Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Ảnh hưởng của vận động hành lang tới vụ kiện cá tra, cá basa của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.59 KB, 32 trang )

Mục lục
Lời nói đầu 3
Chơng 1: ảnh hởng của vận động hành lang trong vụ kiện cá tra, cá basa. 4
1.1 Tổng quan về vụ kiện cá tra, cá basa của Mỹ đối với Việt Nam 4
1.2 Quá trình vận động hành lang trong vụ kiện 8
Chơng 2: Phân tích ảnh hởng của vận động hành lang trong vụ kiện cá tra, cá basa.
13
2.1 Khái niêm về vận động hành lang 13
2.1.1 Định nghĩa vận động hành lang 13
2.1.2 Phơng thức vận động hành lang trên thị trờng Mỹ 13
2.1.3 Tác dụng và ý nghĩa của vận động hành lang 15
2.1.3.1 Tác dụng 15
2.1.3.2 ý nghĩa 17
2.1.4 Sự cần thiết của vận động hành lang 18
2.2 Vận động hành lang trong vụ kiện cá tra, cá basa của Việt Nam 19
2.2.1 Sự vận động hành lang của vụ kiện cá tra, cá basa 19
2.2.2 ảnh hởng của vận động hành lang trong vụ kiện 24
2.3 Nguyên nhân, u điểm, nhợc điểm của Việt Nam trong vụ kiện 26
2.3.1 u điểm 26
2.3.2 nhợc điểm 26
2.3.3 Nguyên nhân 27 Chơng
3: Bài học kinh nghiệm và giải pháp về vận động hành lang đối với chính phủ và các
doanh nghiệp kinh doanh quốc tế 29
3.1 Bài học kinh nghiệm 29
3.2 Giải pháp 31
Kết luận 33
Danh mục tài liệu tham khảo 34
Lời nói đầu
Trong những năm gần đây, quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức nhanh
chóng thông qua các hiệp định song phơng, đa phơng giữa các quốc gia. Trong quá
trình này, hợp tác kinh tế quốc tế là khía cạnh quan trọng nhất và giành đợc sự u tiên


nhiều nhất trên các bàn đàm phán.
Cũng giống nh các nớc khác, Việt Nam đang tham gia tích cực vào quá trình toàn
cầu hoá này. Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với khoảng 170 nớc trên thế giới, là
thành viên của khu vục mậu dịch tự do ASEAN, đã kí kết nhiều hiệp định song phơng
với nhiều nớc trên thế giới và chúng ta vẫn đang tiếp tục đẩy mạnh quá trình hợp tác
hoá cả về chất lợng và số lợng, đặc biệt là về kinh tế. Tuy nhiên, chúng ta mới chuyển
đổi từ nền kinh tế tập chung hoá sang nền kinh tế thị trờng đợc một thời gian ngắn vì
vậy nền kinh tế thị trờng của chúng ta còn nhiều nhợc điểm và kinh nghiệm kinh
doanh quốc tế của các doanh nghiệp còn hạn chế. Mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam
đã đạt đợc nhiều thành công nhng chúng ta cũng gặp không ít các thất bại trên thị tr-
ờng quốc tế mà lí do chính là chúng ta không nắm rõ luật chơi trên các thị trờng này.
Một trong các ví dụ điển hình là vụ kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá cá
tra, cá basa của Hiệp hội các nhà nuôi cá nheo Mỹ (CFA). Trong vụ kiện này CFA đã
tận dụng hoạt động Vận động hành lang và đây là lí do quan trọng để họ giành đợc
chiến thắng.
Vì vậy để làm rõ về vận động hành lang và tác động của vận động hành lang đối
với hoạt động kinh doanh quốc tế, đặc biệt là đối với các tranh chấp kinh tế quốc tế tôi
xin viết đề án này với đề tài ảnh hởng của vận động hành lang tới vụ kiện cá tra,
cá basa của Việt Nam. Do trình độ hạn chế nên đề án còn nhiều thiếu sót, em rất
mong đợc sự góp ý kiến của thầy cô giáo và bạn bè để nâng cao chất lợng của đề án
này và rút kinh nghiệm cho các bài viết sau.
Xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Tạ Lợi đã giúp đỡ tôi hoàn thành đề án này.
2
Chơng 1: ảnh hởng của vận động hành lang trong vụ
kiện cá tra, cá basa của Việt Nam
1.1 Tổng quan về vụ kiện cá tra, cá basa của Mỹ đối với Việt Nam
Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cá tra, cá basa sang thị trờng Mỹ vào năm 1996. Năm
1998, lợng cá lát catfish không xơng đông lạnh của Việt Nam xuất sang đây mới chỉ
có 260 tấn. Nhng đến cuối năm 2001, con số ấy đã vọt lên 7.746 tấn. Với giá thành rẻ
hơn từ 0,08 đến 1USD/pound và chất lợng không thua kém catfish Mỹ, cá Việt Nam

đã gây ảnh hởng không nhỏ tới việc tiêu thụ catfish của Mỹ, bằng chứng là tổng giá trị
catfish bán ra của Hiệp hội các nhà nuôi cá nheo Mỹ(CFA) giảm mạnh, từ 446
triệu USD năm 2000 xuống còn 385 triệu USD năm 2001. Dới sự cạnh tranh ngày
càng mạnh mẽ từ các sản phẩm cá của Việt Nam, CFA đã phải hành động nhằm đánh
bật con cá của Việt Nam ra khỏi thị trờng Mỹ.
9/2001 vụ kiện bắt đầu nổ ra bằng việc Mỹ mở cuộc chiến về tên gọi catfish đối với
sản phẩm cá tra, cá basa của Việt Nam xuất khẩu sang thị trờng này. CFA dựa vào
Luật Ngân sách nông nghiệp 107-76 của Mỹ để cấm loại cá này của Việt Nam đợc
nhập vào nớc này với tên gọi catfish và đạo luật HR.2646 cấm hoàn toàn việc dùng tên
catfish cho các loại cá tra, cá basa của Việt Nam trong tất cả các khâu bán lẻ, bán sỉ,
nhà hàng, thông tin, quảng cáo... trong vòng 5 năm. Cha dừng ở đây, CFA vin tiếp vào
điều khoản 10806 của đạo luật An ninh nông trại và Đầu t nông thôn mới nhất để xác
lập chủ quyền tuyệt đối trên thơng hiệu catfish. Tháng 12/2001, bất chấp sự phản đối
từ phía Việt Nam, Quốc hội Mỹ đã thông qua lệnh cấm tạm thời (có hiệu lực tới ngày
30/9/2002), theo đó, chỉ có catfish của Mỹ mới đợc gọi là catfish, còn cá của Việt
Nam phải đợc gọi bằng tên basa hay tra. Sau khi dự luật đợc thông qua, nó đã vấp phải
sự phản đối mạnh mẽ không chỉ của d luận Mỹ mà còn chịu sự phản đối của d luận thế
giới. Thợng nghị sĩ Phil Gramm, bang Texas khẳng định: Những ngời kiếm sống
trong ngành khoa học nuôi cá gọi nó là catfish, vậy cớ sao chúng ta(Quốc hội Mỹ) lại
3
muốn gọi nó khác đi. Ông Gramm cùng thợng nghị sĩ John Mccain đa ra một điều
khoản bổ xung nhằm bác bỏ dự luật cấm Việt Nam sử dụng nhãn catfish, tuy nhiên, đề
nghị của hai ông đã bị bác bỏ (theo báo Washington Post ngày 27/122001).
Sau khi giành chiến thắng về tên gọi catfish, Hiệp hội các nhà nuôi cá nheo
Mỹ(CFA) tiếp tục mở một cuộc tấn công khác: khởi kiện các doanh nghiệp Việt Nam
bán phá giá cá tra, cá basa. Theo Timothy R. Brown, tác giả bài viết Ngành nuôI cá
catfish Mỹ tiếp tục chiến đấu đăng trên AP ngày 26/2, khơI mào chiến dịch mới
chính là những ng dân ở thành phố Indianola (bang Mississipi, nơi đóng đô của CFA
và chiếm tới 94% sản phẩm catfish của toàn bộ miền Nam nớc Mỹ). Nhóm ng dân này
sẽ thuê hẳn một vài chuyên gia tầm cỡ từ Washington hỗ trợ cho các văn phòng t vấn

luật của bang, nhằm nỗ lực chuẩn bị cho đòn trừng phạt đối với cá giá rẻ của Việt
Nam. Phó chủ tịch điều hành CFA Hugh Warren quy chụp cho những lô cá xuất khẩu
của Việt Nam là những sản phẩm rẻ tiền, kém chất lợng mà ngời ta không thể tìm thấy
ở một xởng sản xuất cỡ gia đình nh các trại cá của Mỹ. Ông này cho rằng, mặc dù sản
phẩm rẻ tiền của Việt Nam đang chiếm tới 20% thị phần và hấp dẫn những nhà hàng,
khách sạn, nhng những nhà hàng, khách sạn này chỉ quan tâm tới giá cả chứ chẳng
để ý đến chất lợng của sản phẩm. Phóng viên Timothy nhận xét một cách khách quan
rằng, những ngời nuôI cá catfish Mỹ không thể chạy đua về giá với sản phẩm nhập
khẩu từ Việt Nam bởi chi phí đầu vào (đặc biệt là về nhân công và thuế ) quá cao. Tr-
ớc sức ép của cá da trơn đến từ Việt Nam, giá catfish Mỹ đã rớt thê thảm, từ 0.74
USD/ pound năm 2000 xuống còn 0.58 USD, thậm chí có lúc chỉ khoảng 0.2 USD/
pound. Theo Phó chủ tịch Warren: Mức giá nh vậy không đủ bù cho chi phí sản
xuất. ít nhất phải bán đợc 65-70 cent/ pound, may ra ngời nuôi cá mới có thể hoà vốn.
Ngày 28/6/2002, CFA đã đệ đơn kiện lên Uỷ ban hiệp thơng Quốc tế Mỹ (ITC). Họ
đã tính toán rất kĩ lỡng trong cuộc đi kiện lần này, bằng chứng đợc thể hiện ngay từ
cách nộp đơn kiện của họ: nộp đơn vào đúng lúc 4 giờ chiều ngày làm việc cuối cùng
trong tuần (thứ 6, ngày 28/6). Theo luật Mỹchỉ sau 20 ngày nhận đơn kiện, bên bị kiện
sẽ phải điều trần trớc ITC. Nh vậy, phía Việt Nam đã mất đI 3 ngày để chuẩn bị. Là
4
đơn kiện nhng khối lợng rất đồ sộ với hơn 200 trang kèm theo 37 phụ lục, trong đó
phân tích chi tiết về tình hình thị trờng cá nheo Mỹ, thị phần cá da trơn filê đông lạnh
của Việt Nam tại Mỹ cũng nh ảnh hởng của sản phẩm rẻ tiền (theo cách gọi của
CFA) đối với ngành sản xuất trong nớc.
Cha dừng lại ở đó, CFA tiếp tục chiến dịch của mình bằng cách nộp đơn lên Bộ Th-
ơng mại Mỹ (DOC) cho rằng, đã xuất hiện tình trạng khẩn cấp.để chứng minh điều
đó CFA đã đa ra các luận điểm:
+ Các nhà xuất khẩu Việt Nam biết cá tra, cá basa filê đông lạnh bị bán phá giá.
+ Các nhà xuất khẩu có thông tin về việc áp thuế chống phá giá đối với công ty của
mình với mức 25% hoặc cao hơn nữa trong giai đoạn điều tra ban đầu của DOC.
+ Các nhà xuất khẩu Việt Nam đã tăng số lợng hàng sang Mỹ sau khi CFA nộp

đơn yêu cầu điều tra chống phá giá .
+ Tính từ ngày 28/6/2002, số lợng hàng xuất khẩu sang Mỹ tăng ở mức 15% hoặc
cao hơn nữa so với thời gian trớc ngày nộp đơn yêu cầu điều tra chống phá giá.
+ Cần áp dụng hồi thuế chống phá giá để đảm bảo hiệu quả của thuế chống phá giá
sẽ đợc ban hành vào ngày 24/1/2003.
Tháng 11/2002 bất chấp sự phản đối từ phía Việt Nam, DOC đã kết luận Việt Nam
là nớc có nền kinh tế phi thị trờng, việc kết luận này dựa trên đánh giá theo các tiêu
chí của Mỹ nó đặt cơ sở cho việc xem xét áp dụng mức thuế chống bán phá giá đối với
mặt hàng cá tra, cá basa của Việt Nam. Ngày 28/1/2003, DOC tạm thời xác định mức
thuế chống bán phá giá đối với cá tra, cá basa của Việt Nam trong khoảng từ 31,45% -
63,88% tuỳ theo nhóm mặt hàng và doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, cá basa của nớc ta.
Cụ thể nh sau:
Tên công ty Mức thuế
Agifish 31,45%
Cataco 41,06%
Nam Việt 38,09%
Vĩnh Hoàn 37,94%
5
Các công ty khác
có tham gia vụ
kiện
36,76%
Các công ty
không tham gia
vụ kiện
63,88%
Tháng 3/2003, DOC đã cử đoàn quan chức sang Việt Nam để nghiên cứu điều tra
tình hình sản xuất cá tra, cá basa tại các tỉnh vùng DBSCL của Việt Nam để xác định
lần cuối mức thuế xuất chống bán phá giá. Các doanh nghiệp Việt Nam đã đáp ứng
đầy đủ các yêu cầu của đoàn điều tra và chứng minh năng lực cạnh tranh dựa trên quy

trình tổng hợp khép kín, từ sản xuất con giống, nuôi cá thơng phẩm, đến chế biến và
xuất khẩu các sản phẩm cá tra, cá basa. Tuy nhiên, đoàn điều tra của DOC đã bác bỏ
các tài liệu từ phía các doanh nghiệp đa ra và không công nhận quy trình khép kín
trong việc sản xuất cá tra, cá basa. Họ chỉ chấp nhận tính giá thành sản phẩm này từ
khâu chế biến và đem so sánh nó với nớc thứ 3 là Bangladesh một nớc không có quy
trình sản xuất khép kín nh Việt Nam.
Đầu tháng 5, Bộ Thơng mại Mỹ đã gợi ý Bộ Thơng mại hai bên sẽ tiến hành đàm
phán về một thoả thuận về đình chỉ vụ kiện này. Từ 2-9/5/2003, hai bên đàm phán,
nhng do quan điểm của hai bên rất khác nhau, cả về phơng pháp luận và mức độ tiếp
cận thị trờng Mỹ cho mặt hàng cá tra, cá basa filê đông lạnh của Việt Nam nên hai
bên đã không đạt đợc thoả thuận cuối cùng.
Ngày 17/6/2003, ITC mở phiêu điều trần vể vụ kiện cá tra, cá basa . Trong buổi
điều trần này, đại diện của chính phủ Việt Nam và đại diện của VASEP đã phát biểu
trớc ITC về vụ kiện này và yêu cầu Mỹ xem xét vụ kiện một cách khách quan. Tuy
nhiên, đến ngày 23/7/2003 ITC đa ra phán quyết cuối cùng về vụ kiện cá tra, cá basa.
Theo đó, cơ quan này đã khẳng định các doanh nghiệp Việt Nam bán cá tra, cá basa
6
vào thị trờng Mỹ thấp hơn giá thành, gây tổn hại tới ngành sản xuất cá da trơn của Mỹ
và ấn định mức thuế suất bán phá giá rất cao, từ 36.84-63.88%.Cụ thể nh sau:
Tên công ty Mức thuế
Agifish 44,76%
Cataco 45,55%
Nam Việt 52,90%
Vĩnh Hoàn 36,84%
Các công ty khác
có tham gia vụ
kiện
44,66%
Các công ty
không tham gia

vụ kiện
63,88%
Sau khi đa ra phán quyết thiếu công bằng, đến ngày 7/8/2003, Bộ Thơng mại Mỹ
chính thức công bố áp đặt thuế chống bán phá giá đối với 11 doanh nghiệp Việt Nam
xuất khẩu mặt hàng filê đông lạnh cá tra, cá basa vào thị trờng này.Về phía Việt Nam,
sau khi lấy ý kiến, các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, basa của Việt Nam đều nhất trí
tiếp tục theo đuổi vụ kiện. VASEP sẽ nộp đơn kiện lên toà án quốc tế thơng mại Mỹ.
1.2 quá trình vận động hành lang trong vụ kiện
Năm 1998, lợng cá tra, cá basa filê đông lạnh của Việt Nam xuất khẩu sang thị tr-
ờng Mỹ chỉ có 260 tấn, nhng đến năm 2001 con số này đã tăng vọt lên 7.746 tấn. Lo
ngại trớc sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ đó, hiệp hội nuôi catfish ở các tiểu bang
Mississipi, Lousiana, Askansa, Alabama đã sử dụng vận động hành lang (Lobby) để
bảo vệ quyền lợi kinh tế của mình, dới áp lực của các lobby của CFA buộc các nghị sĩ
ở các tiểu bang miền Nam phải có tác động tới Quốc hội Mỹ ra nghị quyết cản trở
nhập cá tra, cá basa của Việt Nam vào Mỹ. Tờ Washington Post ngày 10/9/2001 viết:
Việt Nam đang bán phá giá sang Mỹ hàng ngàn tấn cá basa trong năm nay, gây thiệt
hại cho các nhà nuôi cá nội địa. Nhiều nghị sĩ muốn Quốc hội yêu cầu gắn nhãn sản
phẩm Việt Nam cho mặt hàng này. Hai hạ nghị sĩ Dân chủ, Marion Berry và Mike
7
Ross của bang Arkansar(nơi có nguồn cung cấp cá basa lớn thứ 3 ở Mỹ, sau Mississipi
và Alabama) yêu cầu các hãng bán buôn không chỉ xác định rõ xuất xứ của cá basa
Việt Nam, mà còn gắn cho sản phẩm này mác basa Mekong, cá trê hoặc cá trê
basa để phân biệt với cái mà họ gọi là cá basa Mỹ thứ thiệt. Hạ nghị sĩ Berry đã
theo đuổi vấn đề này với giới chức thơng mại của Tổng thống Mỹ và cũng có dịp đề
cập với các quan chức Việt Nam. Ông Berry tuyên bố, sẽ tìm cách đa các điều khoản
trên vào dự luật khi nó đợc trình trớc Hạ viện hoặc đợc đa ra thảo luận tại Thợng viện
Mỹ tới đây. Duới sự tác động mạnh mẽ của lobby, tháng 9/2001 các đại biểu miền
Nam nớc Mỹ đã trình lên Quốc hội để tránh dùng từ catfish cho việc mua bán cá tra,
cá basa trên thị trờng Mỹ. Không những thế, chính quyền liên bang còn quyết định chi
6 triệu USD để mua catfish cho chơng trình ăn tra ở các trờng học, chiêu bài này đã

làm tăng hình ảnh về thơng hiệu catfish cho cá da trơn của Mỹ. Đến tháng 12/2001
Quốc hội Mỹ thông qua lệnh cấm tạm thời, theo đó, chỉ có catfish của Mỹ mới đợc gọi
là catfish, còn cá của Việt Nam phải đợc gọi bằng tên basa hay tra. Vậy do đâu lại có
lệnh cấm oái ăm về tên gọi nh vậy? Các nhà vận động hành lang cho ng dân Mỹ lập
luận rằng, cá của Việt Nam không hẳn là catfish và ngời Việt Nam đang lợi dụng
thành quả tiếp thị của những ngời nuôi cá Mỹ.
Tuy nhiên, sau khi lệnh cấm trên có hiệu lực, cá tra, cá basa của Việt Nam xuất
khẩu sang thị trờng Mỹ vẫn đợc ngời tiêu dùng chấp nhận, điều đó chứng tỏ rằng sản
phẩm này vẫn đợc ngời dân Mỹ chấp nhận và cũng khẳng định rằng cá Việt Nam
không lợi dụng thành quả tiếp thị của các nhà nuôi cá Mỹ, cá của Việt Nam đợc ng-
ời tiêu dùng Mỹ chấp nhận là do có lợi thế về giá cả và chất lợng. Lo ngại trớc tình
hình đó, CFA lại bắt đầu một chiến dịch chống cá tra, basa filê đông lạnh của Việt
Nam bằng cách kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá sản phẩm này sang thị
trờng Mỹ. Chiến dịch đợc khơi mào ở thành phố Indianola (bang Mississipi, nơi đóng
đô của CFA và chiếm tới 94% sản phẩm catfish của toàn bộ miền Nam nớc Mỹ).
Nhóm ng dân này sẽ thuê hẳn một vài chuyên gia tầm cỡ từ Washington hỗ trợ cho
các văn phòng t vấn luật của bang và vận động hành lang cho vụ kiện. Chiêu bài mà họ
8
sử dụng trong cuộc chiến này đó là qui cho những lô cá xuất khẩu của Việt Nam là
những sản phẩm rẻ tiền, kém chất lợng mà ngời ta không thể nào tìm thấy ở một xởng
sản xuất cỡ gia đình nh ở các trại cá của Mỹ ( phó Chủ tịch điều hành CFA). Ông này
cho rằng mặc dù sản phẩm rẻ tiền của Việt Nam đang chiếm tới 20% thị phần và rất
hấp dẫn các nhà hàng, khách sạn, nhng những nhà hàng khách sạn này chỉ quan tâm
tới giá cả chứ chẳng để ý tới chất lợng của sản phẩm. Thêm vào đó các nhà vận động
hậu trờng cho vụ kiện còn cho rằng cá tra, cá basa của Việt Nam đợc nuôi trong môi
trờng bị nhiễm chất độc màu da cam gây ảnh hởng tới sức khoẻ của ngời tiêu dung,
trong khi đó chính ngời Mỹ đã rải chất độc này trong cuộc chiến tranh với Việt Nam.
Ngày 28/6/2002, CFA đệ đơn kiện lên Uỷ ban hiệp thơng quốc tế Mỹ kiện Việt
Nam bán phá giá cá tra, cá basa sang thị trờng Mỹ. Cùng với thời gian đó, ngày
2/7/2002, hai nghị sĩ Mike Ross và Ronnie Shows, đại diện cho CFA lại gửi th trực

tiếp đến bà Deanna Tanner Okun, Chủ tịch Uỷ ban Hiệp thơng Quốc tế Mỹ, nêu luận
điểm: Đại diện cho những ngời nuôi catfish Mỹ, chúng tôi khẩn cấp đề nghị Uỷ ban
cân nhắc một cách có thiện chí đối với đơn kiện của CFA về việc cá tra, cá basa filê
đông lạnh nhập từ Việt Nam đợc bán phá giá, gây cạnh tranh và làm thiệt hại tới các
nhà nuôi cá catfish nội địa.
Ngày 28/1/2003, DOC ra quyết định tạm thời xác định mức thuế chống bán phá giá
đối với sản phẩm cá của Việt Nam trong khoảng 31,45% - 63,88%, quyết định này của
DOC đa ra đã bất chấp luận điểm của Việt Nam đa ra: việc sản xuất cá tra, basa của
Việt Nam đợc thực hiện theo quy trình liên hoàn, khép kín. DOC nói cha xem xét đến
yếu tố này do còn nhiều khúc mắc. Đến tháng 3/2003, DOC đã cử đoàn quan chức
sang Việt Nam khảo sát, chính họ đã thừa nhận quá trình sản xuất, chế biến cá tra,
basa ở Việt Nam là theo chu trình khép kín. Song, ở quyết định cuối cùng, DOC lại
cho rằng, ở Bangladesh không có doanh nghiệp nào sản xuất theo chu trình khép kín
nh các doanh nghiệp tại Việt Nam, nên giá thành sản xuất đợc tính từ giai đoạn chế
biến. Tại sao họ lại đa ra quyết định trái ngợc lại với những gì họ đã khẳng định? Đó
chính là do áp lực của các lobby của các tập đoàn nuôi cá da trơn Mỹ.
9
Cuối tháng 4/2003, Bộ Thơng mại Mỹ đã gợi ý Bộ Thơng mại hai bên sẽ tiến hành
đàm phán về một thoả thuận đình chỉ vụ kiện này. Từ ngày 2-9/5/2003, hai bên đã
tiến hành đàm phán nhng do quan điểm rất khác nhau nên cuộc đàm phán đã không
đạt đợc thoả thuận cuối cùng. Mỹ đã đa ra hạn mức xuất khẩu cá tra, basa filê đông
lạnh của Việt Nam vào Mỹ với mức rất thấp và ấn định giá bán xuất khẩu rất cao,
không thực tế nhằm cản trở việc nhập khẩu sản phẩm cá tra, basa của Việt Nam.
Trong cuộc đàm phán này, Việt Nam dựa vào chu trình sản xuất khép kín đối với loại
sản phẩm này và đề xuất áp dụng hạn ngạch đối với cá tra, cá basa ở các mức: năm
2003 bằng 90%; năm 2004 bằng 95%; năm 2005 bằng 100% mức năm 2002. Ngày
23/7/2003, ITC tiến hành bỏ phiếu để đa ra kết luận, tham gia bỏ phiếu có 4 thành
viên của ITC ( thiếu 2 ngời) và cả 4 thành viên này đều bỏ phiếu thuận theo DOC và
khẳng định Việt Nam đã bán phá giá cá tra, basa sang thị trờng Mỹ.
Về phía Việt Nam, theo luật của Mỹ, công ty đại diện pháp lý không đợc sử dụng

vận động hành lang, vì vậy, VASEP đã thuê hai công ty nổi tiếng để thực hiện việc
này. Nhờ việc sử dụng vận động hành lang, chúng ta đã có đợc sự ủng hộ của 6 thợng
nghị sĩ, các nghị sĩ này đã yêu cầu Quốc hội Mỹ xem xét lại các quyết định của mình
trong cả cuộc chiến về tên gọi catfish cũng nh cuộc chiến chống bán phá giá, nhng
những yêu cầu này đã bị bác bỏ. Trong thời gian diễn ra vụ kiện có rất nhiều tờ báo
nổi tiếng lên tiếng ủng hộ Việt Nam, và sản phẩm cá tra, cá basa đã đợc rất nhiều d
luận Mỹ ủng hộ.
Ngày 7/8/2003, DOC chính thức công bố áp đặt thuế chống bán phá giá đối với 11
doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu cá tra, cá basa filê đông lạnh sang thị trờng nớc
này. Sau khi đa ra quyết định, đã có rất nhiều d luận trên thế giới phản đối kết luận
này của Mỹ, trong đó có sự chỉ trích của Thủ tớng Malayxia và của Tổng Th kí Liên
Hợp Quốc. Cũng trong ngày 7/8, VASEP đã gửi đơn kiện lên Toà án Quốc tế Thơng
mại Hoa Kỳ, các thành viên của VASEP đều nhất trí theo đuổi vụ kiện này tới cùng .
VASEP sẽ kiện về sự bất nhất giữa quyết định sơ bộ và quyết định cuối cùng của
10
ITC, họ không tôn trọng ngay chính kết luận và lời cam kết của họ ( theo lời của ông
Nguyễn Hữu Dũng, Tổng Th kí VASEP).
Chơng 2: phân tích ảnh hởng của vận động hành lang
trong vụ kiện cá tra, cá basa của Việt nam
2.1 kháI niệm vận động hành lang
2.1.1 Định nghĩa vận động hành lang
Vận động hành lang hay còn gọi là lobby là việc các quan chức chính phủ, các cá
nhân có uy tín đại diện cho một cộng đồng ngời đa ra ý kiến đóng góp vào các dự thảo
luật của chính phủ, kêu gọi sự ủng hộ của các cá nhân khác hoặc thơng lợng các vấn
đề khi xảy ra tranh chấp nhằm đạt đợc lợi ích của cộng đồng mà mình đại diện.
2.1.2 phơng thức vận động hành lang trên thị trờng Mỹ
11
Mỹ là quê hơng của chủ nghĩa lobby(lobbism), không chỉ ở thị trơng Mỹ, mà ngay
tại các thị trờng khác lobby đợc coi là một hoạt động bình thờng và rất tích cực.
Washington là thủ đô của dân chuyên lobby, gồm 129 cựu nghị sĩ thờng xuyên lo

lắng của những cộng đồng, chủng tộc khác nhau. Lobby ở Mỹ đợc thành lập thành
nhóm thờng đợc gọi là các đại lý có ảnh hởng. Các nhóm lobby ở Washington đạt đ-
ợc rất nhiều hiệu quả, khi mỗi nhóm xuất phát từ quyền lợi bản thân tiến hành giám
định kĩ thuật chi li tỷ mỉ ( và biết rằng các đối thủ cạnh tranh không hề kém cạnh) và
trả giá cho việc này. Theo thống kê, hiện nay có khoảng 3700 nhóm lợi ích đặc biệt
đăng kí vận động hành lang.
Việc vận động hành lang đợc thực hiện ở tất cả các khía cạnh trên đất Mỹ từ kinh
tế, chính trị, pháp luật...Đối với các nghị sĩ Quốc hội Mỹ thì vận động hành lang là
hoạt động cần thiết và không thêt tách rời đối với tiến trình lập pháp của Hoa Kỳ.
Theo thống kê, có hơn 90% nỗ lực của các lobby hớng vào giải quyết các vấn đề đối
nội, tuy nhiên cung có khoảng 600 chuyên gia thờng xuyên làm việc với Quốc hội Mỹ
về vấn đề đối ngoại. Đối với tiến trình lập pháp, các lobby thờng trực tiếp đa ra các dự
thảo luật hoặc đóng góp ý kiến của mình cho các dự thảo luật và vận động để tranh thủ
sự ủng hộ của các nghị sĩ Quốc hội khác nhằm đạt đợc lợi ích của nhóm cộng đồng do
mình đại diện. Về chính trị, vận động hành lang ảnh hởng trực tiếp tới quá trình quá
trình bầu cử của một quốc gia, đặc biệt là ở Mỹ bầu cử theo phổ thông đầu phiếu và
Hạ viện phải ra ứng cử định kì hai năm một lần. Các cử tri có thể thể hiện sự ủng hộ
của mình cho một nghị sĩ không chỉ bằng các lá phiếu mà có thể bằng cả việc đóng
góp tiền cho quỹ bầu cử của nhân vật ấy. Từ đó các nghị sĩ quốc hội nhận ra rằng trách
nhiệm của họ là làm hàI lòng các cử chi đã bỏ phiếu cho họ. Để làm đợc điều đó, họ
phải bỏ lá phiếu lập pháp phản ánh đợc phần lớn mối quan tâm của các cử chi hoặc
chuẩn bị để bào chữa không bị bỏ phiếu phản đối khi thời gian bầu cử tới gần. Mặc dù
các hạ nghị sĩ đơng nhiệm thờng đợc giới lãnh đạo Hạ viện và Thợng viện chỉ thị bỏ
phiếu theo quan điểm của Đảng nhng họ vẫn chú ý tới kết quả của các cuộc thăm dò
d luận quần chúng và quan điểm của các cử tri ở các quận hoặc các bang của họ. Các
12

×