiền phụ
thuộc. Tiền phụ thuộc đến với tiền chủ chốt sẽ đến đợc với vàng. Vì
chỉ tiêu tiền phù hiệu nên các nớc lớn đã phát hành một lợng tiền
phù hiệu lớn để thao túng kinh tế, chính trị, vơ vét của cải, tài
nguyên, xâm chiếm thuộc địa ở các nớc kém phát triển. Khi lợng
tiền phù hiệu ở trong lu thông quá lớn thì nó trở lại để đổi lấy tiền
vàng sẽ không có lợng vàng đủ lớn để đúc tiền vàng nữa.
Mạt khác, trớc đại chiến thế giới I, chính phủ các nớc chạy
đua vũ trang đã timg mọi cách vơ vét vàng, vì thế lợng vàng trong lu
thông giảm mạnh, các dấu hiệu tiền tệ, tiêng giấy tăng lên, đến khi
chiến tranh thế giới năm 1914 bùng nổ, chế đọ bản vị vàng tan vỡ.
Các nớc bắt đầu áp dụng các hình thức biến tớng của ngang giá
vàng là chế độ bản vị vàng thoi và chế độ bản vị vàng hối đoái. Các

chế độ này không có tính chất ổn định nh chế độ bản vị tiền vàng tr-
ớc năm 1914. Đến năm 1923, Anh kêu gọi các nớc thực hiện lại chế
độ bản vị vàng nhng không nớc nào tham gia. Năm 1925, Anh đơn
phơng thực hiện lại chế độ bản vị vàng, các nớc cùng nhau phá giá
đồng tiền của mình mua GBP, đổi lấy vàng gây nên nạn chảy máu
vàng ở Anh. Năm 1931, Anh buộc phải xoá bỏ chế độ đồng giá vàng
- bảng Anh.
Đến cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929 - 1933 đã
đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ bản vị vàng dới mọi hình
thức và điều đó cũng có nghĩa là đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ tỷ
giá hối đoái ổn định và sức mua của đồng tiền đợc giữ vững.
2.2.1.1.2. Chế độ tỷ giá cố định theo thoả ớc Bretton Woods
(1946 - 1971)
Nhằm ổn định lại sự phát triển thơng mại quốc tế và thiết lập
một trật tự thế giới mới sau thế chiến thứ hai, Mỹ, Anh và 42 nớc
đồng minh đã họp hội nghị tại Bretton Woods (Mỹ) tháng 7/1944 để
bàn bạc xây dựng hệ thống tiền tệ và thanh toán chung. Hội nghị đ-
ợc đánh giá là hội nghị thành công nhất thế kỷ. Tại đây 56 nớc ký
tên hiệp định chấp nhận thành lập Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân
hàng Thế giới (WB) và một chế độ tỷ giá hối đoái mới. Theo chế độ
này, các nớc cam kết duy trì giá trị đồng tiền của mình theo đồng
Tỷ giá hối đoái
USD hoặc theo nội dung vàng trong phạm vi biến động không quá
1% tỷ giá đăng ký chính thức tại quỹ. Nếu các nớc tự thay đổi tỷ giá
mà không đợc sự đồng ý của IMF thì sẽ bị phạt cấm vận. NHTW
các nớc phải can thiệp vào thị trờng tiền tệ nớc mình để giữ cho tỷ
giá nớc mình không thay đổi bằng cách mua bán đồng USD. Điều
này cũng có nghĩa là các nớc phải cùng nhau bảo vệ giá trị cho đồng
USD. Đổi lại, Mỹ cam kết ổn định giá vàng ở mức 35USD/ounce
vàng ( biến động giá cả không quá 24 cent/ounce). USD là đồng tiền

chủ chốt số 1 với tiêu chuẩn giá cả 1USD = 0,88714 gram vàng.
Ví dụ: Trên cơ sở so sánh hàm lợng vàng: 1USD = 5,55 FRF
thì NHTW Pháp phải duy trì tỷ giá ở mức 1USD = 5,4945 FRF
(5,55*99%) đến 1USD = 5,6055 FRF (5,5*101%).
Trong thời kỳ đầu cứ 1USD giấy phát hành ra đã có từ 4 đến 8
USD vàng bảo đảm. Lợng vàng đảm bảo đồ sộ nh vậy nên cả thế
giới t bản chỉ lo có vàng để đổi lấy USD mà mua hàng Mỹ chứ
không quan tâm đến việc USD có đổi lấy vàng đợc không. Chính vì
vậy, các nớc có xu hớng chuyển đổi từ dự trữ vàng sang dự trữ USD
để tiết kiệm chi phí. USD đã trở thành tài sản dự trữ quốc tế của các
nớc vì Mỹ cam kết với các NHTW rằng sẽ chuyển đổi không hạn
chế USD ra vàng. Các nớc ngày càng mở rộng thơng mại với Mỹ,
gia tăng dự trữ USD của họ, khiến cho sức hút USD ra ngoài ngày
càng tăng. Tổng khối lợng USD trên toàn thế giới vào cuối năm
1944là 28,5 tỷ USD, thì đến cuối năm 1968 đã lên đến gần 100 tỷ
USD. Trong 25 năm độc quyền phát hành tiền tệ, Mỹ đã lợi dụng
đồng USD để thu hút của cải các nơi trên thế giới về tay mình. Hàng
trăm tỷ USD đợc thả lang thang đi khắp các nớc mà không có gì bảo
đảm, gây ra lạm phát USD. Chế độ Bretton Woods ngày càng bộc lộ
những hạn chế mà bản thân nó không tự khắc phục đợc:
- Dự trữ không tơng xứng: Do quy mô thơng mại quốc tế
ngày càng tăng gắn liền với những dòng vận động tiền tệ lớn, đòi
hỏi các NHTW phải mua và bán khối lợng lớn đồng USD để duy trì
tỷ giá hối đoái đã thoả thuận. Về dài hạn, một số ngân hàng nhận
thấy dự trữ USD và vàng của mình không đủ đáp ứng nhu cầu trên.
- Các cuộc khủng hoảng có nguyên nhân đầu cơ: Khi có sự
thay đổi về mức giá cả tơng đối giữa các đổng tiền làm cho một số
đồng tiền đợc đánh giá quá cao hoặc quá thấp. Vì tỷ giá là luôn cố
Tỷ giá hối đoái
định, việc các nhà đầu cơ mua, bán lợng tiền lớn khiến cho NHTW

phải chi tiêu những lợng ngoại tệ lớn để cố gắng duy trì tỷ giá đã
định theo thoả ớc cho đến khi nó đợc thay đổi.
- Sức ép từ tơng quan thực tế giữa các đồng tiền: Sự tăng tr-
ởng khác nhau về xuất nhập khẩu cũng nh tỷ lệ lạm phát rất chênh
lệch giữa các nớc và hàng loạt các nhân tố tác động khác đã làm cho
có sự thay đổi tơng đối về giá trị tơng đối giữa các đồng tiền xét về
dài hạn. Vì vậy, một số nớc đã xin thay đổi lại tỷ giá, gây sức ép cho
tỷ giá cố định.
Vào những năm 60, bối cảnh kinh tế xã hội có nhiều thay đổi,
khoa học kỹ thuật phát triển làm cho các nớc phục hồi kinh tế, thế
giới chia làm 3 cực: Mỹ, Nhật và Tây Âu. Do đó, các nớc đã xuất
khẩu hàng hoá sang Mỹ và Mỹ trở thành nớc nhập siêu. Về phía
mình, hàng hoá Mỹ không còn sức hấp dẫn nh trớc làm cho cán cân
thơng mại Mỹ thờng xuyên thâm hụt, dự trữ vàng ngày càng giảm,
nợ nớc ngoài tăng, USD mất giá nghiêm trọng. Thêm vào đó Mỹ sa
lầy vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam và một số nớc khác khiến
chính phủ Mỹ chi tiêu ngày càng nhiều tiền. Các nớc khủng hoảng
lòng tin với USD, đã chuyển đổi USD dự trữ ra vàng, làm cho dự trữ
vàng của Mỹ giảm sút nhanh chóng. Trớc những diễn biến phức tạp
của tình hình trong nớc và thế giới, tổng thống Mỹ Nixon sau 2 lần
tuyên bố phá giá: Lần 1(tháng8/1971) 1USD = 0,81gram vàng ròng
và 42 USD = 1ounce vàng, lần 2 (tháng 3/1973) 1USD = 0,7369
gram vàng ròng và 45 USD = 1 ounce vàng. Đồng USD bị phá giá (-
10%) thì chế độ tỷ giá hối đoái cố định Bretton Woods hoàn toàn
sụp đổ.
2.2.1.1.3. Nhận định chung về chế độ tỷ giá cố định:
Đây là chế độ tỷ giá hối đoái mà ở đó Nhà nớc, cụ thể là
NHTW tuyên bố sẽ duy trì tỷ giá giữa đồng tiền của quốc gia mình
với một hoặc một số đồng tiền nào đó ở một mức độ nhất định. ở
đây, NHTW đóng vai trò điều tiết lợng d cầu hoặc d cung về ngoại

tệ để giữ tỷ giá hối đoái cố định bằng cách bán ra hoặc mua vào số
d đó.
- Ưu điểm của chế độ tỷ giá cố định:
Tỷ giá hối đoái
+ Thúc đẩy thơng mại và đầu t quốc tế vì nó mang lại một
môi trờng ổn định, thuận lợi, ít rủi ro cho các hoạt động kinh doanh.
+ Buộc các chính phủ phải hoạch định và thực thi các chính
sách vĩ mô.
+ Thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc tế nhằm tránh những
xung đột về mục tiêu chính sách và những biến động về tỷ giá.
- Hạn chế của chế độ tỷ giá cố định:
+ Thờng chịu sức ép lớn mỗi khi xảy ra các cơn sốc từ bên
ngoài hoặc từ thi trờng hàng hoá trong nớc, bởi khi đó mức chênh
lệch thực tế quá lớn về giá trị giữa nội tệ và ngoại tệ sẽ dẫn đến phá
vỡ mức cân bằng tỷ giá.
+ Chế độ tỷ giá cố định làm mất tính chủ động của chính sách
tiền tệ, khiến cho NHTW gặp khó khăn trong việc thay đổi lợng tiền
cung ứng.
+ Đặc biệt, nó làm cho các quốc gia dễ rơi vào tình trạng
"nhập khẩu lạm phát" không mong muốn.
2.2.1.2. Chế độ tỷ giá thả nổi (từ năm 1973 đến nay):
Sau thất bại của hệ thống tỷ giá hối đoái Bretton Woods, vào
tháng 7/1976, tại hội nghị Jamaica, các thành viên của IMF đã
thống nhất đa ra những quy định mới cho hệ thống tiền tệ quốc tế.
Đó là "tỷ giá linh hoạt" hay "tỷ giá thả nổi" đợc các thành viên IMF
chấp nhận. Theo chế độ mới, tỷ giá đợc xác định và vận động một
cách tự do theo quy luật thị trờng mà cụ thể là quy luật cung - cầu
ngoại tệ. NHTW các nớc không có bất kỳ một tuyên bố hay cam kết
nào về chỉ đạo, điều hành tỷ giá.
- Ưu điểm của chế độ tỷ giá thả nổi:

+ Giúp cán cân thanh toán cân bằng: Giả sử một nớc nào đó
có cán cân vãng lai thâm hụt khiến nội tệ giảm giá. Điều đó thúc
đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu cho đến khi cán cân thanh toán
trở nên cân bằng.
+ Đảm bảo tính độc lập của chính sách tiền tệ.
+ Góp phần ổn định kinh tế, tránh đợc những cú sốc bất lợi từ
bên ngoài, vì khi giá cả nớc ngoài tăng sẽ làm cho tỷ giá tự điều
chỉnh theo cơ chế PPP để ngăn ngừa các tác động ngoại lai.
Tỷ giá hối đoái
- Nhợc điểm:
+ Là nguyên nhân gây nên sự bất ổn do các hoạt động đầu cơ
làm méo mó, sai lệch thị trờng, có khả năng gây nên lạm phát cao
và tăng nợ nớc ngoài.
+ Hạn chế các hoạt động đầu t và tín dụng do tâm lý lo sợ sự
biến động theo hớng bất lợi của tỷ giá.
Khi mới ra đời, chế độ tỷ giá thả nổi tự do đợc cho là phơng
thức hữu hiệu vạn năng cho sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên,
thực tế chứng minh rằng, càng thả nổi tỷ giá thì sự phát triển kinh tế
càng kém ổn định. Bởi lẽ, biến động của tỷ giá rất phức tạp, chịu tác
động của nhiều nhân tố kinh tế, chính trị, tâm lý, xã hội đặc biệt là
nạn đầu cơ. Trên thực tế thì lại không có thị trờng thuần tuý nên
không thể có một chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn. Sự can thiệp của
Chính phủ vào thị trờng ngoại hối làm cho tỷ giá hối đoái có những
diễn biến thuận lợi hơn nên chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý ngày
càng đợc nhiều quốc gia lựa chọn đặc biệt là các nớc đang phát
triển.
Tỷ giá hối đoái
2.2.1.3. Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý (bán thả nổi):
Đây là chế độ tỷ giá hối đoái có sự can thiệp của hai chế độ
cố định và thả nổi. ở đó, tỷ giá đợc xác định và hoạt động theo quy

luật thị trờng, chính phủ chỉ can thiệp khi có những biến động mạnh
vợt quá mức độ cho phép.
Có 3 kiểu can thiệp của chính phủ:
- Kiểu can thiệp vùng mục tiêu: Chính phủ quy định tỷ giá tối
đa, tối thiểu và sẽ can thiệp nếu tỷ giá vợt quá các giới hạn đó.
- Kiểu can thiệp tỷ giá chính thức kết hợp với biên độ dao
động: Tỷ giá chính thức có vai trò dẫn đờng, chính phủ sẽ thay đổi
biên độ dao động cho phù hợp với từng thời kỳ.
- Kiểu tỷ giá đeo bám: Chính phủ lấy tỷ giá đóng cửa ngày
hôm trớc làm tỷ giá mở cửa ngày hôm sau và cho phép tỷ giá dao
động với biên độ hẹp.
Hiện nay, chế độ tỷ giá "bán thả nổi" hay "cố định bò trờn" có
nhiều tính u việt hơn và đợc nhiều nớc sử dụng, đặc biệt là các nớc
đang phát triển. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là "thả nổi" hay "bò trờn"
ở mức độ bao nhiêu nên gần với thả nổi hay gần với cố định hơn?
biên độ dao động là bao nhiêu? Rất khó để đa ra một câu trả lời
chung cho mọi quốc gia mà phải tuỳ thuộc vào điều kiện thực tiễn
và mục tiêu của từng quốc gia theo đuổi. Nhìn chung, đối với các n-
ớc kinh tế đang phát triển trong đó có Việt Nam, với một hệ thống
công cụ tài chính còn nhiều yếu kém, sự phối hợp giữa các chính
sách còn thiếu đồng bộ, đồng tiền yếu và dự trữ ngoại tệ còn hạn
hẹp thì tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý tỏ ra là một chính sách hợp
lý nhất.
2.2.2 Cơ sở lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái
Việc lựa chọn chế độ tỷ giá xoay quanh 2 vấn đề chính : Mối
quan hệ giữa các nền kinh tế quốc gia với cả hệ thống toàn cầu và
mức độ linh hoạt của các chính sách kinh tế trong nớc.
Thứ nhất, lựa chọn chế độ tỷ giá là lựa chọn hệ thống mở của
hay đóng cửa.Các phơng án lựa chọn hệ thống tỷ giá thiên về hoặc
tỷ giá cố định hoặc tỷ giá linh hoạt.Một quốc gia lựa chọn tỷ giá cố

định tức là chấp nhận sự ràng buộc đối với các chính sách kinh tế
quốc gia.Các chính sách kinh tế của quốc gia phải phù hợp với duy
trì tỷ giá hối đoái cố định,vì vậy việc hoạch định chính sách đối nội
trở thành ngoại sinh và tuân thủ theo thoả ớc tỷ giá.Từ đó có thể
thấy rằng sự lựa chọn này ngang với việc áp đặt các ràng buộc quốc
tế vào các chính sách kinh tế quốc gia.Nói rộng hơn, lựa chọn cơ
chế tỷ giá cố định tơng đơng với lựa chọn một hệ thống mở
cửa,trong đó luôn có sự tơng tác giữa các nhân tố quốc gia và cả hệ
Tỷ giá hối đoái
thống thế giới.Ngợc lại,phơng án tỷ giá linh hoạt, về nguyên tắc
không chấp nhận một sự ràng buộc nào vào các chính sách kinh tế
đối nội.Các chính sách có tác động gì đi nữa thì sự giao động tỷ giá
sẽ giữ chúng chỉ gây ảnh hởng trong phạm vi quốc gia.Và tơng ứng
với điều đó,kết quả của các chính sách kinh tế nớc ngoài dù thế nào
đi chăng nữa thì điều chỉnh tỷ giá sẽ giữ chúng ngoài phạm vi quốc
gia.Thực tế, lựa chọn này giữ cho chính sách quốc gia không bị ràng
buộc quốc tế.Nói rộng hơn,lựa chọn cơ chế hối đoái linh hoạt sẽ
tach rời nền kinh tế quốc gia khỏi môi trờng quốc tế.
Thứ hai, chúng ta cần quan tâm đến mức độ linh hoạt của các
chính sách kinh tế đối nội.Mức độ này khác nhau rõ ràng giữa việc
lựa chọn nột trong hai loại chế độ tỷ giá.Vì tỷ giá cố định thể hiện
sự cam kết áp đặt các ràng buộc đối với các chính sách kinh tế quốc
gia, có nghĩa rằng không thể theo đuổi các chính sách kinh tế đối
nội một cách độc lập.Ngợc lại,tỷ giá linh hoạt là một công cụ có thể
sử dụng để giữ cho các hoạt động kinh tế của hệ thống quốc tế
không ảnh hởng tới các chính sách quốc gia.Vì vậy có thể theo đuổi
các chính sách quốc gia mà không cần quan tâm đến thế giới bên
ngoài và nh vậy đặc thù của chúng là hệ thống đóng.
Tỷ giá hối đoái
Chơng 2

Sự ảnh hởng của chính sách tỷ giá hối đoái tới tốc độ
phát triển kinh tế của Việt Nam
1. Sự hình thành và vận động của tỷ giá cùng chính sách
TGHĐ trong giai đoạn trớc tháng 3/1989 thời kế hoạch hoá , tập
trung kinh tế.
Năm 1950 đợc coi nh là một cái mốc khi mà Trung Quốc ,
Liên Xô và các nớc chủ nghĩa xã hội Đông Âu thiết lập quan hệ
ngoại giao với Việt Nam , đặt nền móng đầu tiên cho việc hình
thành các quan hệ kinh tế - thơng mại giữa Việt Nam và các n-
ớc.Trong hai năm liên tiếp,1952-1953,Việt Nam lần lợt kí hiệp định
thơng mại và nghị định th mậu dịch tiểu nghạch với Trung Quốc.Từ
ngày 25 tháng 11 năm 1955, tỷ giá chính thức đợc quy định giữa
đồng Việt Nam(VND) và nhân dân tệ Trung Quốc(CNY) là 1
CNY=1470 VND. Tỷ giá giá này đợc xác định dựa trên việc so sánh
giá bán lẻ của 34 mặt hàng tiêu dùng tại một số tỉnh lớn của hai nớc.
Vào thời điểm này, tỷ giá Rúp của Liên Xô (SUR) và nhân dân tệ
của Trung Quốc (CNY) là 1 CNY = 2SUR. Từ đó,tỷ giá tính chéo
tạm thời giữa đồng Việt Nam và Rup của Liên Xô là 1 SUR =
735VND.Sau đợt đổi tiền vào đầu năm 1959 (1 đồng Việt Nam mới
bằng 1000 đồng Việt Nam cũ) cũng đã có những điều chỉnh tỷ giá t-
ơng ứng với sự thay đổi mệnh giá của đồng tiền (1SUR =
0,735VND). Đến đầu năm 1961 tỷ giá giữa đồng Việt Nam và Rup
của Liên Xô đợc điều chỉnh lại là 1SUR=3,27VND,do hàm lợng
vàng trong đồng Rup đợc điều chỉnh tăng 4,44 lần.
Năm 1977, các nớc xã hội chủ nghĩa thoả thuận thanh toán
với nhau bằng tiền Rup chuyển nhợng ( là đồng tiền ghi sổ dùng
trong thanh toán mậu dịch giữa các nớc trong khối với tỷ giá đợc
quy định sao cho tài khoản giữa các bên sau khi trao đổi ngoại th-
ơng theo khối lợng đã đợc ghi trong hiệp định ký kết vào đầu năm
thì cuối năm số d phải bằng zero ) có hàm lợng vàng quy định là

0,98712 gam trên mỗi đồng Rup chuyển nhợng. Bên cạnh tỷ giá
Nhà nớc còn sử dụng tỷ giá kết toán nội bộ 1SUR=5,64VND , đợc
hình thành từ năm 1958 và đợc xác định trên cơ sở so sánh giá cả
Tỷ giá hối đoái
hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam bằng đồng Rup nhân dân tệ với
giá hàng hoá đó bằng đồng Việt Nam trong 3 năm 1955, 1956,
1957. Tỷ giá kết toán nội bộ này dùng để thanh toán giữa các tổ
chức và đơn vị kinh tế Nhà nớc có thu chi ngoại tệ với ngân hàng,
tính thu chi với các đối tác ngoại thơng. Tỷ giá kết toán nội bộ này
đợc xác định cố định cho đến tận năm 1986 mới đợc điều chỉnh lại
là 1SUR=18VND, năm 1987 điều chỉnh lại là 1SUR=150VND ,
cuối năm 1988 mới đợc điều chỉnh lại là 1SUR=700VND và cho
đến tháng 3 năm 1989 thì huỷ bỏ chế độ kết toán nội bộ này. Sau
khi bắt đầu có chủ trơng thu hút vốn đầu t nớc ngoài (1985 ) thì vấn
đề luồng ngoại tệ bằng Dola Mỹ vào Việt Nam phải đợc tính đến (
nhất là khi Việt Nam thông qua luật đầu t nớc ngoài vào năm 1987).
Và TGHD chính thức giữa đồng Việt Nam và Dola Mỹ đã đợc xác
định một cách chủ quan theo tỷ giá hiện tại giữa đồng Việt Nam và
đồng Rup ( năm 1985: 1SUR=18VND và mối tơng quan Dola-Rup
xem nh tơng đơng 1:1.Do đó, TGHD chính thức giữa đồng Việt
Nam và Dola Mỹ vào năm 1985 là 1USD=18VND ) . Cũng bắt đầu
từ năm này, thị trờng ngoại tệ chợ đen mà chủ yếu là thị trờng Dola
Mỹ bắt đầu bột phát một cách mạnh mẽ vơí sự trợ lực của ba dòng
chảy là: dòng kiều hối của kiều bào đổ về thay thế dân cho những
kiện hàng quà biếu mà một phần đáng kể là dới hình thức bất hợp
pháp. Những lợng lớn Dola Mỹ đợc cất trữ từ khi miền Nam đợc
giải phóng bởi các tiểu t sản Sài Gòn cũ cũng bắt đầu đợc tung ra ít
nhiều.Thứ ba, cùng với việc xoá bỏ ngăn sông cấm chợ thì dòng
chảy hàng buôn lậu qua biên giới cũng gia tăng theo. Mức TGHD
trên thị trờng chợ đen đợc hình thành và vận động theo những tín

hiệu quy luật thị trựờng đã có một sự chệnh lệch lớn so với tỷ giá
chính thức, sự bất hợp lý trong việc xác lập TGHD ở giai đoạn này
thực chất không quan trọng đối với cả nền kinh tế nói chung vì tỷ
giá là một loại giá cả, mà bản thân phạm trù giá cả cơ bản là không
tồn tại trong nền kinh tế tập trung, bao cấp ngoại trừ việc có ảnh h-
ởng xấu đến ngân sách Nhà nớc.
Với việc thực hiện tỷ giá kết toán nội bộ, mức tỷ giá chính
thức thờng cố định trong thời gian tơng đối dài và thấp hơn rất nhiều
so với mức tỷ giá trên thị trờng.VD:giai đoạn từ năm 1985 đến
1988, 1 Rup có giá vào khoảng 1500 VND, 1 Dola có giá vào
khoảng 3000 VND . Trong khi đó, tỷ giá kết toán nội bộ trong thanh
Tỷ giá hối đoái
toán quan hệ xuất nhập khẩu ở mức khoảng 1SUR=150VND và
1USD=225VND. Từ đó, 1 Rup nhập khẩu Nhà nớc phải bù lỗ một
số tiền là 1350 đồng và 1 Dola phải bù lỗ 2775 đồng. Nh vậy, nếu
kim ngạch trong năm 1987 là 650 triệu SUR-USD , trong đó khu
vực đồng Rup là 500 triệu và khu vực Dola là 150 triệu thì số tiền
phải bù lỗ lên đến 900 tỷ VND . Tình hình này dẫn đến một thực
trạng là những địa phơng, những ngành nghề nào đó càng xuất khẩu
nhiều thì ngân sách Nhà nớc càng phải bù lỗ nhiều. Nếu bù lỗ
không đủ hay chậm trễ sẽ dẫn đến tình trạng nợ chồng chất lẫn nhau
và thiếu vốn kinh doanh. Bên cạnh đó, do tỷ giá chính thức quy định
thấp, các tổ chức kinh tế và cá nhân có ngoại tệ lại tìm cách không
bán cho ngân hàng, các tổ chức đại diện nớc ngoài hoặc cá nhân nớc
ngoài cũng hạn chế việc chuyển tiền vào tài khoản ở ngân hàng để
chi tiêu mà thờng đa hàng từ nớc ngoài vào hay sử dụng trực tiếp
tiền mặt trên thị trờng. Thực tế này vừa gây thiệt hại về kinh tế cho
Nhà nớc vừa làm phát sinh những tiêu cực trong đời sống kinh tế xã
hội, thúc đẩy mạnh mẽ những hoạt động phi pháp và chính điều này
tác động ngợc trở lại làm tình hình tỷ giá trong thị trờng càng diễn

biến phức tạp. Đối với nhập khẩu, Nhà nớc thờng đứng ra phân phối
nguyên vật liệu, trang thiết bị, máy móc nhập khẩu cho các nghành
đơn vị trong nền kinh tế với giá rẻ ( theo tỷ giá chính thức). Nh vậy,
các nghành, các đơn vị đợc phân phối hàng nhập khẩu thì đợc chênh
lệch giá. Do đó, cách thức xây dựng và điều hành tỷ giá cùng cơ chế
ngoại thơng nh vậy đã đợc xem là một trong những nguyên nhân cơ
bản dẫn đến những thâm hụt trầm trọng trong ngân sách Nhà nớc ở
giai đoạn này. Tóm lại, TGHD đợc xác lập và vận hành ở Việt Nam
trong giai đoạn trớc tháng 3/1989 là một hệ thống khá phức tạp, đợc
xác lập theo ý đồ phục vụ cho kế hoạch do Nhà nớc quyết định,
không xuất phát từ luật thực tại trong nền kinh tế trong và ngoài nớc
mà hậu quả là làm cho việc tính toán,phản ánh thu chi ngân sách
Nhà nớc bị sai lệch, công tác điều hành ngân sách Nhà nớc gặp khó
khăn, cản trở các quan hệ kinh tế cả trong và ngoài nớc. Đây cũng là
vừa một biểu hiện và cũng vừa là kết quả của một nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung.
2. Sự vận động của tỷ giá và chính sách TGHĐ từ tháng
3/1989 đến nay, thời kì nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị tr-
ờng với định hớng xã hội chủ nghĩa.
Tỷ giá hối đoái
2.1. Giai đoạn từ 1989-1992.
Giai đoạn này có thể đợc coi là cái mốc quan trọng trong
phát triển TGHĐ ở nớc ta khi quan hệ ngoại thơng đợc bao cấp với
các thị trờng truyền thống Đông Âu và Liên Xô(cũ) bị gián đoạn ,
khiến chúnh ta phải chuyển sang buôn bán với khu vực thanh toán
bằng dola Mỹ.Kể từ đó cơ chế tỷ giá ổn định đã đợc thay thế dần
bằng cơ chế Nhà nớc điều tiết theo quan hệ thị trờng.Để đi tới một
chính sách TGHĐ tự chủ nh ngày nay,cơ chế quản lý ngoại tệ nói
chung , quản lý hối đoái nói riêng đã trải qua những diều chỉnh lớn.
Chính trong giai đoạn này nền kinh tế chịu tác động của

chính sách thả nổi tỷ giá.Tỷ giá hối đoái VND/USD biến động
mạnh theo xu hớng giá trị đồng dola Mỹ tăng liên tục kèm theo các
cơn sốt, các đột biến với biên độ rất lớn ( Từ cuối năm 1990 trở đi
) . Đỉnh cao của mức tăng tỷ giá USD là cuối năm 1991 . Ngày
4/12/1991 giá dola Mỹ trên thị trờng t nhân tại Hà nội và Thành phố
Hồ Chí Minh là 14.450 VND/USD . Giá dola trong tháng 12/1990
đã tăng từ 60 đến 80% so với mức giá đầu năm.
Mặc dù trong giai đoạn 1989-1992 chính sách quản lý ngoại
tệ của Nhà Nớc đã có nhiều thay đổi , nh chuyển từ hình thức quản
lý theo tỷ giá kết toán nội bộ bình quân cho tất cả các nhóm hàng
hoá và duy trì tơng đối ổn định các tỷ giá này , hoặc nếu có thay
đổi thì cũng chỉ ở mức nhỏ nhằm ổn định hệ thống giá vật t và xuất
khẩu , nhập khẩu , nên tỷ giá công bố vẫn cách xa mức giá hình
thành trên thị trờng.
Diễn biến tỷ giá hối đoái từ năm1989 đến năm 1992 không
những nói nên khoảng cách giữa tỷ giá của nhà nớc với tỷ giá hình
thành trên thị trờng tự do mà còn phản ánh xu hớng tăng nhanh của
giá trị đồng dola ở cả khu vực nhà nớc lẫn thị trờng . Năm 1990,giá
trị đồng dola vào thời điểm cuối năm đã tăng tới 50% so với đầu
năm . Mức tăng giá USD trong 1991 còn cao hơn .Tình trạng leo
thang của giá đồng dola đã kích thích tâm lý nắm giữ đồng dola ,
nhằm đầu cơ ăn chênh lệch giá . Ngoại tệ vốn đã khan hiếm lại
không đợc dùng cho hoạt động xuất nhập khẩu mà còn bị buôn bán
vòng vèo giữa các tổ chức trong nớc . Mọi cố gắng quản lý ngoại tệ
của chính phủ ít đem lại hiệu quả . Giai đoạn này Ngân hàng không
kiểm soát đợc lu thông tiền tệ . Trong các năm 1991-1992 do ảnh h-
Tỷ giá hối đoái
ởng của sự đổ vỡ các mối quan hệ ngoại thơng với LiênXô và Đông
Âu , nhập khẩu giảm sút một cách nghiêm trọng ( năm 1991 là
357.0 triệu USD đến năm 1992 chỉ còn 91,1 triệu USD ). Các doanh

nghiệp tiến hành nhập khẩu theo hình thức trả chậm và phải chịu
một lãi suất cao do thiếu dola , dola đã thiếu lại càng thiếu dẫn đến
các cơn sốt dola theo chu kỳ vào giai đoạn này.
Đến đầu năm 1992 Chính phủ đã có một số cải cách trong
việc điều chỉnh tỷ giá ( nh buộc các doanh nghiệp có dola phải gửi
vào ngân hàng , bãi bỏ hình thức quy địng tỷ giá theo nhóm hàng )
làm cho giá dola bắt đầu giảm ( cuối năm 1991 tỷ giá VND/USD có
lúc lên tới 14500 đến tháng 3/1992chỉ còn 11550 VND/USD và tiếp
tục giảm cho đến cuối năm 1992.
2.2. Giai đoạn cố định tỷ giá 1993-1996.
Vào thời điểm cuối năm 1992 , do kết quả sự can thiệp của
Ngân hàng Nhà nớc vào thị trờng ngoại tệ, tỷ giá dần ổn định khiến
cho lợng ngoại tệ đầu cơ trong các doanh nghiệp đợc tung ra , hớng
mạnh vào kinh doanh xuất nhập khẩu . Động thời có một lợng ngoại
tệ đợc chuyển về do ngời Việt Nam ở nớc ngoài gửi về cho ngời
thân tăng lên khoảng 300-400 triệu USD làm cung ngoại tệ lớn hơn
cầu ngoại tệ và kéo theo tỷ giá VND/USD giảm mạnh. Lĩnh vực tài
chính - tiền tệ bắt đầu trở ngại. Bên cạnh đó, cùng với việc quản lý
các đại lý thu đổi ngoại tệ còn lỏng lẻo, sự chênh lệch lớn giữa
TGHĐ ở thị trờng chính thức và thị trờng chợ đen dẫn đến việc các
đại lý lợi dụng danh nghĩa của Nhà nớc để buôn bán trục lợi, các
ngân hàng không thu mua đợc lợng ngoại tệ đáng kể qua nguồn này.
Một mặt tình trạng này làm hạn chế khả năng kiểm soát các luồng
ngoại tệ lu hành trong nớc. Mặt khác làm gia tăng các giao dịch trên
thị trờng chợ đen bất hợp pháp, tâm lý đầu cơ, găm giữ ngoại tệ tăng
mạnh.
- Việc ngân hàng Nhà nớc khống chế chênh lệch giữa tỷ giá
mua và tỷ giá bán là cứng nhắc. Điều này làm cho tỷ giá vận hành
thoát ly hoàn toàn quan hệ cung cầu và không khuyến khích các tổ
chức tín dụng, các ngân hàng thuơng mại hoạt động theo đúng quan

hệ nội tại của nó và thực tế không ít các ngân hàng thơng mại đã
phá rào. Cuối cùng sự vận động của tỷ giá trong giai đoạn này đã

×