BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHAN BÍCH THỦY
TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC
ĐẾN TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH
Khảo sát việc chuyển thể tác phẩm truyện văn học thành phim truyện
điện ảnh trong lịch sử văn học và điện ảnh Việt Nam
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Thành phố Hồ Chí Minh-2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHAN BÍCH THỦY
TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC
ĐẾN TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH
Khảo sát việc chuyển thể tác phẩm truyện văn học thành phim truyện
điện ảnh trong lịch sử văn học và điện ảnh Việt Nam
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 62 22 34 10
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Thành phố Hồ Chí Minh-2012
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan nội dung của luận án này được hình thành và phát
triển từ những quan điểm của cá nhân tôi, được xuất phát từ yêu cầu trong
công tác giảng dạy tại trường Đại học Sân khấu Điện ảnh thành phố Hồ Chí
Minh, để hình thành hướng nghiên cứu. Các kết quả trình bày trong luận án
là trung thực và chưa từng được công bố. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm.
Phan Bích Thủy.
MỤC LỤC
Lời cam đoan ....................................................................................3
MỤC LỤC.........................................................................................4
CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN ÁN .............................7
MỞ ĐẦU ..........................................................................................8
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI .................................................................................................. 8
2.MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ............................................................... 9
3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ............................................................................. 10
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU............................................................. 17
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................................................ 18
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN ............................................................. 19
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN ....................................................................................... 19
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC CHUYỂN THỂ 20
TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG PHIM TRUYỆN ĐIỆN ẢNH 20
1.1 VĂN HỌC - ĐIỆN ẢNH VÀ HỆ THỐNG CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ .................. 20
THUẬT .............................................................................................................................. 20
1.1.1 NGHỆ THUẬT VÀ HỆ THỐNG CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT ..... 20
1.1.2 MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HỌC VÀ ĐIỆN ẢNH ............................... 22
1.2 VĂN HỌC – ĐIỆN ẢNH VÀ MỐI QUAN HỆ ĐỒNG NHẤT CÙNG .................. 23
MỘT HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI ............................................................................ 23
1.3 VĂN HỌC – ĐIỆN ẢNH VÀ MỐI QUAN HỆ TƯƠNG ĐỒNG ........................... 26
1.3.1 SỰ TƯƠNG ĐỒNG CỦA HAI LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT VĂN........ 26
HỌC VÀ ĐIỆN ẢNH .......................................................................................... 26
1.3.2 SỰ TƯƠNG ĐỒNG VỀ PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ GIỮA THỂ LOẠI
TRUYỆN (VĂN HỌC) VÀ PHIM TRUYỆN (ĐIỆN ẢNH) ............................. 46
1.4 VĂN HỌC – ĐIỆN ẢNH VÀ MỐI QUAN HỆ KHÁC BIỆT ................................ 61
1.4.1 KHÁC BIỆT VỀ ĐẶC TRƯNG HÌNH THÁI HỌC NGÔN NGỮ ........... 61
1.4.2 KHÁC BIỆT VỀ ĐẶC TRƯNG CHỦ THỂ SÁNG TẠO ......................... 66
1.4.3 KHÁC BIỆT VỀ ĐẶC TRƯNG TÂM LÝ SÁNG TÁC VÀ CẢM THỤ . 68
1.4.4 KHÁC BIỆT VỀ PHƯƠNG THỨC PHƯƠNG TIỆN TẠO RA TÁC ...... 71
PHẨM .................................................................................................................. 71
CHƯƠNG 2: CƠ CHẾ VÀ QUY TRÌNH THỰC HIỆN VIỆC
CHUYỂN THỂ TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG PHIM
TRUYỆN ĐIỆN ẢNH....................................................................76
2.1 CƠ CHẾ SÁNG TẠO PHIM TRUYỆN ĐIỆN ẢNH............................................... 76
2.1.1 NHÀ VĂN VÀ TÁC PHẨM VĂN HỌC CHUYỂN THỂ ........................ 76
2.1.2 BA NGÀNH CHỨC NĂNG TRONG SÁNG TẠO PHIM TRUYỆN ...... 79
2.2 NHỮNG YẾU TỐ CƠ BẢN TRONG QUÁ TRÌNH CHUYỂN THỂ TÁC PHẨM
VĂN HỌC SANG KỊCH BẢN ĐIỆN ẢNH. ................................................................... 97
2.2.1 XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT ............................................... 97
2.2.2 XÂY DỰNG HOÀN CẢNH ( BỐI CẢNH ) ........................................... 108
2.2.3 XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN ................................................................... 115
2.2.4 KỊCH BẢN TRONG PHIM TRUYỆN ĐIỆN ẢNH ............................... 122
2.3 QUY TRÌNH THỰC HIỆN VIỆC CHUYỂN THỂ TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC
SANG PHIM TRUYỆN ĐIỆN ẢNH ............................................................................. 129
2.3.1 NHỮNG CÔNG VIỆC CHUẨN BỊ CHO QUY TRÌNH SẢN XUẤT
PHIM TRUYỆN ................................................................................................ 129
2.3.2 QUY TRÌNH SẢN XUẤT PHIM TRUYỆN ĐIỆN ẢNH ....................... 136
CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ THÀNH TỰU CỦA PHIM TRUYỆN
CHUYỂN THỂ TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC .......................... 143
3.1 NHỮNG BỘ PHIM CHUYỂN THỂ TỪ VĂN HỌC IN DẤU ẤN....................... 143
TRONG LỊCH SỬ ĐIỆN ẢNH THẾ GIỚI .................................................................. 143
3.1.1 THỜI KỲ PHIM CÂM ............................................................................. 144
3.1.2 THỜI KỲ PHIM CÓ ÂM THANH ĐẾN NAY ....................................... 146
3.2 PHIM TRUYỆN CHUYỂN THỂ TỪ VĂN HỌC TRONG LỊCH SỬ ................ 153
ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM.................................................................................................. 153
3.2.1 NHỮNG BỘ PHIM TRUYỆN CHUYỂN THỂ QUA CÁC THỜI KỲ .. 153
CỦA ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM. ......................................................................... 153
3.2.2 NHỮNG THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ CỦA MỘT SỐ PHIM
TRUYỆN CHUYỂN THỂ VIỆT NAM. .......................................................... 164
3.3 MỘT SỐ PHIM TRUYỆN CHUYỂN THỂ TIÊU BIỂU CỦA ĐIỆN ................. 181
ẢNH VIỆT NAM. ........................................................................................................... 181
3.3.1 CON CHIM VÀNH KHUYÊN ................................................................ 181
3.3.2. CHỊ TƯ HẬU .......................................................................................... 183
3.3.3 TƯỚNG VỀ HƯU .................................................................................... 186
3.3.4 BẾN KHÔNG CHỒNG ............................................................................ 188
3.3.5 ĐỜI CÁT .................................................................................................. 193
3.3.6. THỜI XA VẮNG .................................................................................... 198
3.3.7 ĐỪNG ĐỐT ............................................................................................. 202
KẾT LUẬN .................................................................................. 208
TÀI LIỆU THAM KHẢO. ......................................................... 214
CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN ÁN
ĐANN:
Điện ảnh ngày nay (Tạp chí)
ĐAKT. VN:
Điện ảnh kịch trường Việt Nam (Tạp chí)
ĐATP. HCM:
Điện ảnh thành phố Hồ Chí Minh (Tạp chí)
ĐHSP.TP.HCM: Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
HN:
Thủ đô Hà Nội
LHP:
Liên hoan phim
LHP QG:
Liên hoan phim Quốc gia
LHP QT:
Liên hoan phim Quốc tế
LHP VN:
Liên hoan phim Việt Nam
Nxb:
Nhà xuất bản
NTĐA:
Nghệ thuật điện ảnh (Tạp chí)
TCĐA:
Toàn cảnh điện ảnh Việt Nam và Thế giới (Tạp chí)
TGĐA:
Thế giới điện ảnh (Tạp chí)
TP.HCM:
Thành phố Hồ Chí Minh
tr:
Trang
VN:
Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Văn hóa dân tộc là sự chắt lọc tinh túy nhất từ quan niệm sống, giao
tiếp ứng xử của con người trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Văn hóa cũng
là cái hữu hình và cái vô hình trong quan hệ giữa con người với nhau, với
thiên nhiên và ngay trong bản thân con người. Qua văn học nghệ thuật những
nét đẹp của văn hóa truyền thống dân tộc không những được thể hiện sinh
động mà còn được gìn giữ, bảo tồn và thăng hoa trong ý nghĩa nhân văn cao
cả.
Các tác phẩm văn học luôn là sự tìm tòi, khám phá những bí ẩn, những
trăn trở về cuộc đời, về thân phận con người để con người nghiền ngẫm,
chiêm nghiệm. Con người và đời người luôn là vấn đề văn học quan tâm
hàng đầu, “Lịch sử văn học chính là lịch sử tâm hồn nhân loại… nhiệm vụ
chủ yếu và lâu dài của văn học trong việc phản ánh hiện thực vẫn là mô tả số
phận con người, khắc họa tính cách con người” (Lê Thanh Nghị) [99, tr.45].
Đó cũng là mục tiêu chung của các loại hình nghệ thuật, trong đó có điện
ảnh.
Vì vậy, kể từ khi nghệ thuật điện ảnh ra đời đến nay, việc chuyển thể
những tác phẩm văn học nổi tiếng trên thế giới ngày càng trở nên phổ biến và
nhiều bộ phim chuyển thể văn học đã là những tác phẩm điện ảnh kinh điển.
Tương tự, trong điện ảnh Việt Nam lúc hoàng kim cũng như lúc khủng
khoảng, năm nào cũng có hơn một nửa số phim truyện được chuyển thể từ
văn học. Những kinh nghiệm của các thế hệ nhà văn, đạo diễn khi đưa tác
phẩm văn học lên màn ảnh rất phong phú và có giá trị thực tiễn cao, đóng góp
một phần lớn cho sự phát triển của điện ảnh thế giới nói chung và Việt Nam
nói riêng.
Số lượng phim chuyển thể từ văn học nở rộ ở hầu hết các thể loại phim
truyện và luôn được người xem chào đón nhiệt tình. Có nhiều nguyên nhân
đem lại thành công cho phim truyện chuyển thể từ văn học, một nguyên nhân
nổi bật không thể phủ nhận là các tác phẩm văn học đã mang đến cho phim
truyện một sức mạnh nội tại mạnh mẽ, sức mạnh tư tưởng của bộ phim. Tuy
nhiên, so với điện ảnh thế giới những bộ phim truyện chuyển thể thành công
từ tác phẩm văn học của điện ảnh Việt Nam còn khá khiêm tốn.
Chọn đề tài Từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh, người viết
không ngoài mong muốn được hiểu rõ và yêu hơn vẻ đẹp lung linh từ những
trang viết đến hình ảnh được tái hiện trên màn ảnh. Từ đó, đi sâu tìm hiểu quá
trình chuyển thể từ tác phẩm văn học sang phim truyện điện ảnh và sự ảnh
hưởng sâu sắc của văn học đối với điện ảnh. Cùng với các công trình khoa
học khác, luận án góp thêm tiếng nói khẳng định sự ảnh hưởng của văn học
đối với điện ảnh, đặc biệt những đóng góp của lí luận văn học và tác phẩm
văn học trong quá trình sản xuất phim truyện điện ảnh. Qua đó, đưa ra những
giải pháp nhằm nâng cao giá trị của phim chuyển thể văn học, để điện ảnh
nước nhà có thêm nhiều bộ phim truyện xứng tầm trong xu thế hội nhập quốc
tế hiện nay.
2.MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
2.1.MỤC ĐÍCH
Trong quá trình hình thành và phát triển, nghệ thuật điện ảnh có nhiều
điểm chung về chức năng đối tượng phản ánh, về mỹ học cơ bản, về văn
hóa… với các ngành nghệ thuật khác. Đặc biệt, có một điểm chung bao trùm
là “Trong nghệ thuật những chuẩn mực Chân – Thiện – Mỹ đã và đang còn
lâu dài là định hướng và nội dung của sáng tạo nghệ thuật ”(Hồ Sĩ Vịnh)
[172, tr.83]. Nội dung đó in dấu ấn đậm nét qua những tác phẩm văn học và
phim truyện chuyển thể điện ảnh. Đề tài nghiên cứu của luận án góp phần
giúp tất cả những ai quan tâm đến vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang
tác phẩm điện ảnh có thêm sự hiểu biết về mối quan hệ giữa văn học và điện
ảnh, đặc biệt các tác giả - chủ thể sáng tạo phim chuyển thể điện ảnh từ văn
học.
Là một giảng viên văn học trong trường nghệ thuật, tôi luôn khát khao
được chiếm lĩnh một cách đầy đủ, trọn vẹn những kiến thức văn học và điện
ảnh trong quá trình sáng tạo phim truyện chuyển thể từ văn học. Qua đó trau
dồi thêm kiến thức văn học và điện ảnh trong quá trình giảng dạy, để truyền
thụ cho sinh viên, những giá trị đích thực của tác phẩm nghệ thuật, giúp họ có
định hướng đúng về tư tưởng và thẩm mỹ trong sáng tạo tác phẩm nghệ thuật.
2.2.NHIỆM VỤ
Thông qua phim truyện điện ảnh chuyển thể, mối quan hệ giữa nghệ
thuật văn học và điện ảnh ngày càng trở nên gắn bó và giá trị của tác phẩm
văn học một lần nữa được khẳng định và thăng hoa. Đúng như nhà văn Chu
Lai nhận xét: “Văn học và điện ảnh - Cuộc nhân duyên này đã nằm ngay từ
trong bản chất ” [75, tr.23]. Cho nên, việc nghiên cứu những cặp tác phẩm
văn học và điện ảnh nhằm đúc kết lí luận và thực thực tiễn, đưa ra một số
nhiệm vụ sau:
- Đánh giá những ảnh hưởng tác động to lớn và tích cực của lý luận
văn học và tác phẩm văn học trong việc xây dựng kịch bản văn học điện ảnh
và phim truyện chuyển thể điện ảnh.
- Phân tích sự tương đồng gần gũi và khác biệt cơ bản giữa tác phẩm
văn học và phim truyện điện ảnh, để từ đó thấy được quá trình sáng tạo nghệ
thuật trong văn chương và điện ảnh đều vô cùng vất vả, đòi hỏi người nghệ sĩ
phải có ý thức, tinh thần trách nhiệm cao.
- Qua đó, giúp sinh viên, khán giả yêu nghệ thuật có thêm sự hiểu biết
sâu sắc về công việc của các tác giả sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật.
3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Điện ảnh xuất hiện khi những loại hình nghệ thuật khác như Điêu khắc,
Hội họa - đồ họa, Văn chương, Âm nhạc, Múa, Sân khấu đã phát triển đến độ
chín. Vì vậy, điện ảnh có cơ hội vận dụng những phương tiện nghệ thuật sẵn
có, đồng thời tự tạo cho mình những kỹ thuật và phương pháp biểu hiện mới
hiện đại phong phú. Thành công của một tác phẩm điện ảnh là thành công
của sự kết hợp nhuần nhuyễn và tuyệt vời giữa các loại hình nghệ thuật, cùng
với các ngành khoa học kỹ thuật và công nghệ.
Trong các công trình mỹ học và lí luận nghệ thuật đã nêu rõ vấn đề
mối quan hệ giữa các loại hình nghệ thuật. Trong Mỹ học cơ bản và nâng
cao, Ôpxiannhicốp (chủ biên) đã phân tích: “Sự tác động qua lại của các
nghệ thuật dẫn tới trao đổi lẫn nhau, các thành tựu và đặc điểm đặc thù, dẫn
đến ảnh hưởng của một số nghệ thuật này đến các nghệ thuật khác”, và “Đặc
trưng của mỗi nghệ thuật hình thành do ảnh hưởng của toàn bộ hệ thống
nghệ thuật nói chung” [112, tr.482, 484]. Trong Nguyên lý lý luận văn học
của Timôphêep và Dẫn luận nghiên cứu văn học của Pôxpêlốp cũng nêu vấn
đề mối quan hệ giữa văn học và các loại hình nghệ thuật. Cùng nội dung trên,
có tài liệu bài giảng Văn học và các loại hình nghệ thuật của Lâm Vinh [168]
và công trình nghiên cứu của Lê Lưu Oanh [113].
Trong các loại hình nghệ thuật, văn học và điện ảnh có mối quan hệ
đặc biệt ngay từ những ngày đầu điện ảnh mới hình thành. Điều này, thể hiện
rõ qua lịch sử hình thành và phát triển của điện ảnh thế giới và Việt Nam.
3.1. TRÊN THẾ GIỚI
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi khoa học kỹ thuật phát triển,
nghệ thuật điện ảnh ra đời. Ban đầu là những trích đoạn văn học, rồi dần dần
toàn bộ tác phẩm văn học được chuyển thể sang điện ảnh. Hàng loạt các tác
phẩm văn học được chuyển thể sang điện ảnh ngay từ thời kỳ phim câm. Các
nhà nghiên cứu điện ảnh đều khẳng định: phim truyện là sự kế thừa những
phương cách xây dựng câu chuyện phim từ văn học, muốn có một bộ phim
truyện, đầu tiên phải có kịch bản văn học, trước khi được quay và dựng thành
phim. Trong Lịch sử điện ảnh thế giới, tác giả Iêc-Gi Te-Plix viết: “Điện ảnh
với hình thức phổ biến nhất của nó là phim truyện,…là giai đoạn hiện đại
của sự phát triển nghệ thuật kể chuyện,… là người kế thừa chủ yếu của tiểu
thuyết” [33, tr.9]
Ngay từ năm 1915, M.Gorki nhà văn Nga nổi tiếng (người có gần 20
tác phẩm văn học được dựng thành phim) đã nhận định về sức lôi cuốn của
nghệ thuật điện ảnh và khẳng định: “Không nghi ngờ gì nữa, tương lai nó sẽ
chiếm một địa vị xuất sắc trong đời sống” [80, tr.32]. Năm 1919, V.Lênin đã
ký sắc lệnh quốc hữu hóa ngành điện nhiếp ảnh, là bước ngoặt lịch sử của
điện ảnh Nga. Đây là nền điện ảnh có ảnh hưởng rất lớn đến điện ảnh Việt
Nam sau này, vì hầu hết các nghệ sĩ Việt Nam được đào tạo tại Liên xô cũ.
Kịch bản văn học điện ảnh là biểu hiện cụ thể của tính văn học trong
điện ảnh. Những yếu tố cơ bản của tác phẩm văn học cũng là những yếu tố cơ
bản trong kịch bản văn học điện ảnh như xây dựng bối cảnh, cốt truyện và
đặc biệt là tạo dựng hình tượng nhân vật… Các yếu tố trên được định hình
trên giấy trước khi được chuyển hóa thành câu chuyện trên màn ảnh.
Năm 1930, tuyển tập kịch bản điện ảnh đầu tiên được điện ảnh Liên
xô cho ra đời, đã khẳng định vai trò vững chắc về tư tưởng và nghệ thuật của
kịch bản văn học trong sản xuất tác phẩm phim truyện điện ảnh.
Năm 1935, trong bài viết Văn học với điện ảnh, nhà văn M.Gorki kêu
gọi các nhà văn nên tham gia vào công tác điện ảnh và nhà văn, đạo diễn là
“hai lực lượng không thể riêng biệt mà bổ sung, hỗ trợ cho nhau” [80, tr.33].
Những chuyên luận của nhà nghiên cứu Nga M.Bakhtin như Lý luận
và thi pháp tiểu thuyết, Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki… Những phương
thức cơ bản trong xây dựng tác phẩm của văn học đã là tiền đề cho các tác
giả điện ảnh trong việc tái hiện những câu chuyện, nhân vật từ trang sách lên
màn ảnh. Trong cuốn Bàn về văn học, M.Gorki đã nhận xét: “Bằng ngôn ngữ
tiểu thuyết nhà văn có thể tác động trực tiếp đến tri giác, thính giác, xúc giác
của người đọc, làm cho họ cảm giác được nhân vật một cách vật chất ” [34,
tập1, tr.156]. Những hình tượng nhân vật được vật chất hóa qua trí tưởng
tượng đã làm độc giả say mê, và là cơ sở khởi nguồn để các tác giả điện ảnh
tạo dựng nên những nhân vật sống động trên màn ảnh. Những tác phẩm văn
học nổi tiếng bao giờ cũng có những nhân vật ấn tượng, khiến người xem yêu
mến và mong mỏi được “gặp gỡ” nhân vật “bằng xương bằng thịt” trên màn
ảnh.
Bên cạnh những công trình lý luận của văn học, những tài liệu điện ảnh
phong phú đã cung cấp khá đầy đủ những kiến thức điện ảnh cơ bản như Lịch
sử điện ảnh thế giới của Iêc-Gi Te-Plix (Vũ Quang Chính dịch). 20 bài học
điện ảnh của Laurent Tirard (Hải Linh -Việt Linh dịch). Để viết một kịch bản
điện ảnh của Michel Chion (Phương Thư dịch). Ngôn ngữ điện ảnh và truyền
hình của Bruno Toussant (bản dịch), do Hội điện ảnh Việt Nam xuất bản.
Giáo trình chuyên ngành điện ảnh Nghệ thuật điện ảnh của David Bordwel và
Kristin Thompson (nhiều tác giả dịch), cung cấp khá toàn diện những lí luận
cơ bản và lịch sử của nghệ thuật điện ảnh gồm sáu phần: Sản xuất phát hành
và chiếu phim, Hình thức phim, Các loại hình phim, Phong cách phim, Phân
tích phê bình phim, Lịch sử phim ảnh…và nhiều công trình nghiên cứu khác.
Trong quá trình hình thành và phát triển, điện ảnh luôn gắn bó với văn
học qua từng thời kỳ: phim câm, phim có tiếng nói, phim có màu và ngày nay
là phim hiện đại 2D, 3D, 4D… Thời kỳ nào cũng có những bộ phim chuyển
thể văn học xuất sắc, để lại những dấu ấn ngoạn mục trong lịch sử điện ảnh
thế giới. Đó là những tác phẩm điện ảnh mẫu mực như Cuốn theo chiều gió,
Ben Hur, Bố già, Titaníc (Mỹ), Bác sĩ Zhivago (Ý), Những người khốn khổ,
Không gia đình (Pháp), Triệu phú khu ổ chuột (Anh), Chiến tranh và hòa
bình, Sông Đông êm đềm (Nga), Thủy hử, Cao lương đỏ (Trung Quốc)…
3.2. Ở VIỆT NAM
Điện ảnh Việt Nam ra đời năm 1953, khi điện ảnh thế giới đã phát triển
ở trình độ khá hoàn chỉnh cả về màu sắc và âm thanh. Gần 60 năm qua,
những bộ phim truyện chuyển thể thành công của điện ảnh Việt Nam đã được
đánh giá cao trong nước và quốc tế như Chị Tư Hậu, Con chim vành khuyên,
Thời xa vắng, Tướng về hưu, Đời cát, Đừng đốt…Điện ảnh kế thừa các
phương pháp xây dựng kịch bản phim truyện từ văn học, trong đó quan trọng
nhất là phương pháp tự sự, khi kể lại câu chuyện văn học lên màn ảnh. Cho
nên, “Trong lúc tuân theo các yêu cầu thể hiện có tính đặc thù của ngôn ngữ
điện ảnh. Kịch bản văn học điện ảnh vẫn không để mất những tiêu chuẩn của
một tác phẩm văn học hoàn chỉnh”(Trần Luân Kim)[102, tr.3]. Và“…những
tiêu chuẩn của một tác phẩm văn học hoàn chỉnh” trong kịch bản văn học
điện ảnh đã làm nên mối quan hệ gần gũi giữa văn học và điện ảnh trong sáng
tác phim truyện.
Những công trình khoa học của các nhà nghiên cứu văn học trong nước
như Lý luận văn học của Hà Minh Đức cung cấp cho đề tài những kiến thức lí
luận về: “Nghệ thuật – Một hình thái ý thức xã hội đặc thù”, “Nghệ thuật và
đời sống xã hội ”…Công trình Văn học…xa và gần của Hoàng Ngọc Hiến
phân tích những: “Quan điểm tiếp cận văn học và quan điểm tiếp cận thực tế
của Hồ Chủ tịch”,“Chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo”…Công
trình Trên đường nghiên cứu và giảng dạy tác phẩm văn chương của Đặng
Thai Mai cung cấp những kiến thức lý luận văn học như “Nội dung và hình
thức”,, “Ý nghĩa của hai thời kỳ lớn trong lịch sử văn học Việt Nam”… Công
trình Phê bình nghiên cứu văn học của Lê Đình Kỵ với những kiến thức lý
luận như “Chân lý nghệ thuật”, “Vấn đề là chất lượng,”…Công trình Tự sự
học – Một số vấn đề lý luận và lịch sử, Tự sự học – Từ kinh điển đến hậu kinh
điển, Tự sự học – Một bộ môn nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng của
Trần Đình Sử cung cấp những lý luận về tự sự. Công trình Lý luận và văn
học của Lê Ngọc Trà, đã phân tích những vấn đề mang tính triết lý sâu sắc
như “Nghệ thuật – Tiếng nói của con người ,“Về vấn đề văn học phản ánh
hiện thực”, “Vấn đề con người trong văn học” và đặc biệt vai trò của người
“nghệ sĩ ” trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Công trình Lý luận văn học
xuất bản năm 2010, của Huỳnh Như Phương cung cấp những kiến thức như
“Văn học và ngôn ngữ ”, “Nhà văn và sáng tạo văn học ”, “Người đọc và tiếp
nhận văn học ”… Các tài liệu, công trình khoa học trên đã đặt ra một loạt vấn
đề thiết thực, có ý nghĩa lý luận và thời sự của đời sống xã hội và đặc trưng
hoạt động sáng tạo của người nghệ sĩ Việt Nam trong hoàn cảnh Việt Nam.
Qua mỗi giai đoạn lịch sử của dân tộc, văn học đã cung cấp cho điện
ảnh những mẫu hình tượng nhân vật đa dạng, phong phú từ diện mạo đến
tính cách. Nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đi sâu tìm hiểu con người
Việt Nam qua nhân vật trong văn học và điện ảnh ở nhiều phương diện, gắn
với lịch sử thăng trầm của dân tộc. Mai Quốc Liên đã đề cập đến vấn đề này
qua bài: Góp một cái nhìn về bản sắc dân tộc trong điện ảnh [76]. Lại
Nguyên Ân với bài: Nhân xem phim Đêm hội long trì nghĩ về một lối tiếp cận
lịch sử [6, tr.395]. Hồ Sĩ Vịnh với bài: Nghĩ về phim truyện Việt Nam [173]…
Các công trình lý luận về điện ảnh không nhiều như văn học, nhưng đã
cung cấp những kiến thức cơ bản về điện ảnh như Đường vào điện ảnh của
Lê Dân cung cấp một số vấn đề lý luận như“Bản sắc văn hóa dân tộc trong
tác phẩm điện ảnh”,“Thể hiện truyền thống nhân nghĩa trong phim
truyện”… Công trình Nghệ thuật làm phim, diễn viên & kịch bản của Lê Dân
đã cung cấp những kiến thức về quy trình làm phim, kịch bản và diễn viên.
Trong Hồi ký điện ảnh, Đặng Nhật Minh phân tích công việc của biên kịch và
đạo diễn điện ảnh và những kinh nghiệm trong quá trình làm phim. Các công
trình khác như Đặc trưng ngôn ngữ điện ảnh của Bùi Phú, Lịch sử điện ảnh
cách mạng Việt Nam (sơ khảo) do Cục điện ảnh xuất bản, Tính hiện đại và
tính dân tộc trong điện ảnh của Ngô Phương Lan, Nghệ thuật quay phim điện
ảnh của Dương Quang Viễn, Dạo chơi vườn điện ảnh và Ý tưởng nghề
nghiệp của Việt Linh, Làm sao viết kịch bản phim của Phạm Thùy Nhân…
Năm 2011, trong Nhận thức điện ảnh, Trần Luân Kim đúc kết nhiều lý
luận sâu sắc về điện ảnh và mối quan hệ đặc biệt của điện ảnh với văn học.
Nhà nghiên cứu khẳng định: “Tính văn học trong điện ảnh chiếm vị trí mấu
chốt vì nó quyết định nội dung tác phẩm, đồng thời cũng quyết định hình thức
thể hiện thông qua việc xác lập thể loại và xây dựng hình tượng nhân vật.”
[55, tr.23]
Tác phẩm văn học đã trở thành nguồn nguyên liệu quý giá, phong phú,
là cơ sở vững chắc cần thiết trong xây dựng những kịch bản văn học cho
phim truyện. Chu Lai, một nhà văn có nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết đã được
đưa lên màn ảnh, nhận xét: “Một tác phẩm điện ảnh hay bao giờ cũng có một
giá trị văn học…Văn học là cái nền, điện ảnh bay lên từ cái nền vững chắc
đó”[75, tr.8].
Vấn đề này đã được nhiều nhà văn, đạo diễn và giới chuyên môn đã
trao đổi qua các cuộc hội thảo, bài viết tâm huyết như Nguyễn Mai Loan với
bài: Phim chuyển thể - Những khái niệm [79].Lê Cẩm Lượng với bài: Cải
biên tác phẩm văn học sang kịch bản điện ảnh [78]. Huyền Thanh với bài:
Tác phẩm chuyển thể: những mặt mạnh và yếu [151]…
Điện ảnh là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, nên muốn phát triển,
bên cạnh kịch bản, điện ảnh còn có những vấn đề về kỹ thuật và kinh tế luôn
được giới chuyên môn đặc biệt quan tâm. Hải Ninh, một đạo diễn kỳ cựu nổi
tiếng đã bày tỏ quan điểm qua bài: Thử bàn về một số phong cách nghệ thuật
trong điện ảnh Việt Nam [104]. Trịnh Đình Khôi với bài: Tính chuyên nghiệp
của Điện ảnh hiện nay [59]. Hoàng Lan với bài: Điện ảnh không thể phát
triển tách rời các nghệ thuật khác [77].Trần Mai Khanh đề cập đến vấn đề về
khoa học công nghệ hiện đại qua bài: Phim 3D tương lai của nghệ thuật điện
ảnh [61] …
Các nhà văn cũng dành sự quan tâm chú ý đến điện ảnh qua nhiều bài
phê bình và trao đổi các quan điểm về lý luận và thực tiễn, nhằm góp phần
ngày càng có nhiều phim truyện xứng tầm, đáp ứng được mong mỏi của
những người yêu nghệ thuật. Nguyên Ngọc với bài: Khi nhà văn viết kịch bản
[110]. Minh Trang với bài: Các nhà văn nói gì về điện ảnh [159]. Thăng
Long với bài: Nhà văn Ma văn Kháng: Điện ảnh và văn học cần có sự kết
hợp [82]…
Trong kỷ yếu hội thảo quốc tế Những lằn ranh văn học năm 2011 do
ĐHSP TP.HCM tổ chức, có những bài viết phân tích mối quan hệ giữa văn
học và điện ảnh qua bộ phim truyện chuyển thể như Cánh đồng bất tận và
cuộc đối thoại giữa văn học - điện ảnh của Lê Thị Dương [57, tr.465], Nhìn
lằn ranh giữa văn học và điện ảnh qua Sắc, Giới của Phan Thu Vân [57,
tr.596]…
Trên các website của diễn đàn mạng xã hội, phim chuyển thể từ văn
học cũng là vấn đề được các nhiều độc giả quan tâm, với những bài viết tiêu
biểu như Thời của kịch bản chuyển thể của Quỳnh Trang [165], Tiếc nuối từ
phim Cánh đồng bất tận của Anh Thư [164]. Khoảng cách văn học – điện
ảnh ở phim ‘Ngọc viễn đông’ của Thoại Hà [43], phân tích bảy câu chuyện
phim ngắn chuyển thể từ bảy truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Thị Minh
Ngọc…
Nhận xét về sự cần thiết của tính văn học trong kịch bản văn học và
phim truyện, nhà văn Nguyễn Khắc Phục đã viết: “Nói đến kịch bản là dính
đến văn xuôi. Nền điện ảnh không thể hùng mạnh được khi văn xuôi kém.
Chính nền văn xuôi sẽ cung cấp cho điện ảnh từ hình ảnh, ngôn ngữ, tạo
dựng tâm lí, tính cách nhân vật, thúc đẩy hành động, tình huống trong phim
ảnh. Kịch bản hay thì phim làm sẽ hay, sẽ có giá trị”. [159, tr.27].
Những công trình bài viết, nhận định trên, đã gợi ý giúp người viết
thực hiện hành trình đi từ nhận xét khái quát đến khảo sát chi tiết cụ thể, đầy
đủ và có hệ thống. Từ đó thấy rõ vai trò và sự gắn kết của hai loại hình nghệ
thuật văn học và điện ảnh trong quá trình sản xuất bộ phim truyện chuyển thể
thành công.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Luận án nghiên cứu khảo sát từ văn bản văn học (thể truyện) đến kịch
bản văn học điện ảnh và phim truyện điện ảnh chuyển thể. Đối tượng chính là
- Các tác phẩm văn xuôi như tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện vừa.
- Kịch bản và phim truyện điện ảnh chuyển thể từ tác phẩm văn học.
4.2 PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Ngoài các tài liệu về lí luận, luận án chủ yếu nghiên cứu những tác
phẩm văn học và phim truyện Việt Nam qua các thời kỳ hình thành và phát
triển của văn học và điện ảnh Việt Nam. Sau đây là một số cặp tác phẩm văn
học và phim truyện chuyển thể tiểu biểu:
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp
Truyện dài Một chuyện chép ở bệnh viện và phim Chị Tư Hậu.
Truyện ngắn Câu chuyện một bài ca và phim Con chim vành khuyên.
Thời kỳ trong và sau kháng chiến chống Mỹ
Tiểu thuyết Thời xa vắng và phim cùng tên. Tiểu thuyết Bến không
chồng và phim cùng tên. Truyện ngắn Tướng về hưu và phim cùng tên.
Truyện ngắn Ba người trên sân ga và phim Đời cát. Cuốn Nhật ký Đặng
Thùy Trâm và phim Đừng đốt. Truyện ngắn Trăng nơi đáy giếng và phim
cùng tên…
Ngoài những tác phẩm kể trên, chúng tôi có sử dụng thêm một số tác
phẩm văn học, phim truyện Việt Nam và nước ngoài, để dẫn chứng, bổ sung
và làm rõ các luận điểm nêu ra trong luận án.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong luận án đã kết hợp sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp triết học – mỹ học nhằm nghiên cứu đặc trưng bản chất
của nghệ thuật và mối quan hệ giữa các loại hình nghệ thuật.
Phương pháp kết hợp liên ngành các khoa học lý thuyết và lịch sử (lý
luận lịch sử văn học, lý luận lịch sử điện ảnh, xã hội học, tâm lý học… )
nhằm tìm hiểu lịch sử mối quan hệ giữa hai ngành nghệ thuật văn học và điện
ảnh trong quá trình sản xuất phim truyện chuyển thể từ văn học.
Phương pháp loại hình và so sánh nhằm tìm hiểu những đặc trưng
tương đồng và khác biệt giữa hai loại hình nghệ thuật văn học và điện ảnh,
thông qua việc tập hợp, tìm hiểu theo thể loại một số tác phẩm chuyển thể
tiêu biểu.
Phương pháp chọn mẫu và phân tích tác phẩm nhằm giới thiệu, phân
tích giá trị của những tác phẩm văn học và phim truyện điện ảnh tiêu biểu.
Phương pháp hệ thống và tổng hợp nhằm giúp người nghiên cứu làm
rõ một cách hệ thống những tương đồng và khác biệt của những tác phẩm văn
học gốc và phim chuyển thể trong quá trình thực hiện việc chuyển thể.
Trong nghiên cứu, phương pháp triết học – mỹ học, kết hợp liên ngành
các khoa học lý thuyết và lịch sử được sử dụng đầu tiên. Sau đó phương
pháp loại hình và so sánh, chọn mẫu và phân tích tác phẩm được sử dụng
nhiều nhất. Cuối cùng phương pháp hệ thống và tổng hợp được dùng để kết
luận vấn đề.
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Phần nghiên cứu quá trình sáng tạo phim truyện từ tác phẩm văn học
chủ yếu kế thừa những kết quả nghiên cứu đã có trước đây. Tuy nhiên, luận
án đã cố gắng tìm hiểu thêm một số vấn đề mới chưa được các nhà nghiên
cứu đề cập hoặc có đề cập, nhưng chưa đi sâu. Có thể tổng hợp một số đóng
góp mới sau:
- Góp phần thấy rõ bản chất mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh.
- Đặc trưng của việc xây dựng hình tượng nhân vật, cốt truyện, hoàn
cảnh lịch sử, bối cảnh xã hội và thiên nhiên từ văn học đến điện ảnh.
- Bước đầu hệ thống những thuận lợi và khó khăn trong quá trình
chuyển thể tác phẩm văn học sang phim truyện điện ảnh.
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Phần thứ nhất : MỞ ĐẦU (12 trang)
Gồm: Mục đích ý nghĩa, Đối tượng và phạm vi nghiên cứu, Lịch sử
vấn đề, Phương pháp nghiên cứu, Đóng góp mới của luận án, Cấu trúc của
luận án.
Phần thứ hai : NỘI DUNG (189 trang) gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của việc chuyển thể tác phẩm văn học sang
phim truyện điện ảnh (55 trang)
Chương 2. Cơ chế và quy trình thực hiện việc chuyển thể từ tác
phẩm văn học sang phim truyện điện ảnh.(68 trang)
Chương 3. Một số thành tựu của phim truyện chuyển thể từ tác
phẩm văn học (66 trang)
Phần thứ ba : KẾT LUẬN (5 trang)
Danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC CHUYỂN THỂ
TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG PHIM TRUYỆN ĐIỆN ẢNH
Hơn một thế kỷ qua, kể từ ngày nghệ thuật điện ảnh ra đời, các tác
phẩm văn học nổi tiếng trên thế giới đã lần lượt được chuyển thể thành những
tác phẩm điện ảnh kinh điển. Trong nền điện ảnh Việt Nam hiện đại đã từng
có những bộ phim nổi tiếng chuyển thể từ văn học như Chị Tư Hậu, Vợ
chồng A Phủ, Con chim vành khuyên, Mùa gió chướng, Ván bài lật ngửa,
Người đàn bà mộng du Mê Thảo - Thời vang bóng…Vì vậy, nghiên cứu quá
trình chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh không thể
không tìm hiểu một số cơ sở lí luận về mối quan hệ giữa hai loại hình nghệ
thuật văn học và điện ảnh.
1.1 VĂN HỌC - ĐIỆN ẢNH VÀ HỆ THỐNG CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ
THUẬT
1.1.1 NGHỆ THUẬT VÀ HỆ THỐNG CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT
Qua hàng nghìn năm lịch sử, nghệ thuật đã đóng góp một vai trò to lớn
trong nền văn minh vật chất và tinh thần của nhân loại. Trên con đường sáng
tạo theo quy luật của cái đẹp, nghệ thuật với tính cách là cái đẹp vượt trội
không ngừng được bổ sung, cải tiến nâng cao ngày một phong phú, đa dạng
nhằm phản ánh cuộc sống và đáp ứng nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của
con người. Sự phong phú đa dạng đó thể hiện trong việc hình thành hệ thống
các loại hình loại thể nghệ thuật từ cổ đại đến ngày nay.
Trong quá trình phát triển nghệ thuật đã trải qua một chặng đường dài
từ tư duy nguyên hợp cổ đại về các nữ thần nghệ thuật đến tư duy hình thái
học xác lập bảng danh mục những loại hình nghệ thuật khác nhau.
Trong Mỹ học, nhà triết học Hegel đã nói đến năm ngành nghệ thuật là
kiến trúc, điêu khắc, hội họa, âm nhạc và thơ ca [36, tập1, tr.169-181]
Nhà mỹ học Nga M.Cagan trong công trình Hình thái học nghệ thuật
đã đúc kết lịch sử phân loại nghệ thuật và đề xuất 3 bộ tiêu chí để phân loại
nghệ thuật: “Nghệ thuật không gian/ thời gian; nghệ thuật miêu tả/ không
miêu tả ; nghệ thuật một chức năng/ hai chức năng” [14, tr.367]
Trong Giáo trình mỹ học, nhà mỹ học hiện đại M.F Ôpxiannhicôp đã
đưa ra một bảng danh mục gồm 13 loại hình nghệ thuật: “Văn học nghệ thuật,
kiến trúc, nghệ thuật trang trí, điêu khắc, hội họa, đồ họa, âm nhạc, nghệ
thuật nhảy múa, sân khấu, nghệ thuật nhiếp ảnh, điện ảnh, vô tuyến truyền
hình, nghệ thuật tạp kỹ và xiếc.” [112, tr.383].
Tiếp thu những ý kiến phân loại nghệ thuật của các nhà nghiên cứu
trong quá khứ, trong cuốn Nguyên lý mỹ học Mác Lênin tác giả người Nga
Lukin đã nhận định: “Loại hình nghệ thuật là một lĩnh vực hoạt động nghệ
thuật đặc biệt của con người, được phân biệt dựa theo đối tượng của sự phản
ánh, dựa theo tính chất và kiểu loại hình tượng, theo phương thức thỏa mãn
nhu cầu thẩm mỹ của con người, theo chất liệu và theo các quy luật xây dựng
hình tượng nghệ thuật đặc trưng của mình.” [113, tr.96].
Kế thừa tư tưởng phân loại của các nhà mỹ học đi trước, trong chuyên
đề Văn học và các loại hình nghệ thuật, nhà nghiên cứu Lâm Vinh đã xây
dựng 5 bộ tiêu chí và bảng danh mục hai hệ thống nghệ thuật thuần túy ( 7
loại hình) và nghệ thuật ứng dụng (14 loại hình) [168, tr.1,2]. Trong đó có
văn học thuần túy và điện ảnh thuần túy để phân biệt với văn học ứng dụng
và điện ảnh ứng dụng. Văn học là nghệ thuật đơn vì sử dụng một hình thức
ngôn ngữ là ngôn từ, điện ảnh là nghệ thuật tổng hợp vì sử dụng một số hình
thức ngôn ngữ của các loại hình nghệ thuật như văn học, nhiếp ảnh, hội họa,
âm nhạc và diễn xuất của diễn viên để sản xuất phim truyện.
Tác phẩm điện ảnh được bắt đầu từ kịch bản văn học điện ảnh, là yếu
tố đầu tiên đảm bảo chất lượng của bộ phim tương lai. Trong quá trình sản
xuất phim truyện, giai đoạn sáng tác kịch bản văn học điện ảnh là giai đoạn
thể hiện tập trung nhất mối quan hệ mật thiết giữa hai nghệ thuật văn học và
điện ảnh.
1.1.2 MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HỌC VÀ ĐIỆN ẢNH
Mối quan hệ giữa các loại hình nghệ thuật là một đối tượng nghiên cứu
của mỹ học và nghệ thuật học. Đây là mối quan hệ của những loại hình cùng
gắn bó trong một hệ thống và quan hệ giữa loại hình này với loại hình khác,
thường diễn ra ở hai dạng động và tĩnh. “Ở dạng tĩnh, đó là quan hệ so sánh
để tìm những điểm giống nhau (sự tương đồng) hoặc khác nhau (sự tương
dị). Ở dạng động, đó là quan hệ có sự hợp tác liên kết trong quá trình sáng
tạo (quan hệ tương tác).” (Lâm Vinh) [168, tr.10].
Mối quan hệ động và tĩnh giữa các nghệ thuật đã làm cho hệ thống các
loại hình nghệ thuật ngày càng phát triển đa dạng và phong phú. Tác giả
Kôginốp đã viết: “Có thể gọi các loại hình nghệ thuật theo một trong các loại
hình nghệ thuật khác: Kiến trúc là âm nhạc ngưng tụ, âm nhạc bằng đá. Hoa
văn là âm nhạc được khắc họa, âm nhạc của thị giác. Nhảy múa là âm nhạc
của cơ thể. Thơ trữ tình là âm nhạc của ngôn ngữ. Âm nhạc là kiến trúc có
âm thanh, là hoa văn của thính giác, là thơ trữ tình không lời.” [113, tr.96].
Điều này đã thể hiện rõ trong quan hệ tương đồng giữa tác phẩm văn
học và phim truyện điện ảnh. Khi khán giả xem phim Cuốn theo chiều gió
được thấy một câu chuyện tương tự với câu chuyện nhà văn Magơrit Mitchel
miêu tả trong tiểu thuyết. Hai nhân vật chính Rhett và Scarlett trở thành đôi
“nam thanh nữ tú” được người xem say mê từ trong trang sách đến màn ảnh,
qua diễn xuất tuyệt vời của hai diễn viên tài năng Clark Gable và Vivien
Leigh [144, tr.80]. Hay hình ảnh ấn tượng khó quên của chàng Anđrây và
nàng Natasa trong tiểu thuyết và phim Chiến tranh và hòa bình…và cũng
tương tự như vậy ở những bộ phim chuyển thể trong văn học Việt Nam. Đó
là những mâu thuẫn xã hội sau ngày miền Nam giải phóng qua hai thế hệ
nhân vật trong gia đình ông Sĩ trong tiểu thuyết Những khoảng cách còn lại
của nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn và phim Xa và gần của đạo diễn Huy
Thành. Hay câu chuyện về thân phận của những người phụ nữ công giáo
trong tiểu thuyết Bão biển của nhà văn Chu Văn và phim Ngày lễ thánh của
nữ đạo diễn Bạch Diệp…
Trong công trình Cơ sở lý luận văn học Lê Bá Hán nhận xét: “Nhắc
đến tên một bộ tiểu thuyết, một truyện vừa, một truyện ngắn hoặc một kịch
bản văn học quen biết, chúng ta liền nghĩ đến câu chuyện và những con
người được thể hiện trong đó…” [40, tập 1, tr.74]. Từ tác phẩm văn học đến
phim truyện chuyển thể đều mang lại cho người thưởng thức một nội dung
trong cùng hoàn cảnh, cùng hình tượng nhân vật. Quan hệ của văn học và
điện ảnh được thể hiện ở cả dạng động và tĩnh. Những yếu tố cơ bản trong
xây dựng tác phẩm ở văn học và kịch bản văn học là quan hệ tĩnh với những
điểm giống và khác nhau được thể hiện qua chữ viết (trong kịch bản, tác giả
chỉ sử dụng những câu chữ có thể hình dung được). Quá trình chuyển từ kịch
bản thành phim truyện là quan hệ động (có sự hợp tác liên kết trong quá trình
sáng tạo như bối cảnh, máy quay, ánh sáng, phục trang, âm thanh…và đặc
biệt sự hiện diện của diễn viên theo chỉ đạo của đạo diễn, để đưa nội dung
văn học từ chữ viết lên màn ảnh).
Như vậy, mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh được thể hiện qua ba
cấp độ: tính đồng nhất (về đặc trưng phản ánh - hình tượng), tính tương đồng
(về nội dung tư tưởng, đối tượng phản ánh) và tính khác biệt (về chất liệu,
ngôn ngữ - phương tiện phản ánh).
1.2 VĂN HỌC – ĐIỆN ẢNH VÀ MỐI QUAN HỆ ĐỒNG NHẤT CÙNG
MỘT HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống quan điểm triết học và xã hội, chỉ
ra mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, hạ tầng cơ sở và thượng
tầng kiến trúc. Tồn tại xã hội là đời sống vật chất, đóng vai trò quyết định đối
với đời sống tinh thần. Hạ tầng cơ sở là quan hệ sản xuất, thượng tầng kiến
trúc là toàn bộ quan điểm chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo,
nghệ thuật…Tất cả cùng phụ thuộc vào hạ tầng cơ sở do hạ tầng cơ sở quyết
định, và có tác dụng trở lại đối với hạ tầng cơ sở. Đó là quan điểm triết học
về vai trò, vị trí của ý thức xã hội, trong đó có ý thức thẩm mỹ - nghệ thuật.
Văn học và điện ảnh cùng đứng trong một hình thái ý thức, ý thức
thẩm mỹ - nghệ thuật, cùng có đặc tính chung, chức năng chung và chịu sự
quyết định của đời sống xã hội, như Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã nhận định:
“Xã hội thế nào văn nghệ thế ấy”. Lịch sử văn học nghệ thuật nói chung, lịch
sử văn học và điện ảnh nói riêng đã chứng minh quy luật này qua những tác
phẩm nghệ thuật. Tuy rằng nghệ thuật không phản ánh trực tiếp thực tiễn xã
hội, phải trải qua nhiều con đường trung gian, khúc khuỷu nhưng xét đến
cùng ít nhiều sáng tác nghệ thuật vẫn là “tấm gương phản chiếu” thực tiễn xã
hội.
Nghệ thuật là hình thức đặc biệt để con người cảm nhận và tư duy về
cuộc sống, với những chức năng chủ yếu: thẩm mỹ, nhận thức - phản ánh và
giáo dục, giúp con người vươn đến khát vọng về Chân, Thiện, Mỹ. Thông
qua cái đẹp, nghệ thuật giúp con người nhận thức được chính mình một cách
sâu sắc, làm cho mỗi con người phải tự nghiền ngẫm, xem xét bản thân và
các mối quan hệ với người khác, với toàn xã hội và môi trường sống của
mình. Vì vậy, nghệ thuật không đơn giản là sự giải phẫu cơ thể mà còn là sự
giải phẫu đời sống tinh thần con người. Với ý nghĩa đó, nghệ thuật hướng con
người vươn tới các giá trị tích cực của xã hội, đến với chân lý một cách lãng
mạn, tự giác và lâu dài.
Lấy con người làm đối tượng chủ yếu, nghệ thuật bao giờ cũng nhìn
nhận hiện thực qua cái nhìn của con người. Qua cái nhìn đó, nghệ thuật phát
hiện ra bản chất của hiện thực và trở lại nhận thức sâu sắc hơn về con người.
Vì vậy, thông qua tác phẩm nghệ thuật, con người tìm được bạn tri âm
tri kỷ, đồng điệu về tâm hồn cảm xúc, được bộc lộ tự do cá tính, trí tưởng
tượng và những khát vọng thầm kín. Bởi “Nghệ thuật là kính hiển vi mà nghệ
sĩ đem soi vào những bí ẩn của tâm hồn mình rồi trình bày những bí ẩn
chung cho tất cả mọi người”(Lê Ngọc Trà)[137, tr.17]. Mặt khác, qua tác
phẩm văn học nghệ thuật con người không chỉ có cơ hội đến với những tư
tưởng lớn lao, mới mẻ của nhân loại, mà còn mở rộng tầm hiểu biết, giao lưu
tới những vùng văn hóa và những dân tộc khác trên thế giới. Đó là mục đích
nhân văn cao cả mà nghệ thuật cần hướng tới, như nhà văn Nam Cao từng
trăn trở: “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi và
giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho loài người. Nó phải chứa đựng một
cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng
thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn.” [187,
tập1, tr.614].
“Văn học là nhân học”(M.Gorki), là câu chuyện về cuộc đời, về cõi
nhân sinh. Cùng hình thái ý thức nghệ thuật với văn học, ngay từ khi mới ra
đời, điện ảnh đã sử dụng nguồn tư liệu quý giá từ những tác phẩm văn học
trong kho tàng văn học của nhân loại, để làm nên những bộ phim truyện kinh
điển và bằng cách đó góp phần phát triển nghệ thuật điện ảnh. Khi nhận xét
về sự đồng nhất của các loại hình nghệ thuật, các nhà mỹ học dân chủ Nga đã
khẳng định: “Mọi loại hình nghệ thuật đều phản ánh cuộc sống, đều biểu
hiện các tư tưởng tình cảm của con người, nên đều có nội dung chung nhưng
khác nhau về hình thức thể hiện.” [113, tr.94]. Vì vậy, những bộ phim chuyển
thể khác với văn học ở hình thức thể hiện, nhưng nội dung vẫn mang tinh
thần của văn học.
Ở phương Tây, nước Pháp - nơi khai sinh ra nghệ thuật điện ảnh, rất
nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng được dàn dựng thành những bộ phim truyện
điện ảnh lừng danh. Tiêu biểu là hai cuốn tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pari,
Những người khốn khổ của nhà văn vĩ đại Victo Huygô. Ông được các nhà
nghiên cứu đánh giá là “Nhà tiên tri của hòa bình trên toàn thế giới.” [170,
tr.497].
Điện ảnh Nga đặc biệt gần gũi với điện ảnh Việt Nam với những tác
phẩm văn học và điện ảnh Nga có giá trị nhân văn sâu sắc như Tội ác và hình
phạt, Sông đông êm đềm, Số phận con người, Thép đã tôi thế đấy, Người
mẹ…