Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Luận văn thạc sĩ ngôn ngữ văn hoá và văn học việt nam “đêm hội long trì” từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (937.03 KB, 20 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN TỐ VIỆT HƯƠNG

“ĐÊM HỘI LONG TRÌ”
TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ, VĂN HĨA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Thái Nguyên – 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN TỐ VIỆT HƯƠNG

“ĐÊM HỘI LONG TRÌ”
TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.220.121

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ, VĂN HĨA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Thị Phương Thái



Thái Nguyên - 2018


i

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều
trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ cơng trình nào khác.
Thái Ngun, ngày 20 tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Tố Việt Hương


ii

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban
Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí - Truyền thơng và Văn học, Trường
Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng
dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng
dẫn PGS.TS. Phạm Thị Phương Thái đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong
suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã giúp
đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn


Nguyễn Tố Việt Hương


iii

MỤC LỤC
Trang
TRANG BÌA PHỤ
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................i
LỜI CẢM ƠN................................................................................................ ii
MỤC LỤC..................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài--------------------------------------------------------------------- 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ---------------------------------------------------------- 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ------------------------------------------------ 12
4. Nhiệm vụ và nhiệm vụ nghiên cứu ----------------------------------------------- 13
5. Phương pháp nghiên cứu: ---------------------------------------------------------- 14
6. Cấu trúc của luận văn: -------------------------------------------------------------- 14
7. Đóng góp của luận văn: ------------------------------------------------------------ 14
NỘI DUNG ...................................................................................................16
Chương 1. CỐT TRUYỆN TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐÊM HỘI

LONG TRÌ VÀ TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH CÙNG TÊN ...........................16
1.1. Nghệ thuật chuyển thể cốt truyện Đêm hội Long Trì ------------------------ 16
1.1.1. Khái niệm Cốt truyện trong văn học và điện ảnh ................................16
1.1.2. Sự tiếp thu và sáng tạo đường dây cốt truyện chuyển thể Đêm hội Long
Trì.........................................................................................................22
1.2. Thời gian và khơng gian nghệ thuật chuyển thể Đêm hội Long Trì-------- 29
1.3. Đêm hội Long Trì - Từ văn bản truyện đến kịch bản phim ----------------- 40

Tiểu kết chương 1 ........................................................................................47
Chương 2. THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ 48
2.1. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì ---------------------- 48
2.1.1. Chúa Trịnh Sâm ...................................................................................50
2.1.2. Quận chúa Quỳnh Hoa.........................................................................52
2.1.3. Tuyên phi Đặng Thị Huệ .....................................................................54


iv

2.1.4. Quận mã Đặng Lân ..............................................................................55
2.1.5. Các nhân vật hư cấu: Nguyễn Mại và Bảo Kim ..................................58
2.2. Hệ thống nhân vật trong phim điện ảnh Đêm hội Long Trì ----------------- 62
2.2.1. Tuyên phi Đặng Thị Huệ .....................................................................64
2.2.2. Quận mã Đặng Lân ..............................................................................66
2.2.3. Chúa Trịnh Sâm ...................................................................................68
2.2.4. Quận chúa Quỳnh Hoa.........................................................................70
2.2.5. Các nhân vật khác: Bảo Kim và Nguyễn Mại .....................................73
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................75
Chương 3. NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ NGƠN NGỮ ĐIỆN ẢNH
TRONG ĐÊM HỘI LONG TRÌ .................................................................77
3.1. Ngơn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì ------------------ 77
3.1.1. Ngôn ngữ miêu tả ................................................................................78
3.1.2. Ngôn ngữ đối thoại ..............................................................................82
3.2. Ngôn ngữ điện ảnh trong phim dã sử Đêm hội Long Trì -------------------- 87
3.2.1. Ngơn ngữ thị giác (hình ảnh) ...............................................................88
3.2.2. Ngơn ngữ thính giác (âm thanh) ........................................................107
3.2.3. Montage (Dựng phim) .......................................................................111
Tiểu kết chương 3 ......................................................................................113
KẾT LUẬN .................................................................................................114

TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................116
PHỤ LỤC


v

Hình 1: Bìa sách Đêm hội Long Trì do Nhà xuất bản
Kim Đồng ấn hành
Tiểu thuyết: Đêm hội Long Trì
Tác giả: Nguyễn Huy Tưởng
Năm ra mắt: 1942
Năm xuất bản: 1944
Bản khảo sát: Năm 2016 - Nhà xuất bản Kim Đồng - Hà Nội.


vi

Hình 2: Bìa đĩa phim truyện Đêm hội Long Trì do Phương
Nam Phim phát hành
Phim điện ảnh: Đêm hội Long Trì
Đạo diễn: Nghệ sĩ nhân dân Hải Ninh
Biên kịch: Lê Phương - Hoàng Nhuận Cầm
Diễn viên: Thế Anh vai Chúa Trịnh Sâm Tĩnh Đô Vương
Lê Vân vai Tuyên phi Đặng Thị Huệ
Thu Hà vai Quận chúa Quỳnh Hoa
Hoàng Thắng vai Quốc cữu Đặng Lân
Trọng Phan vai Nguyễn Mại
Vũ Đình Thân vai Bảo Kim
Và các diễn viên khác…



1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong các loại hình nghệ thuật, có thể nói, văn học và điện ảnh là hai
loại hình tiêu biểu và mang tính tổng hợp cao. Chất liệu của văn học là ngôn từ,
hay nói chính xác hơn, văn học sử dụng ngơn ngữ của con người làm phương
tiện xây dựng hình tượng phản ánh cuộc sống. Với lợi thế của ngơn từ, có tính
phi vật thể, miêu tả thế giới một cách gián tiếp, văn học có thể đề cập tới mọi
phương diện của đời sống xã hội một cách linh hoạt, đầy đủ và chính xác. Với
khả năng phản ánh cả hiện thực thế giới bên ngoài và nội tâm bên trong con
người, văn học giống như là một điểm giao thoa của nhiều loại hình nghệ thuật,
có tác động đến các loại hình nghệ thuật khác, trong đó có điện ảnh. Xuất hiện
vào cuối thế kỷ XIX, điện ảnh là loại hình nghệ thuật trẻ, đã nhanh chóng trở
thành loại hình quan trọng bậc nhất xét về tính quần chúng rộng lớn của nó, đáp
ứng cao nhu cầu thẩm mỹ của thời đại. Cũng như văn học, điện ảnh được xếp
vào loại hình nghệ thuật tổng hợp. Theo Henri Bernac, nó mang đến cho hàng
triệu người xem “ngôn từ của nhà văn, tranh của họa sĩ, diễn xuất của diễn viên
trên sân khấu, giai điệu của nhạc sĩ trong bản nhạc”[60]. Chất liệu của điện ảnh
mang tính chất vật thể, là hình ảnh và âm thanh, là sự hịa hợp của những thứ có
thể nghe thấy và nhìn thấy, giống như tái hiện thế giới cụ thể để kể một câu
chuyện. Bởi vậy, điện ảnh đã tiếp thu của văn học các yếu tố như: cốt truyện,
nghệ thuật kể chuyện, hệ thống tu từ… để tạo nên những tác phẩm độc đáo, hấp
dẫn. Ngược lại, văn học cũng tiếp nhận nhiều khái niệm, thủ pháp từ điện ảnh
như: điểm nhìn, cắt - ghép (montage) để cách tân nghệ thuật văn chương. Giữa
văn học và điện ảnh, có mối quan hệ vừa khác biệt, vừa tương đồng, trong khả
năng tái hiện lại bức chân dung muôn mặt của đời sống và chiều sâu nội tâm của
con người. Nhà phê bình điện ảnh Pháp Jean Miltry từng nói: “Tiểu thuyết là
một truyện kể tự cấu tạo mình trong thế giới, cịn điện ảnh là một thế giới tự cấu

tạo mình thành chuyện kể”[62]. Với đặc tính chịu ảnh hưởng của các loại hình


2

khác và giữa chúng có sự thâm nhập, ảnh hưởng lẫn nhau, cả văn học lẫn điện
ảnh đều có thế mạnh riêng trong việc tạo dựng lại thế giới và làm cho hình tượng
nghệ thuật trở nên sống động, hữu hình. Hay nói một cách đơn giản, trong văn
học có yếu tố điện ảnh, và ngược lại, trong điện ảnh có yếu tố của văn học.
Ngày nay, tác phẩm văn học chuyển thể điện ảnh đang là xu hướng trong
ngành công nghiệp phim ảnh tại nhiều quốc gia trên thế giới. Mối lương duyên
giữa văn học và điện ảnh đã tạo nên nhiều tác phẩm kinh điển trong lịch sử điện
ảnh thế giới nói chung và lịch sử điện ảnh Việt Nam nói riêng.
1.2. Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960) là nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng,
đã khẳng định được vị trí trên văn đàn Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng
Tám (1945). So với các tác giả cùng thời, Nguyễn Huy Tưởng cầm bút muộn
hơn, từ khoảng đầu những năm 1940, nhưng với lối viết tài hoa, bút lực đĩnh
đạc, dồi dào và nhiệt huyết, di sản văn học mà ông để lại thực sự đáng trân trọng,
không chỉ đa dạng về đề tài, thể loại, mà còn được đánh giá cao về mặt tư tưởng
và nghệ thuật. Ông viết nhiều thể loại: truyện ký, tiểu thuyết, kịch… với nhiều
đề tài: từ đề tài lịch sử, Thăng Long - Hà Nội, cuộc chiến tranh vệ quốc đến đề
tài dành cho thiếu nhi. Thể loại nào, đề tài nào của Nguyễn Huy Tưởng cũng tạo
được dấu ấn riêng với những tác phẩm xuất sắc, thể hiện niềm khát khao mãnh
liệt, muốn mượn văn chương để bày tỏ lòng u nước, “tơ điểm cho non sơng
những tịa đài hoa lệ lộng lẫy nhất trần gian” (kịch Vũ Như Tô). Trong đó, các
tác phẩm về đề tài lịch sử của ông có ảnh hưởng lớn trên văn đàn, được công
chúng yêu thích bởi lối tiếp cận, miêu tả, phản ánh lịch sử một cách độc đáo, tạo
nên âm hưởng sử thi hùng tráng hòa quyện với cảm thức lãng mạn, trữ tình. Ơng
được mệnh danh là “nhà chép sử bằng các tác phẩm văn học”. Nhà nghiên cứu
- nhà phê bình văn học, tiến sĩ Nguyên An từng nhận xét: “Nếu khơng có Nguyễn

Huy Tưởng thì văn học hiện đại Việt Nam, nhất là ở mảng lịch sử - truyền thống,
sẽ vơi đi sự bề thế, vẻ kỳ vĩ, tráng lệ và chất bi thương hào hùng” [64]. Có ý kiến
cho rằng, Nguyễn Huy Tưởng “đã mở đầu một cách thích đáng cho dịng văn


3

chương viết về truyền thống, về lịch sử trung đại Việt Nam trong nền văn chương
hiện đại Việt Nam”[69]. Ông là một trong những nhà văn vinh dự được nhận
Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (Đợt I) năm 1996.
1.3. Tiểu thuyết Đêm hội Long Trì của Nguyễn Huy Tưởng và bộ phim
điện ảnh Đêm hội Long Trì của đạo diễn Nghệ sĩ nhân dân Hải Ninh đều được
coi là những tác phẩm kinh điển của văn học và điện ảnh Việt Nam. Tiểu thuyết
Đêm hội Long Trì là câu chuyện về bi kịch trong gia đình chúa Trịnh Sâm với
sự thao túng của Tuyên phi Đặng Thị Huệ, đã đẩy cơ đồ đến họa suy vong. Dẫu
chỉ là một lát cắt lịch sử, song tác phẩm đã phản ánh một góc tối của lịch sử
nước nhà trong giai đoạn Trịnh - Nguyễn phân tranh kéo dài hơn một thế kỷ.
Đây là giai đoạn khá phức tạp khi trong bộ máy cầm quyền vừa có vua Lê, vừa
có chúa Trịnh, và cũng là một thời kỳ báo trước sự sụp đổ của chế độ phong kiến
Việt Nam. Tiểu thuyết đầu tay Đêm hội Long Trì được đăng tải trên tạp chí Tri
tân năm 1942 và xuất bản năm 1944 đã trở thành tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng
nhất của Nguyễn Huy Tưởng. Nhắc đến tác phẩm này, giáo sư Hà Minh Đức
viết: “Trong các tác phẩm về đề tài lịch sử, "Đêm hội Long Trì" cũng gây một
ấn tượng đặc biệt… Chất lãng mạn của ngòi bút Nguyễn Huy Tưởng có khả
năng tạo nên những bức tranh hoành tráng về đề tài lịch sử, tái hiện sinh hoạt
ở cung đình đan xen giữa những yếu tố truyền thống dễ chấp nhận và những mặt
tiêu cực của lối sống xa hoa, đan xen giữa những người tốt, quan lại liêm chính
với những kẻ gian thần độc ác, xảo trá”[58]. Năm 1989, khi được chuyển thể
thành tác phẩm điện ảnh, Đêm hội Long Trì đã gây tiếng vang lớn, được đánh
giá là bộ phim dã sử kinh điển nhất trong thế kỷ XX của điện ảnh Việt Nam.

1.4. Là một nhà báo công tác tại bộ phận chuyên về sản xuất phim của cơ
quan truyền hình, người viết luận văn chọn đề tài Đêm hội Long Trì - Từ tác
phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh để nghiên cứu nhằm tìm hiểu sâu hơn về
tiểu thuyết lịch sử Đêm hội Long Trì và bộ phim chuyển thể cùng tên. Thơng
qua đó, người viết luận văn có cơ hội thâm nhập sâu hơn vào cả hai lĩnh vực yêu


4

thích, cũng là hai lĩnh vực liên quan đến cơng việc của mình là văn học và điện
ảnh để khám phá những điều còn ẩn sâu trong mỗi tác phẩm, bổ sung thêm kiến
thức mới cho chính mình. Từ việc nghiên cứu những đặc trưng riêng biệt của
văn học và điện ảnh, chúng tơi muốn tìm hiểu một cách hệ thống và sâu sắc
hơn mối quan hệ qua lại, sự tương tác lẫn nhau của văn học và điện ảnh, góp
phần tìm ra tiếng nói chung giữa nhà văn và các tác giả điện ảnh trong việc bổ
sung, hỗ trợ nhau trong quá trình sáng tác.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Điểm lược một số cơng trình nghiên cứu về chuyển thể văn học và điện
ảnh ở Việt Nam và trên thế giới
Ngày 22/3/1895, khi anh em nhà Lumière tổ chức buổi chiếu phim đầu
tiên cho khán giả trong Salon Indian tại Grand Café ở Paris với những hình ảnh
về một chiếc xe lửa đang lăn bánh vào ga, cũng là lúc cả một ngành kỹ nghệ
phôi thai. Buổi chiếu này được coi là ngày khai sinh của điện ảnh, với tư cách
một môn nghệ thuật - nghệ thuật thứ bảy, và cũng với tư cách một ngành công
nghiệp - cơng nghiệp điện ảnh. Điện ảnh nhanh chóng trở thành loại hình nghệ
thuật lớn của thế kỷ XX và đến hôm nay vẫn đầy sức hấp dẫn, đúng như lời
Maxim Gorky, nhà văn Nga nổi tiếng đã từng nhận định về sức lôi cuốn của
nghệ thuật điện ảnh: “Không nghi ngờ gì nữa, tương lai nó sẽ chiếm một địa vị
xuất sắc trong đời sống” [63, tr.32].
Trong hành trình phát triển của mình, ngay từ những ngày đầu tiên, điện

ảnh đã có mối liên hệ chặt chẽ, tương tác với văn học. Mối quan hệ giữa văn học
và điện ảnh thể hiện rõ nhất qua hiện tượng chuyển thể. Từ những trích đoạn văn
học ban đầu, rồi dần dần là toàn bộ tác phẩm văn học được chuyển thể trở thành
tác phẩm điện ảnh, nhiều bộ phim từ những liên văn bản đã trở thành tác phẩm
nghệ thuật kinh điển, được cơng chúng đón nhận với nhiều giải thưởng danh giá.
Văn học luôn được coi là kho tàng vô giá cho các nhà điện ảnh khai thác, chuyển
thể, cải biên, xây dựng thành những kịch bản phim có giá trị. Trong cuốn sách


5

Film and Literature (Điện ảnh và văn học) của Timothy Corrigan, đã được
dịch và xuất bản vào năm 2013, tác giả cho rằng: “Lịch sử quan hệ giữa phim
ảnh và văn chương là một lịch sử yêu ghét lẫn lộn, đương đầu và phụ
thuộc lẫn nhau. Từ cuối thế kỉ XIX cho tới nay, hai cách nhìn và mơ tả thế
giới này đã nhiều lần khinh thường nhau, cứu rỗi nhau, và làm méo mó bản
ngã tự phong của nhau... Các cuộc tranh luận về việc điện ảnh đồng nghĩa
với văn học hay đi cùng với văn học đang tiếp diễn” [7, tr.4-8]. Dẫu có các
cuộc tranh luận, song vẫn phải khẳng định rằng: điện ảnh đã kế thừa rất nhiều
từ văn học, mà rõ nét nhất là muốn có một bộ phim, trước hết phải có kịch bản
văn học. Từ khi điện ảnh mới ra đời trong kỷ nguyên phim câm, đã có hàng
loạt các tác phẩm văn học được chuyển thể sang điện ảnh, có thể kể ra như: Ben
Hur, một bộ phim có độ dài chỉ 15 phút, sản xuất năm 1907, phiên bản điện
ảnh đầu tiên của cuốn tiểu thuyết của Roch Wallace mang tên: Ben - Hur: A
tale of the Christ, một trong những cuốn sách bán chạy nhất vào thời điểm
đó; Hoặc The count of Monte Cristo (Bá tước Monte Cristo) do hai nhà đạo
diễn Francis Boggs, Thomas Persons thực hiện năm 1908, được chuyển thể từ
tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Alexandre Dumas; Hay một bộ phim sử thi
rất nổi tiếng của đạo diễn D. W. Griffith có tên gọi: The birth of a nation (Sự ra
đời của một quốc gia, ban đầu còn được gọi là The Clansman), sản xuất năm

1915, được chuyển thể từ tiểu thuyết và vở kịch “The Clansman: An historical
romance of the Ku Klux Klan” đều của tác giả Thomas Dixon Jr….
Cuối những năm 1920, những bộ phim có âm thanh và tiếng nói bắt đầu
được sản xuất. Năm 1930, tuyển tập kịch bản điện ảnh đầu tiên của điện ảnh
Liên xô được xuất bản, đã khẳng định vai trò của kịch bản văn học trong sản
xuất tác phẩm điện ảnh. Theo nhận định của nhà nghiên cứu Iecgi Teplix trong
cuốn sách Lịch sử điện ảnh thế giới đã viết: “Điện ảnh với hình thức phổ biến
nhất của nó là phim truyện,…là giai đoạn hiện đại của sự phát triển nghệ thuật
kể chuyện,… là người kế thừa chủ yếu của tiểu thuyết” [32, tập 2, tr.9]. Trong


6

các giai đoạn phát triển của điện ảnh, người ta đều nhận thấy sự tác động tích
cực và tầm ảnh hưởng của văn học. Năm 1935, trong bài viết Văn học với điện
ảnh, nhà văn Maxim Gorky cho rằng nhà văn và đạo diễn là “hai lực lượng
không thể riêng biệt mà bổ sung, hỗ trợ cho nhau” [63, tr.33]. Những phương
thức cơ bản khi xây dựng tác phẩm của các tác giả văn học là tiền đề và trở thành
kinh nghiệm quan trọng cho các tác giả điện ảnh vận dụng trong việc xây dựng
kịch bản điện ảnh, tái hiện những câu chuyện, nhân vật từ trang sách lên màn
ảnh. Nếu như ngơn ngữ văn học có thể tác động trực tiếp đến người đọc để mang
lại cảm giác, trí tưởng tượng về nhân vật một cách vật chất, thì những điều đó
cũng là cơ sở khởi nguồn để các nhà làm phim tạo dựng nên những nhân vật
sống động trên màn ảnh. Các tác giả điện ảnh đã kế thừa, tiếp nhận những yếu
tố đặc sắc của tác phẩm văn học nguồn như: cốt truyện, nhân vật, tình tiết vào
phim chuyển thể, nhưng bên cạnh đó, dựa những yếu tố đặc thù của nghệ thuật
thứ bảy, họ còn sáng tạo thêm những yếu tố mới cho đứa con tinh thần để gửi
gắm nhân sinh quan, làm nên dấu ấn cá nhân riêng biệt. Chính những sự sáng
tạo này giúp một tác phẩm điện ảnh hiện hữu trên màn ảnh mang một diện mạo
hoàn toàn mới mẻ và đặc sắc. Chúng ta có thể kể đến những tác phẩm xuất sắc

trở thành kinh điển ngay cả khi là tác phẩm văn học hay một bộ phim điện ảnh,
như: Cuốn theo chiều gió, Ben Hur, Bố già, Những người khốn khổ, Khơng gia
đình, Đồi gió hú, Chiến tranh và hịa bình, Sơng Đơng êm đềm, Cao lương đỏ...
Cho tới nay, cũng đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về lý thuyết và
vấn đề chuyển thể điện ảnh từ văn học. Trong đó, có thể nói đến cuốn sách của
David Bordwell mang tên Lịch sử điện ảnh [4]; cuốn sách Lịch sử điện ảnh thế
giới [33] của Georges Sadoul; hoặc sách Lịch sử điện ảnh thế giới (3 tập) của
Iecgi Teplix [32]… với những thơng tin, phân tích về sự hình thành và phát triển
của điện ảnh thế giới. Kế tiếp là những cơng trình về lý luận, phê bình, kiến thức
chuyên ngành… được coi là những giáo trình bắt buộc cho sinh viên, hoặc những
người yên thích nghệ thuật điện ảnh, học tập viết kịch bản phim, viết về phim


7

và nghiên cứu về phim của rất nhiều nhà lý luận, nghiên cứu điện ảnh, các nhà
làm phim nổi tiếng. Như cuốn sách kinh điển về lý luận về nghệ thuật điện ảnh
mang tên Nghệ thuật điện ảnh của nhóm tác giả David Bordwell và Kirstin
Thompson [3]; hoặc các cuốn sách của Timothy Corrigan: Hướng dẫn viết về
phim [8], Điện ảnh và văn học - Dẫn luận và nghiên cứu [7]; sách của tác giả
Warren Buckland: Nghiên cứu phim (Film Studies) [5]; hay một tác phẩm nghiên
cứu của Mác-xen Mác-tanh về Ngơn ngữ điện ảnh [25]; hoặc có thể nghiên cứu
kỹ hơn về chuyển thể văn học và điện ảnh qua cuốn sách A theory of Adaptation
(Lý thuyết chuyển thể) của Linda Hutch [17]… Những cuốn sách này đã đưa ra
sự trình bày hồn chỉnh về những vấn đề dàn cảnh, dựng phim, âm thanh, sản
xuất, phát hành phim… và phê bình một số tác phẩm điện ảnh kinh điển làm
mẫu để người đọc và người học có thể bước đầu tiếp cận nghệ thuật điện ảnh
một cách dễ dàng. Khơng chỉ vậy, trong đó cịn có những phần dành cho việc
tìm hiểu, nghiên cứu về vấn đề chuyển thể, cải biên các tác phẩm văn học sang
các tác phẩm điện ảnh cả về lý luận, lý thuyết và thực hành.

Điện ảnh Việt Nam còn cách điện ảnh thế giới một khoảng khá xa. Tuy
nhiên, ngay từ khi ra đời, điện ảnh trong nước đã có được dấu ấn với nhiều bộ
phim được bạn bè quốc tế đánh giá cao, trong đó có nhiều bộ phim chuyển thể.
Cũng giống như điện ảnh thế giới, trong các chặng đường phát triển của mình,
ln thấy mối quan hệ chặt chẽ của điện ảnh và văn học Việt Nam. Nhà văn
Nguyễn Khắc Phục từng nói: “Nền điện ảnh khơng thể hùng mạnh được khi văn
xi kém. Chính nền văn xi sẽ cung cấp cho điện ảnh từ hình ảnh, ngơn
ngữ, tạo dựng tâm lí, tính cách nhân vật, thúc đẩy hành động, tình huống trong
phim ảnh. Kịch bản hay thì phim làm sẽ hay, sẽ có giá trị” [75].
Qua mỗi giai đoạn lịch sử của dân tộc, văn học đã cung cấp cho điện ảnh
những mẫu hình tượng nhân vật đa dạng, phong phú từ diện mạo đến tính cách.
Nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết đi sâu tìm hiểu con người Việt Nam qua
nhân vật trong văn học và điện ảnh ở nhiều phương diện, gắn với lịch sử thăng


8

trầm của dân tộc. Cải biên, chuyển thể các tác phẩm văn học thành tác phẩm
điện ảnh là một vấn đề luôn được đề cập đến khi nghiên cứu về văn học và
điện ảnh. Đến nay, đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết, bài báo đi
sâu vào tìm hiểu vấn đề này ở nhiều phương diện. Đáng chú ý, có một số cơng
trình nghiên cứu về chuyển thể tác phẩm văn học thành tác phẩm điện ảnh ở các
khía cạnh khác nhau. Đó là cơng trình nghiên cứu Chuyển thể văn học - điện ảnh
(Nghiên cứu liên văn bản) của tác giả Lê Thị Dương xuất bản năm 2016. Đây là
chuyên luận được phát triển từ Luận án Tiến sĩ của tác giả, nghiên cứu hiện
tượng chuyển thể từ góc độ liên văn bản, tức nghiên cứu tác phẩm văn chương
trong mạng tác phẩm nguồn cũng như tác phẩm cải biên (cải tác). Tác giả cho
rằng: “Sự dịch chuyển từ văn bản viết (thể kể) sang văn bản trình diễn địi hỏi
sự thay đổi phương tiện biểu đạt, từ đó dẫn đến sự thay đổi trong “tầm đón đợi”
của khán giả” [9, tr.92]. Ở một mức độ khác, nghiên cứu về vấn đề chuyển thể

văn học và điện ảnh theo lý thuyết cải biên, tác giả Đào Lê Na qua tác phẩm
Chân trời của hình ảnh (Từ văn chương đến điện ảnh qua trường hợp Kurosawa
Akira) đã tìm hiểu cải biên học trong sự phức hợp của các lý thuyết: liên văn
bản, giải kiến tạo, văn hóa học và phiên dịch học. Cải biên là một bộ phận của
liên văn bản, từ đó cho thấy sự dịch chuyển các ký hiệu từ văn bản nguồn là tác
phẩm văn học đến văn bản đích là tác phẩm điện ảnh. Hoặc tác giả Phan Bích
Thủy cũng có những nghiên cứu sâu sắc về vấn đề này với luận án tiến sĩ Từ tác
phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh (Khảo sát việc chuyển thể tác phẩm truyện
văn học thành phim truyện điện ảnh trong lịch sử văn học và điện ảnh Việt Nam)
[48] và luận văn thạc sĩ Nhân vật trung tâm từ tác phẩm văn học đến tác phẩm
điện ảnh [47]. Trong cơng trình luận án, tác giả đi theo hướng tìm hiểu mối
quan hệ giữa văn học và điện ảnh, đặc biệt các tác giả - chủ thể sáng tạo phim
chuyển thể điện ảnh từ văn học. Cịn trong cơng trình luận văn, tác giả chủ yếu
nghiên cứu hình tượng nhân vật đã có trong văn học và điện ảnh, bước đầu
hệ thống những đặc trưng giống và khác nhau trong việc xây dựng hình tượng
nhân vật trong tác phẩm văn học và điện ảnh. Tuy nhiên, đối với trường hợp


9

cụ thể là một tác phẩm chuyển thể cụ thể thì số lượng các cơng trình nghiên cứu
chun sâu có số lượng khơng nhiều. Như cơng trình luận văn của tác giả Phạm
Thị Thu Hương “Thời xa vắng” - từ văn học đến điện ảnh (dưới góc nhìn Tự sự
học) [46] và luận văn Nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh từ
phương diện cốt truyện và nhân vật (qua Trăng nơi đáy giếng và Cánh đồng bất
tận) [45] của tác giả Trần Thị Dung lại đi theo hướng tìm hiểu về Tự sự học điện
ảnh và vận dụng Tự sự học vào nghiên cứu hiện tượng phim chuyển thể nói
riêng và nghiên cứu điện ảnh nói chung.
Ngồi ra, trên báo chí cũng có rất nhiều bài báo tâm huyết như: Tiểu
Quyên với bài: Văn học - Điện ảnh: hiệu ứng cộng sinh [70]; Lê Cẩm Lượng

với bài: Cải biên tác phẩm văn học sang kịch bản điện ảnh [66]; hay bài viết
của Thi Thi: Văn học và điện ảnh: Những chuyển động thú vị [73]; hay Đỗ Ngọc
Yên có bài: Mối tơ duyên giữa điện ảnh và văn chương [77]; Huyền Thanh với
bài: Tác phẩm chuyển thể: những mặt mạnh và yếu [72]… đã trao đổi các quan
điểm về lý luận và thực tiễn, phân tích mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh
qua các bộ phim truyện chuyển thể. Bên cạnh đó, các tác giả cũng đi vào phân
tích cơ hội của văn học và điện ảnh Việt khi kết hợp với nhau để tạo nên những
tác phẩm có giá trị xứng tầm, đáp ứng được mong mỏi của những người yêu
nghệ thuật. Bài viết của Hoài Hương: Tác phẩm văn học - Kho vàng của điện
ảnh Việt [61]; hay bài viết của Như Thủy: Phim Việt: Lương duyên giữa văn học
và điện ảnh [74]…. đều cho rằng, “hầu hết các bộ phim điện ảnh và truyền hình
có kịch bản chuyển thể hoặc dựa theo tác phẩm văn học đều ít nhiều tạo được
ấn tượng tốt và chạm được tới cảm xúc của người xem, góp phần nâng cao chất
lượng của phim Việt Nam” [74]. Trong thực tế, mối duyên văn học - điện ảnh đã
cho ra đời nhiều tác phẩm điện ảnh đáng giá, thực sự là tài sản quý của bộ môn
nghệ thuật thứ bảy như: Vợ chồng A Phủ, Mẹ vắng nhà, Bến không chồng, Người
đàn bà mộng du, Thời xa vắng, Mùa len trâu, Trăng nơi đáy giếng, Chuyện của
Pao, Đừng đốt, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh…


10

2.2. Tiểu thuyết Đêm hội Long Trì và bộ phim điện ảnh cùng tên
Nguyễn Huy Tưởng khởi nghiệp bằng những tác phẩm viết về đề tài lịch
sử như: Vũ Như Tơ, An Tư, Đêm hội Long Trì, đăng trên tạp chí Tri tân, đã gây
được ấn tượng mạnh cho người đọc bởi một lối viết, lối khai thác, tiếp cận vấn
đề mới lạ, sâu sắc. Với vốn tri thức rộng và sâu, trong sáng tác của Nguyễn Huy
Tưởng, quá khứ dân tộc, lịch sử đất nước hiện lên thoạt như là những lát cắt,
song ẩn chứa trong đó cả một giai đoạn, thời kỳ lịch sử với nhiều biến cố, thăng
trầm, “lịch sử bao giờ cũng là sự kết nối từ quá khứ đến hiện đại, đó là sự song

hành hoặc tương phản giữa một bên là bạo lực của ngoại xâm, của cường quyền,
của những rối ren và náo động của xã hội, với một bên là sự mỏng manh, sự bấp
bênh của những số phận, những cuộc tình, những đam mê và khát vọng của con
người, trong đó chiếm vị trí trung tâm là người trí thức”[20, tr.97].
Đêm hội Long Trì khơng phải là tác phẩm đầu tiên của nhà văn Nguyễn
Huy Tưởng (trước đó, ơng đã viết kịch Vũ Như Tô), nhưng là tác phẩm sớm
nhất đưa ông đến với văn đàn. Tác phẩm hình thành từ năm 1942, đăng trên Tri
tân (từ 24/11/1942 đến 12/08/1943) và được in thành sách năm 1944. Tuy nhiên,
những trăn trở của tác giả về cuốn tiểu thuyết còn kéo dài đến những năm sau
này (1945), điều đó cịn được ghi lại trong nhật ký của nhà văn [55]. Không bao
giờ tự hài lịng với mình, ln cầu tiến, vươn tới sự hồn thiện, đó chính là cá
tính và ngun tắc sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng. Đêm hội Long Trì là dấu
ấn mở đầu để nhà văn Nguyễn Huy Tưởng ghi dấu tên tuổi của mình trên văn
đàn. Người đọc nhận thấy ở Nguyễn Huy Tưởng một ngịi bút có khuynh hướng
lịch sử khác biệt. Trong bức thư phúc đáp của ông chủ bút Tri tân gửi nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng đã khẳng định văn tài và phong cách riêng của ơng: “Thấy
ngài, vì cảm tình với Tri tân, ngỏ ý muốn gửi lên cho truyện Đêm hội Long Trì
để đăng vào trang tiểu thuyết, tôi rất hoan nghênh, một vì truyện ngài viết đó là
tiểu thuyết lịch sử rất hợp với tơn chỉ của Tri tân; hai vì cái văn tài của ngài
trong những bài như Diên Hồng hội nghị và Ý nghĩa việc thiên đô của Lý Thái


11

Tổ trong lịch sử Việt Nam đã làm cho độc giả Tri tân bấy nay vẫn nhắc nhở mến
phục. Bây giờ lại có thiên tiểu thuyết do chính ngài viết ra thì chắc sẽ làm bạn
đọc hài lịng lắm” [38; tr.167-168].
Khi nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Huy Tưởng, tiểu thuyết
Đêm hội Long Trì ln được nhắc đến như một dẫn chứng về tài hoa và khuynh
hướng của nhà văn. Có thể kể đến như: Chuyên luận Nguyễn Huy Týởng (19121960) của nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức, xuất bản năm 1966

[10]; Bộ sách Nguyễn Huy Týởng toàn tập (5 tập) do Nhà xuất bản Văn học ấn
hành năm 1996 [36]; Nguyễn Huy Týởng khát vọng một đời văn (Phýõng Ngân
tuyển chọn và biên soạn) [27]; Hay bộ 3 tập Nhật ký Nguyễn Huy Týởng [37]
đýợc Nhà xuất bản Thanh niên cho ra mắt năm 2006… Hầu hết đều có những
dịng, những phần nhắc đến tác phẩm Đêm hội Long Trì. Trong cuốn sách
Nguyễn Huy Týởng về tác gia, tác phẩm (Bích Thu, Tôn Thảo Miên tuyển
chọn giới thiệu), Giáo sư Hà Minh Đức đánh giá: “Tác phẩm đầu tay Đêm hội
Long Trì mở đầu cho quá trình sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, tác phẩm dựa
trên những tư liệu được đề cập đến trong Hồng Lê nhất thống chí và Việt Lam
Xn Thu, khai thác câu chuyện xoay quanh quan hệ giữa chúa Trịnh Sâm và
hai chị em Đặng Thị Huệ, Đặng Mậu Lân. Nguyễn Huy Tưởng không chỉ
muốn dừng sự việc lại ở đó. Anh muốn tìm đến một bàn tay dũng cảm vừa thể
hiện tinh thần công lý phù hợp với ý dân, vừa phải hợp với chân lý của lịch
sử để trừng trị kẻ tàn bạo” [39, tr.61].
Ngay từ khi ra đời, cuốn tiểu thuyết Đêm hội Long Trì đã được nhiều
người u thích và cho đến hơm nay, vẫn là một trong các tác phẩm được biết
đến nhiều nhất của Nguyễn Huy Tưởng. Tác phẩm đã được chuyển thể sang
chèo, cải lương và đặc biệt, năm 1989, đạo diễn Hải Ninh đưa cuốn tiểu thuyết
lên màn ảnh rộng càng góp phần phổ biến tác phẩm. Bộ phim đã trở thành tác
phẩm kinh điển của điện ảnh Việt Nam, khơng chỉ về mặt nội dung, nghệ thuật,
mà cịn được đánh là một trong những bộ phim cổ trang thành công nhất từ trước


12

đến nay. Rất nhiều bài viết đã nhắc đến thành công vang dội của bộ phim như:
Bài viết Đêm hội Long Trì trên màn ảnh của Hà Minh Đức [57]; bài Đêm hội
Long Trì - Một bộ phim thành cơng của Đinh Trọng Tuấn [76]; hay bài viết của
Thư Sinh “Đêm hội Long Trì” - nỗi lịng hậu thế gửi gắm đến ngàn xưa [71];
Huy Minh cũng có bài Đêm hội Long Trì - một lát cắt khơng thuộc về lịch sử

[67]; hoặc bài phê bình Nhân xem phim “Đêm hội Long Trì”, nghĩ về một lối
tiếp cận lịch sử [52] của Lại Nguyên Ân… đã phân tích, đánh giá những điểm
mới, lạ và hấp dẫn của bộ phim trên nền tác phẩm văn học gốc là tiểu thuyết
Đêm hội Long Trì. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân viết: “Nhưng xin trở lại với
phim Đêm hội… Ngoài mọi điều khác, ta cịn có thể cảm ơn các nhà làm phim
đã cho chúng ta được dịp cảm nhận một phần thế giới của Nguyễn Huy Tưởng,
xem cách ông bày các nhân vật lịch sử vào thế giới tiểu thuyết của ông ra sao
và qua đó nghĩ ngợi thế nào về các nguyên nhân của tiến trình lịch sử” [52].
Sau khi tham khảo những cuốn sách, cơng trình khoa học, luận văn của
nhiều tác giả và các bài viết báo chí, chúng tơi nhận thấy rằng đề tài: Đêm hội
Long Trì - Từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh là một đề tài hay, có
giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn, đó là nghiên cứu tiểu thuyết Đêm hội Long
Trì và bộ phim điện ảnh cùng tên một cách đầy đủ từ văn bản văn học đến phim
chuyển thể. Luận văn của chúng tôi được thực hiện sẽ góp thêm một nghiên cứu
có tính hệ thống và sâu sắc về giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của tiểu
thuyết Đêm hội Long Trì và bộ phim dã sử cùng tên. Từ đó, khẳng định rõ hơn
mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh trong dòng chảy nghệ thuật nước nhà.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tiểu thuyết Đêm hội Long Trì và phim điện ảnh Đêm hội Long
Trì trên hai phương diện: từ văn bản truyện đến kịch bản phim và những yếu tố
làm nên thành công của cả hai tác phẩm.
3.2. Phạm vi nghiên cứu



×