Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Thuyết Minh về Các Loại Văn học ở Việt Nam Trong Sách SGK 10 Cơ Bản pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.02 KB, 5 trang )

Thuyết Minh về Các Loại Văn học ở Việt Nam
Trong Sách SGK 10 Cơ Bản




*Khái niệm "truyện cổ tích":
Truyện cổ tích Việt Nam là những truyện truyền miệng dân gian kể lại những
câu chuyện tưởng tượng xoay quanh một số nhân vật quen thuộc như nhân vật tài giỏi,
nhân vật dũng sĩ, người mồ côi, người em út, người con riêng, người nghèo khổ,
người có hình dạng xấu xí, người thông minh, người ngốc nghếch và cả những câu
chuyện kể về các con vật nói năng và hoạt động như con người
*Nội dung truyện cổ tích:
Nội dung của truyện cổ tích Việt Nam thường bao gồm các điểm sau đây
Phản ánh và lý giải những xung đột, mâu thuẫn trong gia đình: Ăn khế trả vàng
hay Sự tích cây khế, Hầm vàng hầm bạc, Sọ Dừa, Chàng Dê, Tấm Cám, Thạch Sanh,
Trầu cau, Ba ông Bếp, Sao hôm - Sao mai, Đá vọng phu. Những xung đột xã hội diễn
ra bên ngoài gia đình được phản ánh muộn hơn, ít tập trung hơn. Cái cân thuỷ ngân,
Của trời trời lại lấy đi, Diệt mãng xà
Lý tưởng xã hội thẩm mỹ của nhân dân: Truyện cổ tích cho thấy sự bế tắc của
tầng lớp nghèo khổ trong xã hội cũ. Trong cổ tích, tác giả dân gian đã giải quyết vấn
đề bằng tưởng tượng, họ nhờ vào lực lượng thần kỳ và nhân vật đế vương.
Triết lý sống, đạo lý làm người và ước mơ công lý của nhân dân: tinh thần lạc
quan trong cổ tích chính là lòng yêu thương quý trọng con người, từ đó mà yêu đời,
tin vào cuộc đời. Hầu hết truyện cổ tích đều gián tiếp hoặc trực tiếp nêu lên vấn đề
đạo đức. Đạo đức luôn gắn với tình thương, lấy tình thương làm nền tảng: Đứa con
trời đánh, Giết chó khuyên chồng
* Phân loại:
Căn cứ vào nhân vật chính và tính chất sự việc được kể lại, có thể chia truyện
cổ tích ra làm 3 loại.
Truyện cổ tích về loại vật: chuyện ngụ ngôn những con vật nuôi trong nhà, khi


miêu tả đặc điểm các con vật thường nói đến nguồn gốc các đặc điểm đó: Trâu và
ngựa, Chó ba cẳng ; nhóm hoang dã là hệ thống truyện về con vật thông minh, dùng
mẹo lừa để thắng các con vật mạnh hơn nó: Cóc kiện Trời, truyện Công và Quạ.
Truyện dân gian Nam Bộ về loài vật có: Tại sao có địa danh Bến Nghé, Sự tích rạch
Mồ Thị Cư, Sự tích cù lao Ông Hổ ; chuỗi Truyện Bác Ba Phi: Cọp xay lúa
Truyện cổ tích thần kỳ: chuyện thần thoại chCổ tích thần kỳ kể lại những sự
việc xảy ra trong đời sống gia đình và xã hội của con người. Đó có thể là những mâu
thuẫn giữa các thành viên trong gia đình phụ quyền, vấn đề tình yêu hôn nhân, những
quan hệ xã hội (Tấm Cám, Cây khế, Sự tích con khỉ ). Nhóm truyện về các nhân vật
tài giỏi, dũng sĩ, nhân vật chính lập chiến công, diệt cái ác, bảo vệ cái thiện, mưu cầu
hạnh phúc cho con người (Thạch Sanh, Người thợ săn và mụ chằn). Nhóm truyện về
các nhân vật bất hạnh: về mặt xã hội, họ bị ngược đãi, bị thiệt thòi về quyền lợi, về
mặt tính cách, họ trọn vẹn về đạo đức nhưng thường chịu đựng trừ nhân vật xấu xí mà
có tài (Sọ Dừa, Lấy vợ Cóc, Cây tre trăm đốt )
Truyện cổ tích thế tục: Truyện tiếu lâm Truyện cũng kể lại những sự kiện khác
thường ly kỳ, nhưng những sự kiện này rút ra từ thế giới trần tục. Yếu tố thần kỳ, nếu
có, thì không có vai trò quan trọng đối với sự phát triển câu chuyện như trong cổ tích
thần kỳ. Nhóm truyện có đề tài nói về nhân vật bất hạnh (Trương Chi, Sự tích chim hít
cô, Sự tích chim quốc ); nhóm có nội dung phê phán những thói xấu: (Đứa con trời
đánh, Gái ngoan dạy chồng ); nhóm truyện về người thông minh: (Quan án xử kiện
hay Xử kiện tài tình, Em bé thông minh, Cái chết của bốn ông sư, Nói dối như
Cuội ); nhóm truyện về người ngốc nghếch: (Chàng ngốc được kiện, Làm theo vợ
dặn Nàng bò tót )

*Truyện cười:
Truyện cười (còn gọi là truyện tiếu lâm) là một lĩnh vực truyện kể dân gian
rộng lớn, đa dạng, phức tạp bao gồm những hình thức được gọi bằng những danh từ
khác nhau như truyện tiếu lâm, truyện khôi hài, truyện trào phúng, truyện trạng, giai
thoại hài hước
Tiếng cười trong sinh học mang tính bản năng, vô thức phát ra do phản ứng của

cơ thể một cách đơn thuần (tiếng cường của người bị gù, của bệnh nhân tâm thần ).
Trong khi, tiếng cười tâm lý xã hội biểu thị thái độ, bộc lộ tư tưởng, tình cảm con
người. Tiếng cười tâm lý xã hội có hai loại nhỏ: tiếng cười tán thưởng và tiếng cười
phê phán.
Tiếng cười tán thưởng biểu thị niềm vui, sự yêu mến. Tiếng cười phê phán biểu
thị sự khinh ghét, sự phủ nhận.
Tiếng cười phê phán là cái cười trong truyện cười. Cái cười phát ra từ cái đáng
cười. Cái đáng cười chứa đựng cái hài hiểu theo nghĩa triết học, nghĩa là có mâu thuẫn
bên trong. Ðó là mâu thuẫn giữa cái xấu và cái đẹp, giữa hình tượng và ý niệm, giữa
sinh động và máy móc .
[sửa] Nội dung
Nội dung của truyện cười có các mục đích:
Mua vui giải trí: nhằm mục đích giải trí là chủ yếu, song nó cũng có tính chất
phê phán nhẹ nhàng những thói xấu của người bình dân, những lầm lẫn, hớ hênh (Tay
ải tay ai, Thấy dễ mà thèm, Ăn vụng gặp nhau )
Phê bình giáo dục: phê bình thói hư tật xấu trong nội bộ nhân dân: Hội sợ vợ,
Áo mới lợn cưới, Sợ quá nói liều
Đả kích: vạch trần cái ác, cái xấu có tính bản chất của giai cấp thống trị trong
xã hội phong kiến. Truyện trào phúng đả kích từ vua chúa, quan lại đến địa chủ cường
hào, thầy đồ, thầy chùa, thầy pháp, thầy lang (Quan huyện thanh liêm, Thần bia trả
nghĩa, Nó phải bằng hai mày, Nam mô boong, Thầy đồ liếm mật, Chỉ có một con
ma ). Hệ thống truyện trạng (tiêu biểu là truyện Trạng Quỳnh, Truyện ông Ó).
[sửa] Phân loại
Theo tiêu chí kết cấu thì truyện cười có 2 nhóm lớn:
Truyện cười kết chuỗi:
nhóm truyện cười về nhân vật trung tâm là đối tượng của tiếng cười phê phán
(Trạng Lợn)
nhóm truyện cười về nhân vật trung tâm là người được ca ngợi, thán phục, đã
dũng cảm, mưu trí đấu tranh chống cái xấu, cái ác (Trạng Quỳnh).
Truyện cười không kết chuỗi:

truyện khôi hài (giải trí là chủ yếu),
truyện trào phúng (phê phán là chủ yếu), và
truyện tiếu lâm (có yếu tố tục).

×