1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 4
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 4
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 4
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 5
Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 5
HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA ĐỀ TÀI 5
HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI 5
I. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ CÔNG 6
1) Lý thuyết cơ bản về đầu tư công 6
1.1) Một số khái niệm: 6
1.2) Các lý thuyết về đầu tư công: 7
1.2.1) Quan điểm trường phái Tân cổ điển: 8
1.2.2) Quan điểm ủng hộ sự can thiệp của nhà nước: 8
1.2.3) Quan điểm về sự phát triển cân đối hay không cân đối 9
2) Lý thuyết cơ bản về tăng trưởng kinh tế 10
2.1) Các khái niệm: 10
2.2) Các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế: 11
2.2.1) Lý thuyết tăng trưởng cổ điển 12
2.2.2) Mô hình tăng trưởng Tân cổ điển 13
2.2.3) Lý thuyết tăng trưởng hiện đại 15
3) Mối tương quan giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế 15
3.1) Đầu tư phát triển tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế 15
3.2) Đầu tư phát triển tác động đến tăng trưởng kinh tế 18
Ưu, nhược điểm của hệ số ICOR 19
2
4) Đặc điểm của đầu tư công và vai trò của đầu tư công đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội 19
4.1) Đặc điểm của đầu tư công: 19
4.2) Vai trò của đầu tư công đối với sự phát triển kinh tế - xã hội 22
II. TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ CÔNG ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐĂK-NÔNG GIAI ĐOẠN 2005 -2010. 23
1) Thực trạng đầu tư công trên địa bàn tỉnh Đăk Nông giai đoạn 2005 -2010. 23
1.1) Khái quát tình hình phát triển kinh tế - xã hội Tỉnh Đăk Nông giai đoạn 2005 -
2010 23
1.1.1) Vị trí địa lý 23
1.1.2) Tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội 24
1.2) Thực trạng đầu tư công trên địa bàn Tỉnh Đăk Nông 26
1.2.1) Tổng vốn đầu tư trên địa bàn 26
1.2.2) Cơ cấu đầu tư công trên địa bàn giai đoạn 2004-2012 27
1.3) Kết quả và hạn chế của đầu tư công trên địa bàn tỉnh Đăk Nông 29
1.3.1) Kết quả đạt được 29
1.3.2) Hạn chế trong đầu tư công của Tỉnh 31
2) Đánh giá tác động đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế tỉnh Đăk Nông 33
2.1) Chọn mô hình phân tích 34
2.2) Ứng dụng mô hình Harrod - Domar trong phân tích tác động của đầu tư công
đến tăng trưởng kinh tế Tỉnh Đăk Nông. 35
2.3) Khung phân tích của đề tài 36
2.4) Kết quả tính toán. 38
2.4.1) Mô hình tính tương quan GDP với vốn đầu tư công, vốn đầu tư khu vực tư
và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. 38
2.4.2) Mối tương quan giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế 41
III. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ CÔNG TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH ĐĂK NÔNG 42
1.
Định hướng đầu tư công trong chiến lược phát triển của tỉnh 42
3
2.
Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư công tại tỉnh Đăk Nông 44
KẾT LUẬN 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO 50
PHỤ LỤC 52
4
LỜI MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đắk Nông là một trong 5 tỉnh Tây Nguyên, nằm ở phía Tây Nam của vùng Tây
Nguyên. Đăk Nông có 130km đường biên giới tiếp giáp với tỉnh Mondulkiri, có 02 cửa
khẩu Bu Prăng và Dak Peur nối thông với Mondulkiri, Kratie, Kandal, Pnom Penh, Siem
Reap, v.v. của nước bạn Campuchia. Đây là tỉnh mới được tái thành lập, chia tách từ tỉnh
Đăk Lăk từ ngày 01/01/2004, có trình độ dân trí thấp so với mặt bằng chung của cả nước.
Hiện nay, Đăk Nông có 29 dân tộc cùng sinh sống như: Kinh, M’Nông, Mạ, Êđê, Nùng,
Tày, H’Mông …trong đó chủ yếu là dân tộc Kinh.
Bên cạnh đó, Đăk Nông lại có vị trí địa lý quan trọng cả về phát triển kinh tế lẫn
an ninh quốc phòng, Đắk Nông có tiềm năng mở rộng giao lưu với các tỉnh trong khu vực
Tây Nguyên; vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; Duyên hải miền Trung và nước bạn
Campuchia. Đây là điều kiện thuận lợi để Đăk Nông thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội,
và trong tương lai sẽ trở thành trung tâm phát triển kinh tế năng động của khu vực Tây
Nguyên.
Với điều kiện thuận lợi sẵn có thì vai trò của đầu tư công trên địa bàn Tỉnh là một
yếu tố rất quan trọng để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Để tìm hiểu sự tác động của đầu
tư công với tăng trưởng kinh tế của Tỉnh trong thời gian qua, nhóm em đã lựa chọn đề tài:
“Tác động Đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế của Tỉnh Đăk Nông”
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Đề tài được nghiên cứu nhằm đánh giá tác động đầu tư công đến tăng trưởng kinh
tế của tỉnh Đăk Nông trong thời gian qua. Từ đó, đưa ra các giải pháp, khuyến nghị nhằm
giúp lãnh đạo Tỉnh có chính sách đầu tư hợp lý để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Tỉnh
trong dài hạn.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5
Nhóm sử dụng phương pháp thống kê theo dữ liệu bảng và sử dụng mô hình hồi
quy OLS trong phần mềm eview để kiểm tra tính tương quan giữa đầu tư công với tăng
trưởng kinh tế, bên cạnh đó nhóm còn tiến hành so sánh đánh giá mức độ ảnh hưởng của
các loại hình đầu tư với tăng trưởng kinh tế ở tỉnh Đăk Nông.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
— Đối tượng nghiên cứu: tác động đầu tư của khu vực công đến tăng trưởng kinh tế
của Tỉnh Đăk Nông
— Phạm vi nghiên cứu: được thực hiện trên địa bàn Tỉnh Đăk Nông trong giai đoạn
2005 - 2010.
Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
— Góp phần đánh giá đúng tác động đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế trên địa
bàn Tỉnh.
— Đề xuất các giải pháp, khuyến nghị để thực hiện đầu tư công có hiệu quả hơn
nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Tỉnh cao và bền vững trong dài hạn.
— Có thể giúp cho lãnh đạo Tỉnh tham khảo trong quá trình hoạch định chính sách
đầu tư và phân bổ vốn đầu tư công có hiệu quả hơn.
HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA ĐỀ TÀI
— Nghiên cứu tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế của các tỉnh tây
nguyên.
— Phân tích sâu thêm vai trò của các loại hình đầu tư khác như: đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI), đầu tư khu vực tư nhân.
HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI
— Đề tài chỉ nghiên cứu ở một địa phương mới được thành lập từ năm 2004 nên số
liệu còn khá hạn chế.
6
I. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ CÔNG
1) Lý thuyết cơ bản về đầu tư công
1.1) Một số khái niệm:
_ Đầu tư: Đầu tư là phần sản lượng được tích lũy nhằm để gia tăng năng lực sản
xuất tương lai của nền kinh tế (Sach – Larrain 1993). Sản lượng ở đây có thể do nền kinh
tế tự sản xuất hay là do nhập khẩu từ bên ngoài, có thể là các sản phẩm hữu hình như máy
móc, thiết bị,… hay là các sản phẩm vô hình như bằng phát minh, sang chế,…
Đầu tư cũng có thể hiểu là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động
nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra
để đạt được các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi cuộc đầu tư là đạt được các kết
quả lớn hơn những hy sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành
đầu tư.
_ Nguồn vốn đầu tư:
Nguồn vốn đầu tư chính là phần tích lũy được thể hiện dưới dạng giá trị được chuyển hóa
thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội.
_ Đối tượng đầu tư
Nguồn
vốn đầu
tư
Nguồn
vốn
trong
nước
Nguồn vốn
nhà nước
_ Nguồn vốn của NSNN
_ Nguồn vốn tín dụng đầu
tư phát triển của nhà nước
_ Nguồn vốn đầu tư phát
triển của doanh nghiệp nhà
nước.
Nguồn vốn
từ khu vực
tư nhân
_ Tiết kiệm của dân cư
_ Tích lũy của các doanh
nghiệp, hợp tác xã.
Nguồn
vốn
nước
ngoài
_ Xem xét trên phạm vi rộng: NVNN là dòng
lưu chuyển vốn quốc tế (international capital
flows).
_ Thực chất, các dòng lưu chuyển vốn quốc
tế là biểu thị quá trình chuyển giao nguồn lực
tài chính giữa các quốc gia trên thế giới.
7
Trong một nền kinh tế, tư bản tồn tại dưới nhiều hình thức và vì vậy cũng có nhiều loại
đầu tư.
Xét trên tổng thể nền kinh tế thì có một dạng đầu tư vào các tài sản cố định rất
quan trọng, đó là đầu tư vào cơ sở hạ tầng, phần lớn lượng đầu tư vào cơ sở hạ tầng
do nhà nước đảm nhận. Tuy nhiên, trong nền kinh tế nhiều thành phần thì khu vực tư
nhân và khu vực nước ngoài cũng tham gia đầu tư, kinh doanh cơ sở hạ tầng bằng
các hình thức thích hợp (ví dụ như BOT, BTO, BT, ). Đặc điểm của đầu tư vào các
loại hàng hoá công là nhu cầu vốn lớn, lâu thu hồi vốn nên thường do nhà nước đảm
trách. Tuy nhiên, đầu tư vào kết cấu hạ tầng có tác động thúc đẩy đầu tư của các
thành phần kinh tế khác phát triển.
1.2) Các lý thuyết về đầu tư công:
Ba loại đầu tư chính
Đầu tư vào tài sản cố
định
_ Đầu tư vào nhà
xưởng, máy móc, thiết
bị, phương tiện vận
tải,… đầu tư nâng
cao năng lực sản xuất.
_ Khả năng đạt được
tốc độ tăng trưởng kinh
tế cao hay thấp phụ
thuộc nhiều vào đầu tư
loại này.
Đầu tư vào tài sản lưu
động
_ Tài sản lưu động là
những nguyên vật liệu
thô, bán thành phẩm
được sử dụng hết sau
mỗi quá trình sản xuất
hoặc là thành phẩm
được sản xuất ra mà
chưa đem đi tiêu thụ
hết.
_ Lượng đầu tư vào
loại tài sản này chính là
sự thay đổi về khối
lượng của các hàng hoá
này trong một thời gian
nhất định.
Đầu tư khác
_ Là tất cả các khoản
đầu tư của xã hội nhằm
gia tăng năng lực phát
triển của xã hội, nâng
cao trình độ dân trí, cải
thiện chất lượng môi
trường.
_ Bộ phận chính của
vốn đầu tư khác bao
gồm: Vốn chi cho công
việc thăm dò, khảo sát,
thiết kế, qui hoạch
ngành, qui hoạch lãnh
thổ; …
8
1.2.1) Quan điểm trường phái Tân cổ điển:
Quan điểm của trường phái này cho rằng nhà nước không nên can thiệp
vào nền kinh tế trong quá trình phân bổ nguồn lực như vốn và lao động, … mà sự vận
động của thị trường sẽ thực hiện tốt hơn vai trò này. Trường phái này khẳng định là
một trong các ưu điểm của kinh tế thị trường đó là sự phân bổ nguồn lực một cách tự
động hay qua bàn tay vô hình của thị trường. Đầu tư là một hình thức phân bổ nguồn
lực trong các hình thức đó - phân bổ vốn trong nền kinh tế.
Theo lý thuyết này, các đơn vị sản xuất trong nền kinh tế trong quá trình tìm
đến điểm tối đa hoá lợi nhuận sẽ tìm kiếm cơ hội đầu tư tốt nhất cho chính mình, và
như vậy nhà nước không cần can thiệp để tạo ra một cơ cấu đầu tư hợp lý cho doanh
nghiệp vì bản thân doanh nghiệp biết rõ hơn ai hết là cần phải làm gì để đạt lợi ích tốt
nhất cho chính doanh nghiệp. Vai trò của nhà nước trong trường hợp này chỉ dừng lại
ở mức là cung cấp các hàng hoá công cộng cần thiết cho nền kinh tế như kết cấu hạ
tầng kỹ thuật và kết cấu hạ tầng xã hội mà nếu để thị trường tự vận động thì không
thể đáp ứng được. Giả định của trường phái Tân cổ điển là thị trường cạnh tranh
hoàn hảo. Đây là thị trường mà người bán và người mua không có khả năng kiểm
soát giá và họ có đầy đủ thông tin về thị trường không những trong hiện tại mà cả
ở tương lai.
1.2.2) Quan điểm ủng hộ sự can thiệp của nhà nước:
Các lý thuyết về
đầu tư công
Quan điểm trường
phái Tân cổ điển
Quan điểm ủng hộ sự
can thiệp của nhà
nước
Quan điểm về sự phát
triển cân đối hay
không cân đối
Thuyết tăng trưởng
cân đối
Thuyết tăng trưởng
không cân đối
9
Quan điểm này cho rằng do sự không hoàn hảo của thị trường, nhất là các
nước đang phát triển, nên sự vận động của thị trường sẽ không mang lại kết quả tối
ưu. Thông tin không hoàn hảo có thể sẽ dẫn đến sản xuất và đầu tư quá mức. Trong
trường hợp này, nhà nước phải là người tổ chức cung cấp thông tin tốt để thị trường
hoạt động tốt hơn. Mặt khác, ở hầu hết các nước đang phát triển, nền kinh tế còn lạc
hậu, phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp, nếu để thị trường tự thân vận động thì sẽ
không thể tạo ra sự phát triển công nghiệp mạnh mẽ được; mà chuyển dịch cơ cấu là
nội dung của tiến trình công nghiệp hoá, do đó, nhà nước cần phải tạo ra sự khởi động
ban đầu để các thành phần kinh tế phát triển, tránh những rủi ro, mất cân đối trong
nền kinh tế, và sự can thiệp của nhà nước, nhất là trong việc phân bổ các nguồn
lực trong nền kinh tế là rất cần thiết.
1.2.3) Quan điểm về sự phát triển cân đối hay không cân đối
Thuyết tăng trưởng cân đối
Theo Rosenstain - Rodan, khái niệm tăng trưởng cân đối được đưa ra nhằm
mô tả sự tăng trưởng cân đối giữa các ngành trong nền kinh tế. Ông đề xuất đầu tư nên
hướng cùng lúc vào nhiều ngành để tăng cung cũng như cầu cho nhiều sản phẩm bằng
cách tăng thu nhập của lao động trong những ngành này. Sự phát triển của các ngành
công nghiệp chế biến đòi hỏi lượng đầu tư lớn trong một thời gian dài. Từ đó phát
sinh nhu cầu phát triển song song cả hàng hoá phục vụ sản xuất lẫn phục vụ tiêu dùng.
Ý tưởng về “cú huých” lập luận rằng, một sự gia tăng đột ngột về đầu tư có thể làm
cho mức tiết kiệm tăng lên bởi vì sự gia tăng đột ngột của thu nhập. “Cú huých” này
biểu hiện thông qua các hoạt động của chính phủ và mục tiêu của viện trợ nước ngoài.
Thuyết tăng trưởng không cân đối
Hirchman (1958) đưa ra một mô hình trái ngược với thuyết tăng trưởng cân đối,
ông cho rằng sự mất cân đối giữa cung và cầu tạo ra động lực cho nhiều dự án mới.
Theo đó, cách tiếp cận này yêu cầu phần lớn vốn đầu tư được phân phối bởi nhà
nước cho những ngành công nghiệp trọng điểm, nhằm tạo ra những cơ hội ở
những ngành khác trong nền kinh tế, từ đó khuyến khích làn sóng đầu tư thứ hai.
Những ngành được chọn ra để đầu tư nên được đánh giá theo mối liên hệ giữa ngành
10
đó với các ngành liên quan theo “chuỗi giá trị”, điều này nói đến khả năng tạo ra
những ngành mới làm đầu ra hay cung cấp đầu vào cho những ngành được chọn để đầu
tư.
Hirchman chấp nhận có sự can thiệp của nhà nước nhưng ông cho rằng ý tưởng
“cú huých” là không khả thi mà thay vào đó, sự phát triển tốt nhất là được tạo ra từ
những mất cân đối như thế. Do nguồn vốn có hạn, chính phủ không thể bảo đảm đầu
tư một cách rải đều cho tất cả các ngành khác để đảm bảo phát triển ngành này cũng là
tạo điều kiện để ngành khác phát triển.
Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế chuyển đổi, nhiều
định chế của cơ chế thị trường chưa hình thành hoàn chỉnh nên các điều kiện của thị
trường cạnh tranh hoàn hảo chưa thể đáp ứng được. Mặt khác, nền kinh tế nước ta
đang ở trình độ rất thấp, chủ yếu là nền kinh tế nông nghiệp, trình độ cư dân thấp,
… đòi hỏi phải có vai trò chủ động của nhà nước trong việc định hướng phát triển
các ngành kinh tế, nhà nước phải tạo những tiền đề nhất định như hạ tầng kỹ thuật,
nguồn nhân lực, … để thúc đẩy phát triển kinh tế.
2) Lý thuyết cơ bản về tăng trưởng kinh tế
2.1) Các khái niệm:
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
Tổng sản phẩm quốc nội là giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ
cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ
nhất định (thường là một năm).
Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng
thời gian nhất định (thường là một năm), bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự gia
tăng về mặt lượng của một nền kinh tế. Nó được đo bằng nhiều chỉ tiêu khác nhau,
như tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hay thu nhập
bình quân đầu người trên năm (GNP/người/năm, GDP/người/năm). Tốc độ tăng
trưởng kinh tế là mức (%) được tăng thêm của sản lượng GNP, GDP, GNP/người
11
hay GDP/người của năm này so với năm trước hay giai đoạn này so với giai đoạn
trước. Với nghĩa như vậy, tăng trưởng kinh tế là mục tiêu theo đuổi của mọi quốc
gia, mọi nền kinh tế trước yêu cầu tồn tại và phát triển.
Nguồn gốc tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế có nghĩa là gia tăng tổng sản lượng quốc gia trong một thời
kỳ nhất định. Sản lượng được tạo ra từ sản xuất, như vậy, nguồn gốc của tăng trưởng
xuất phát từ quá trình sản xuất. Quá trình sản xuất là quá trình mà trong đó các yếu
tố đầu vào được phối hợp theo những cách thức tốt nhất để tạo ra khối lượng sản
phẩm. Nếu xét ở góc độ phạm vi toàn bộ nền kinh tế thì việc tạo ra tổng sản lượng
quốc gia sẽ có quan hệ phụ thuộc vào các nguồn lực đầu vào của quốc gia. Một sự
thay đổi tổng sản lượng quốc gia khi có sự thay đổi các nguồn lực đầu vào. Các lý
thuyết tăng trưởng ra đời phân tích nguồn gốc của tăng trưởng với nhiều quan điểm
khác nhau, mỗi lý thuyết đều có sự khám phá mới, nhưng trên căn bản vẫn là phân
tích mối quan hệ đầu ra với đầu vào.
2.2) Các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế:
12
2.2.1) Lý thuyết tăng trưởng cổ điển
Đại diện tiêu biểu của Lý thuyết tăng trưởng truyền thống đó là : Adam Smith,
David Ricardo và Karl Marx.
Lý thuyết tăng trưởng của Adam Smith (1723-1790)
Theo Adam Smith: lao động là nguồn gốc tạo ra của cải cho đất nước chứ
không phải đất đai và tiền bạc. Ông cho rằng: “mọi cá nhân không có ý định thúc đẩy
lợi ích công cộng mà chỉ nhằm vào lợi ích của riêng mình, và ở đây cũng như trong
nhiều trường hợp khác, người đó được một bàn tay vô hình dẫn dắt để phục vụ một
mục đích không nằm trong ý định của mình”.
Lý thuyết tăng trưởng của David Ricardo (1772-1823)
Theo Ricardo: Nông nghiệp là ngành quan trọng nhất, do đó các yếu tố cơ bản
của tăng trưởng là đất đai, lao động và vốn. Đất đai là giới hạn của tăng trưởng:
Tăng trưởng là kết quả của tích lũy, tích lũy là hàm của lợi nhuận, lợi nhuận phụ
Các lý thuyết về
tăng trưởng kinh tế
Lý thuyết tăng
trưởng truyền
thống (cổ điển)
Lý thuyết tăng
trưởng của Adam
Smith (1723-1790)
Lý thuyết tăng
trưởng của David
Ricardo (1772-1823)
Lý thuyết tăng
trưởng của Karl
Marx (1818-1883)
Mô hình tăng
trưởng Tân cổ điển
Mô hình J. Maynard
Keynes (1883-1946)
Mô hình Harrod –
Domar
Lý thuyết tăng
trưởng hiện đại
Paul Samuelson
(1948)
13
thuộc vào chi phí sản xuất lương thực và chi phí này phụ thuộc vào đất đai.
Lý thuyết tăng trưởng của Karl Marx (1818-1883)
So với 2 lý thuyết trên, Marx đã phát triển thêm các yếu tố tăng trưởng kinh tế
bao gồm : đất đai, lao động, vốn và tiến bộ kỹ thuật.
Marx cho rằng nền sản xuất của một quốc gia có tính chu kỳ, và tình trạng
khủng hoảng thừa do thiếu cầu sẽ dễ dàng xảy ra mà nguyên nhân sâu xa là tính chất
bóc lột (tiền lương thấp nên làm giới hạn tiêu dùng) và tích lũy cao nhằm cải tiến kỹ
thuật tăng năng suất lao động của nhà tư bản. Để khắc phục khủng hoảng này thì vai
trò của nhà nước là vô cùng quan trọng, đặc biệt là chính sách kích cầu.
Kết luận: Trong nhóm lý thuyết này về mặt cơ bản đều thống nhất với nhau
về các yếu tố của tăng trưởng kinh tế, yếu tố được đề cao nhiều hơn các yếu tố
còn lại là đất đai và lao động. Tuy nhiên lại có hai quan điểm trái chiều nhau về
sự can thiệp của chính phủ đến tăng trưởng kinh tế. Dù ủng hộ hay không ủng
hộ thì trong giai đoạn này, vai trò của nhà nước cũng đã được xem xét và nghiên
cứu.
2.2.2) Mô hình tăng trưởng Tân cổ điển
Mô hình J. Maynard Keynes (1883-1946)
Với lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ (1936) thì nền kinh tế có 2
đường tổng cung: một phản ánh mức sản lượng tiềm năng và một phản ánh mức
thực tế. Cân bằng của nền kinh tế không nhất thiết ở mức sản lượng tiềm năng mà
thông thường ở mức thấp hơn.
Ông chỉ ra xu hướng thu nhập tăng thì tiêu dùng biên giảm (tiêu dùng trung
bình giảm) và tiết kiệm biên tăng (tiết kiệm trung bình tăng). Đây là nguyên nhân
cơ bản của trì trệ kinh tế. Cho nên đầu tư đóng vai trò quyết định quy mô việc làm,
nhưng khối lượng đầu tư phụ thuộc vào lãi suất cho vay và hiệu suất biên của vốn.
Muốn thoát khủng hoảng và thất nghiệp thì nhà nước phải thực hiện điều tiết bằng
các chính sách kinh tế, bằng cách tăng cầu tiêu dùng. Sử dụng ngân sách nhà nước để
kích thích đầu tư thông qua các đơn đặt hàng của nhà nước và trợ cấp vốn cho các
14
doanh nghiệp. Nhà nước cần tăng khối lượng tiền tệ để giảm lãi suất, phát triển hệ
thống thuế để bổ sung ngân sách, xem đầu tư công cộng của chính phủ là lực đẩy.
Mô hình Harrod - Domar
Hàm sản xuất đơn giản nhất và nổi tiếng nhất được sử dụng trong phân tích về
phát triển kinh tế của Roy Harrod (Anh) và Evsay Domar (Mỹ) cùng đưa ra để giải
thích cho mối quan hệ giữa tăng trưởng và các nhu cầu về tư bản ở các nước đang
phát triển.
Mô hình này cơ bản cho là đầu ra của bất kỳ một đơn vị kinh tế nào, dù là một
công ty, một ngành công nghiệp hay toàn bộ nền kinh tế, sẽ phụ thuộc vào tổng số tư
bản đầu tư cho đơn vị đó.
Mô hình đó là :
g = s/k
Trong đó :
g : tỷ lệ tăng trưởng đầu ra
s : tỷ lệ tiết kiệm
k: tỷ số gia tăng giữa tư bản và đầu ra – ICOR
Mô hình này cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP tỷ lệ thuận với tỷ lệ tiết kiệm và
tỷ lệ nghịch với ICOR. Trở ngại của các nước đang phát triển là khả năng huy động
vốn do thu nhập thấp nên tỷ lệ tiết kiệm (s) thấp, và vấn đề tiếp theo sau đó là hiệu
quả đầu tư. Vì vậy mô hình này cũng yêu cầu chính phủ cần phải can thiệp để thúc
đẩy tiết kiệm cho đầu tư và đầu tư sao cho có hiệu quả.
Có thể thấy rằng các mô hình tăng trưởng trong giai đoạn này đều đề cao tác
động của yếu tố vốn, và vai trò của Chính phủ là vô cùng quan trọng cho tăng trưởng
bền vững.
15
2.2.3) Lý thuyết tăng trưởng hiện đại
Paul Samuelson (1948) đại biểu của trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp,
theo ông sự cân bằng của nền kinh tế nằm dưới sản lượng tiềm năng (keynes) và
các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế là tập hợp:
— Quan điểm của Tân cổ điển về tỷ lệ lao động và vốn (có thể lựa chọn kỹ thuật
sử dụng nhiều vốn hoặc kỹ thuật sử dụng nhiều lao động để tăng trưởng kinh
tế).
— Quan điểm của Harrod-Domar về vai trò của vốn đối với tăng trưởng kinh tế.
— Quan điểm Keynes về vai trò của tổng cầu đối với tăng trưởng kinh tế.
Theo ông vai trò của Chính phủ trong tăng trưởng kinh tế là rất quan trọng.
Nhà nước cần xác định tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và lạm phát chấp nhận được. Bên
cạnh đó thì thị trường là yếu tố cơ bản điều tiết hoạt động kinh tế, tác động qua lại
giữa tổng cung và tổng cầu tạo ra mức thu nhập thực tế; việc làm-thất nghiệp, mức giá-
lạm phát…
Tóm lại, các lý theist tăng trưởng kinh tế kể trên chủ yếu tập trung làm rõ
các biến số làm nên sự gia tăng về sản lượng trong nền kinh tế, đồng thời cho biết tác
động của Chính phủ là bao nhiêu trong sản lượng gia tăng đó.
3) Mối tương quan giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế
3.1) Đầu tư phát triển tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế
Đầu tư tác động lên tăng trưởng kinh tế ở 2 mặt: tổng cung và tổng cầu.
Trong hàm tổng cầu thì đầu tư là một thành phần của tổng cầu có dạng:
Y = C + I + G + X - M (1)
Trong đó:
Y là sản lượng hay thu nhập quốc dân;
C là tiêu dùng dân cư;
I là đầu tư;
16
G là chi tiêu của nhà nước;
X là xuất khẩu và M là nhập khẩu.
Từ đẳng thức (1) ta thấy rằng khi đầu tư I tăng lên thì trực tiếp làm cho thu nhập
quốc dân Y tăng lên.
Theo lý thuyết Keynes thì khi đầu tư tăng lên một đơn vị thì làm cho Y tăng hơn
một đơn vị.
Thật vậy, khi thay thế C = a + b.Y và M = u + v.Y là hàm tiêu dùng và hàm
nhập khẩu biểu diễn theo Y thì đẳng thức (1) có dạng:
Y = a + b.Y + I + G + X - u - v.Y
Chuyển vế, ta có:
Y = (a + I + G + X - u) / (1 - b + v) (2)
Vì b là hệ số thiên hướng tiêu dùng biên, bao gồm tiêu dùng trong nước và
tiêu dùng nhập khẩu, v là hệ số thiên hướng tiêu dùng nhập khẩu. Do đó (b - v) sẽ lớn
hơn 0 và (1- b + v) sẽ nhỏ hơn 1, tức là 1/ (1 – b + v) sẽ lớn hơn 1.
Từ đẳng thức (2) cho thấy: với các điều kiện khác không đổi thì khi đầu tư (I)
gia tăng một đơn vị thì thu nhập (Y) sẽ gia tăng hơn một đơn vị, ảnh hưởng này gọi
là ảnh hưởng hệ số nhân.
Trong thực tế thì mức độ của ảnh hưởng trên còn tùy thuộc vào năng lực cung
của nền kinh tế. Nếu năng lực cung mà hạn chế thì việc gia tăng tổng cầu, dù với
bất cứ lý do nào, chủ yếu chỉ làm tăng giá cả mà thôi, còn sản lượng thực tế thì
không tăng lên bao nhiêu.
Ngược lại, nếu năng lực cung mà dồi dào thì việc gia tăng tổng cầu thật sự làm
tăng sản lượng như lý thuyết Keynes đã đưa ra ở trên. Năng lực cung của nền kinh tế
biểu hiện ở độ dốc của đường cung.
Ảnh hưởng khác của đầu tư lên tăng trưởng kinh tế thông qua tổng cung thể
hiện ở chỗ: Tổng cung của nền kinh tế gồm hai nguồn chính là cung trong nước và
cung từ nước ngoài. Bộ phận chủ yếu, cung trong nước là một hàm của các yếu tố
17
sản xuất: vốn, lao động, tài nguyên, công nghệ, thể hiện qua phương trình sau:
Q = f (K, L, T, R )
Trong đó:
K : Vốn đầu tư
L : Lao động
T : Công nghệ
R : Nguồn tài nguyên
Như vậy, vốn là một yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình sản xuất. Vốn được kết
hợp với lao động và tài nguyên thông qua quá trình sản xuất sẽ tạo ra của cải vật chất
trong xã hội. Vốn không chỉ đóng góp trực tiếp vào tăng trưởng kinh tế với tư cách
là đầu vào của sản xuất (đóng góp về mặt lượng) mà còn đóng góp một cách gián tiếp
thông qua việc thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật do đầu tư mới mang lại, do lợi thế kinh tế nhờ
quy mô lớn, tức một số ngành việc đầu tư mở rộng quy mô sẽ làm giảm chi phí sản
xuất do chuyên môn hoá…đây là những đóng góp về chất của đầu tư, tức là hiệu quả
của nền kinh tế đã được nâng cao.
Xét theo trình tự thời gian, sau giai đoạn thực hiện đầu tư là giai đoạn vận
hành kết quả đầu tư. Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới
đi vào hoạt động làm cho tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng. Sản lượng
tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng, đến lượt nó lại là nhân
tố kéo, tiếp tục kích thích sản xuất phát triển, tăng qui mô đầu tư. Sản xuất phát triển
là nguồn gốc tăng tích lũy, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động,
nâng cao đời sống cho mọi thành viên trong xã hội.
Mối quan hệ giữa đầu tư với tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế là mối
quan hệ biện chứng, nhân quả, có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Đây
là cơ sở lý luận để giải thích chính sách kích cầu đầu tư và tiêu dùng ở nhiều nước
trong thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng chậm.
18
3.2) Đầu tư phát triển tác động đến tăng trưởng kinh tế
Đầu tư vừa tác động đến tốc độ tăng trưởng vừa tác động đến chất lượng
tăng trưởng. Tăng quy mô vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư hợp lý là những nhân tố
rất quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng năng suất nhân tố tổng hợp,
tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH, nâng cao sức
cạnh tranh của nền kinh tế, , do đó, nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Biểu hiện tập trung của mối quan hệ giữa đầu tư phát triển với tăng trưởng kinh tế
thể hiện ở công thức tính hệ số ICOR.
Hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio – Hiệu quả sử dụng vốn đầu
tư) là tỷ số giữa qui mô đầu tư tăng thêm với mức gia tăng sản lượng, hay là suất
đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn vị sản lượng GDP tăng thêm. Vì vậy, hệ số này
phản ánh hiệu quả của việc sử dụng vốn đầu tư dẫn tới tăng trưởng kinh tế. Hệ số
ICOR thay đổi tùy theo thực trạng kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ khác nhau, phụ
thuộc vào cơ cấu đầu tư và hiệu quả sử dụng các sản phẩm vật chất và dịch vụ trong
nền kinh tế.
Hệ số ICOR thấp chứng tỏ đầu tư có hiệu quả cao, hệ số ICOR thấp hơn có
nghĩa là để duy trì cùng một tốc độ tăng trưởng kinh tế cần một tỉ lệ vốn đầu tư so
với tổng sản phẩm trong nước thấp hơn. Tuy nhiên, theo quy luật về lợi tức biên
giảm dần thì khi nền kinh tế càng phát triển (GDP bình quân đầu người tăng lên) thì
hệ số ICOR sẽ tăng lên, tức là để duy trì cùng một tốc độ tăng trưởng cần một tỉ lệ
vốn đầu tư so với tổng sản phẩm trong nước cao hơn.
ICOR của mỗi nước
phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát
triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Ở các nước phát triển, ICOR thường
lớn, từ 5-7 do thừa vốn, thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho
lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Ở các nước chậm phát triển,
ICOR thấp từ 2-3 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể và cần phải sử dụng lao
động để thay thế cho vốn, do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ. Thông thường
ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, và ICOR luôn có xu hướng tăng
lên.
19
Ưu, nhược điểm của hệ số ICOR
Ưu điểm
— ICOR là chỉ tiêu quan trọng để dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế hoặc dự
báo qui mô vốn đầu tư cần thiết để đạt một tốc độ tăng trưởng kinh tế nhất định
trong tương lai.
— Trong những trường hợp nhất định, hệ số ICOR được xem là một trong
những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư. ICOR giảm cho thấy: để tạo ra một
đơn vị GDP tăng thêm, nền kinh tế chỉ phải bỏ ra một số lượng vốn đầu tư ít
hơn (nếu các điều kiện khác ít thay đổi).
Nhược điểm
— Hệ số ICOR mới chỉ phản ánh ảnh hưởng của yếu tố vốn đầu tư mà chưa tính
đến ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất khác trong việc tạo ra GDP tăng thêm.
— ICOR cũng bỏ qua sự tác động của các ngoại ứng như điều kiện tự nhiên, xã
hội, cơ chế chính sách …
— Hệ số ICOR không tính đến yếu tố độ trễ thời gian của kết quả và chi phí (tử số
và mẫu số của công thức).
4) Đặc điểm của đầu tư công và vai trò của đầu tư công đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội
4.1) Đặc điểm của đầu tư công:
Hàng hóa công là loại hàng hoá không có tính cạnh tranh trong tiêu dùng.
Tính phi cạnh tranh về tiêu dùng biểu hiện cùng một lúc có hơn một người tận
hưởng những lợi ích từ hàng hoá công, và chi phí đáp ứng nhu cầu đòi hỏi các đối
tượng tiêu dùng tăng thêm này là bằng không; đồng thời, khi hàng hoá công được
cung cấp thì không thể loại trừ hoặc rất tốn kém để loại trừ một người nào đó tiêu
dùng hàng hoá mà không chịu trả tiền cho hành động tiêu dùng của mình. Phần lớn
hàng hoá công do Chính phủ cung cấp và ngoài ra còn có thể huy động sự tham gia
của khu vực tư để đáp ứng nhu cầu về hàng hoá công của xã hội.
20
Tại sao Chính phủ phải cung cấp hàng hoá công? Nguyên nhân là có sự thất bại
của khu vực tư trong việc cung cấp hàng hoá công, tính không hiệu quả do khu vực
tư cung cấp hàng hoá công và làm giảm phúc lợi xã hội. Sự phát triển của xã hội
trong giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại đã cho thấy chi tiêu công hoàn toàn không
mất đi mà trái lại nó tạo ra sự tái phân phối giữa các khu vực trong nền kinh tế.
Chính phủ đóng vai trò là một trung tâm của quá trình tái phân phối thu nhập thông
qua các khoản chi tiêu công. Với ý nghĩa đó, đầu tư công đóng vai trò rất quan trọng
trong giai đoạn nền kinh tế đang có những bước chuyển đổi nhằm sử dụng các nguồn
vốn đầu tư có hiệu quả. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, đầu tư công chuyển mạnh
sang đầu tư cho phát triển các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, cho sự
nghiệp giáo dục, y tế, xoá đói giảm nghèo.
Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước có một vai trò rất lớn trong đầu tư công để
tạo những bước đột phá phát triển đất nước. Tuy nhiên, trong nền kinh tế nhiều
thành phần thì khu vực tư nhân trong nước và khu vực nước ngoài cũng tham gia
đầu tư, kinh doanh cơ sở hạ tầng bằng các hình thức thích hợp (ví dụ như BOT,
BTO, BT, ).
21
Nội dung chi đầu tư công gồm 4 lĩnh vực: chi xây dựng các công trình kết cấu
hạ tầng kinh tế xã hội không có khả năng thu hồi vốn; chi hỗ trợ vốn cho các doanh
nghiệp nhà nước; chi cho quỹ hỗ trợ phát triển để thực hiện tín dụng đầu tư phát triển
của nhà nước; chi dự trữ nhà nước. Trong đó, chi đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng là
khoản chi chiếm tỷ trọng lớn nhất và được thực hiện theo phương thức không hoàn
trả. Chi đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn tài chính của nhà nước hướng vào củng cố
và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, các ngành công nghiệp cơ bản, các
công trình kinh tế có tính chất chiến lược, các công trình trọng điểm phục vụ phát triển
văn hoá xã hội, phúc lợi công cộng.
Đặc điểm của
đầu tư công
Đầu tư công của ngân
sách nhà nước là khoản
chi tích lũy
Chi đầu tư công nhằm
tạo ra cơ sở vật chất
kỹ thuật, năng lực sản
xuất phục vụ, tăng
tích lũy tài sản của
nền kinh tế quốc dân
tạo nền tảng vật
chất bảo đảm cho sự
tăng trưởng kinh tế và
phát triển xã hội, làm
tăng tổng sản phẩm
quốc nội chi đầu tư
phát triển của ngân
sách nhà nước là chi
cho tích lũy.
Quy mô và cơ cấu chi
đầu tư công của ngân
sách nhà nước không cố
định và phụ thuộc vào
chiến lược phát triển
kinh tế xã hội của nhà
nước trong từng thời ký
và mức độ phát triển của
khu vực kinh tế tư nhân
Trong thời kỳ đầu
thực hiện chiến lược
công nghiệp hóa, quy
mô chi đầu tư công
của ngân sách nhà
nước chiếm tỷ lệ khá
lớn so với tổng đầu tư
xã hội và sẽ giảm dần
theo mức độ thành
công của chiến lược
công nghiệp hoá và
mức độ phát triển của
khu vực kinh tế tư
nhân.
Chi đầu tư công phải gắn
chặt chi thường xuyên
nhằm nâng cao hiệu quả
vốn đầu tư
Sự phối hợp không
đồng bộ giữa chi đầu
tư với chi thường
xuyên sẽ dẫn đến tình
trạng thiếu kinh phí để
duy tu, sửa chữa, bảo
dưỡng cơ sở hạ tầng.
Điều này sẽ làm giảm
hiệu quả khai thác và
sử dụng tài sản đầu tư.
Sự gắn kết giữa 2
nhóm chỉ tiêu này sẽ
khắc phục tình trạng
đầu tư tràn lan, không
tính đến hiệu quả khai
thác.
22
Sự tham gia của nhà nước vào các lĩnh vực nêu trên có ý nghĩa rất quan trọng đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
nói riêng, bởi nó nhằm kích thích đầu tư, giảm chi phí sản xuất, mở rộng thị trường,
tăng cường khả năng cạnh tranh đồng thời tạo ra các trung tâm kinh tế.
4.2) Vai trò của đầu tư công đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Đầu tư công có ý nghĩa xã hội rất lớn trong định hướng phát triển chung
của đất nước, do đó, nếu chỉ tính hiệu quả kinh tế đơn thuần thì sẽ không chính
xác, mà phải tính hiệu quả cả trong xóa đói giảm nghèo, phát triển giáo dục, an sinh
xã hội .
Kết cấu hạ tầng là đối tượng chính của đầu tư công, là một bộ phận đặc thù của
cơ sở vật chất kỹ thuật trong nền kinh tế quốc dân, có chức năng, nhiệm vụ cơ bản
là đảm bảo những điều kiện chung cần thiết cho quá trình sản xuất và tái sản xuất
mở rộng được diễn ra bình thường, liên tục. Kết cấu hạ tầng cũng được định nghĩa là
tổng thể các cơ sở vật chất, kỹ thuật, kiến trúc đóng vai trò nền tảng cho các hoạt
động kinh tế-xã hội được diễn ra một cách bình thường.
Thông thường người ta phân chia kết cấu hạ tầng thành 2 loại cơ bản:
— Kết cấu hạ tầng kinh tế: thuộc loại này bao gồm các công trình hạ tầng kỹ
thuật như: năng lượng (điện, than, dầu khí) phục vụ sản xuất và đời sống, các
công trình giao thông vận tải (đường bộ, đường sắt, đường biển, đường sông,
đường hàng không, đường ống), bưu chính viễn thông, các công trình thủy lợi
phục vụ sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp … . Kết cấu hạ tầng kinh tế là bộ
phận quan trọng trong hệ thống kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển
nhanh, ổn định, bền vững và là động lực thúc đẩy phát triển nhanh hơn, tạo
điều kiện cải thiện cuộc sống dân cư.
— Kết cấu hạ tầng xã hội: xếp vào loại này gồm nhà ở, các cơ sở khoa học,
trường học, bệnh viện, các công trình văn hoá, thể thao… và các trang thiết bị
đồng bộ với chúng. Đây là điều kiện thiết yếu để phục vụ, nâng cao mức sống
của cộng đồng dân cư, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực phù hợp với tiến
23
trình CNH-HĐH đất nước. Như vậy, kết cấu hạ tầng xã hội là tập hợp một số
ngành có tính chất dịch vụ xã hội; sản phẩm do chúng tạo ra thể hiện dưới hình
thức dịch vụ và thường mang tính chất công cộng, liên hệ với sự phát triển con
người cả về thể chất lẫn tinh thần.
Với tính chất đa dạng và thiết thực, kết cấu hạ tầng là nền tảng vật chất có vai
trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia cũng
như vùng lãnh thổ. Có kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại, nền kinh tế mới có điều
kiện để tăng trưởng nhanh, ổn định và bền vững. Có rất nhiều công trình nghiên cứu
đã đi đến kết luận rằng, phát triển kết cấu hạ tầng có tác động tích cực đến phát
triển kinh tế-xã hội ở cả các nước phát triển và đang phát triển. Trình độ phát triển
của kết cấu hạ tầng có ảnh hưởng đến trình độ phát triển của đất nước, có tác động
tích cực đến tăng trưởng kinh tế và công tác xoá đói giảm nghèo.
Tóm lại, đầu tư công mà đặc biệt là đầu tư kết cấu hạ tầng đóng vai trò đặc biệt
quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của một quốc gia, tạo động lực cho sự
phát triển. Hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ, hiện đại sẽ thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, nâng cao năng suất, hiệu quả của nền kinh tế và góp phần giải quyết
các vấn đề xã hội. Ngược lại, một hệ thống kết cấu hạ tầng kém phát triển là một trở
lực lớn đối với sự phát triển.
II. TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ CÔNG ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐĂK-NÔNG GIAI ĐOẠN 2005 -2010.
1) Thực trạng đầu tư công trên địa bàn tỉnh Đăk Nông giai đoạn 2005 -2010.
1.1) Khái quát tình hình phát triển kinh tế - xã hội Tỉnh Đăk Nông giai
đoạn 2005 - 2010
1.1.1) Vị trí địa lý
Đắk Nông là một trong 5 tỉnh Tây Nguyên, nằm ở phía Tây Nam của vùng Tây
Nguyên, có tổng diện tích đất tự nhiên là 651.561 ha. Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh
Đắk Lắk, phía Đông và Đông Nam giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh
Bình Phước, phía Tây giáp Vương quốc Campuchia.
24
Đăk Nông có 130km đường biên giới tiếp giáp với tỉnh Mondulkiri, có 02 cửa
khẩu Bu Prăng và Dak Peur nối thông với Mondulkiri, Kratie, Kandal, Pnom Penh, Siem
Reap, v.v. của nước bạn Campuchia.
Đăk Nông hiện có 01 thị xã, 07 huyện với 71 xã, phường, thị trấn. Dân số toàn
tỉnh là 510.570 người (năm 2010), với 29 dân tộc cùng sinh sống như: Kinh, M’Nông,
Mạ, Êđê, Nùng, Tày, H’Mông …trong đó chủ yếu là dân tộc kinh chiếm 67,9%, M’Nông
chiếm 8,2%, Nùng chiếm 5,6%, H’Mông chiếm 4,5%. Các dân tộc khác chiếm tỉ lệ rất
nhỏ, đặc biệt có một số dân tộc chỉ có 01 đến 02 người sinh sống như Cơ Tu, Tà Ôi, Hà
Nhì, Phù Lá, Chứt. Mật độ dân số trung bình 81,1 người/km
2
, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là
14,47. Dân cư chủ yếu phân bố ở nông thôn (chiếm 85,05%). Là tỉnh được tái thành lập,
chia tách từ tỉnh Đăk Lăk từ ngày 01/01/2004, trình độ dân trí thấp so với mặt bằng
chung của cả nước, đặc biệt trình độ văn hóa, nhận thức của phụ nữ không đồng đều,
thậm chí vẫn có tình trạng phụ nữ mù chữ ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn,
vùng dân tộc thiểu số.
Là tỉnh nằm ở cửa ngõ Tây Nguyên, có Quốc lộ 14 nối thành phố Hồ Chí Minh,
cách Thành phố Hồ Chí Minh 230 km về phía Bắc và cách Thành phố Ban Mê Thuột
(Đắk Lăk) 120km về phía Tây Nam; có Quốc lộ 28 nối Đắk Nông với Lâm Đồng, cách
Thành phố Đà Lạt (Lâm Đồng) 120 km và Thành phố Phan Thiết (Bình Thuận) 160 km
về phía Đông.
Vị trí địa lý quan trọng cả về phát triển kinh tế và an ninh quốc phòng, Đắk Nông có
tiềm năng mở rộng giao lưu với các tỉnh trong khu vực Tây Nguyên; vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam; Duyên hải miền Trung và nước bạn Campuchia, là điều kiện thuận lợi để
Đăk Nông thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, trong tương lai sẽ trở thành trung tâm phát
triển kinh tế năng động của khu vực Tây Nguyên.
1.1.2) Tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội
Tốc độ tăng trưởng của tỉnh thuộc loại khá cao so với các tỉnh trong khu vực Tây
Nguyên và cả nước; bình quân 5 năm 2006-2010, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 15,19%.
Tuy không đạt mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm đề ra, nhưng tốc độ
tăng bình quân cao hơn nhiều so với kế hoạch 5 năm trước (giai đoạn 2001-2005 đạt
9,3%), đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái, nhiều địa phương có mức tăng
25
trưởng thấp mà kinh tế tỉnh ta duy trì được tốc độ tăng trưởng tương đối cao như trên là một
thành công lớn. Năm 2010 tốc độ tăng trưởng kinh tế đã phục hồi, vượt qua thời kỳ suy
giảm tốc độ tăng trưởng, chứng tỏ các chính sách, giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế
trong thời gian vừa qua phù hợp với tình hình thực tế, đã và đang phát huy hiệu quả.
Trong đó khu vực nông, lâm, thuỷ sản tăng 7,53% ; khu vực công nghiệp, xây dựng tăng
39,21% ; khu vực dịch vụ tăng 17,57% . Thu nhập bình quân đầu người năm 2010 tương
đương 15,18 triệu đồng , tăng gấp 2 lần so với năm 2005. Quy mô nền kinh tế (GDP tính
theo giá so sánh) năm 2010 tăng gấp 2 lần so với năm 2005; cơ cấu kinh tế tiếp tục
chuyển dịch theo đúng định hướng; tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ
tăng; ngành nông, lâm nghiệp giảm. Tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp giảm từ 59,59%
năm 2005 xuống còn 52,67% năm 2010; tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng tăng từ
17,87% năm 2005 lên 25,14% năm 2010; tỷ trọng ngành dịch vụ năm 2010 là 22,19%.
Nhìn chung, cơ cấu kinh tế tỉnh Đăk Nông có sự dịch chuyển đúng định hướng, tỷ trọng
các ngành phi nông nghiệp tăng lên, bước đầu tạo ra sự thay đổi cơ cấu kinh tế, hình
thành được một số ngành quan trọng, tạo động lực cho phát triển, có ý nghĩa lớn trong
việc huy động tiềm năng của các thành phần kinh tế như chế biến nông, lâm sản, thuỷ
điện, khai khoáng và và luyện alumin.
Biểu đồ 1: Cơ cấu kinh tế tỉnh Đăk Nông
Về cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế, đang chuyển dịch theo hướng sắp xếp
lại và đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước; phát huy tiềm năng của khu vực kinh tế ngoài
59,59
60,77
52,67
17,87
19,99
25,13
22,54
25,13
22,19
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
2005 2008 2010
Năm
Cơ cấu kinh tế toàn tỉnh
Dịch vụ
Công nghiệp, xây dựng
Nông, lâm, thủy sản