Nguyễn Thị Duệ
Nguyễn Thị Duệ (hay Nguyễn Thị Du[1]; ngoài ra, có người gọi bà tên Nguyễn
Thị Ngọc Toàn[2], hiệu Diệu Huyền), là nữ Tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam. Hiện chỉ
biết bà sống vào cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17, chưa rõ năm sinh và mất [3].
Tiểu sử
Nguyễn Thị Duệ là người ở Kiệt Đặc (nay là xã Văn An), huyện Chí Linh, tỉnh
Hải Dương.
Vốn là người thông minh, có nhan sắc nên mới hơn 10 tuổi, bà đã được nhiều
nhà quyền quí đến xin hỏi cưới, nhưng gia đình không thuận. Năm 1592, chúa Trịnh
Tùng đem quân đánh chiếm kinh đô Thăng Long, nhà Mạc chạy lên Cao Bằng.
Nguyễn Thị Duệ cùng gia đình đi theo.
Là một người hiếu học, song luật lệ bấy giờ không cho phép con gái được học
hành thi cử, Nguyễn Thị Duệ phải giả trai để dự việc đèn sách. Khoa thi Hội năm
Giáp Ngọ (1594)[4] bà mang tên giả là Nguyễn Du đi thi và đỗ đầu khi tuổi vừa 20.
Đến khi mở yến tiệc chiêu đãi các tân khoa, vua Mạc Kính Cung thấy vị tiến sĩ trẻ
dáng vẻ mảnh mai, mặt mày thanh tú nên dọ hỏi. Khi đã rõ chuyện, Nguyễn Thị Duệ
không bị khép tội mà còn được vua khen ngợi
Sau đó, vua vời bà vào cung để dạy các phi tần, rồi được tuyển làm phi: Tinh
Phi (Sao Sa) và người ta quen gọi là "Bà Chúa Sao"[5].
Năm 1625, quân Lê - Trịnh tiến lên Cao Bằng diệt nhà Mạc. Nguyễn Thị Duệ
vào rừng ẩn náu, bị quân lính bắt được. Mến tài, vua Lê và chúa Trịnh vẫn cho bà
trông coi việc dạy học trong vương phủ Năm 70 tuổi, Nguyễn Thị Duệ xin về nghỉ
nơi quê nhà.
Nguyễn Thị Duệ sống hơn 80 tuổi mới qua đời. Khi mất, người dân địa phương
lập đền thờ, tôn bà làm phúc thần.
Nhân cách
Khi còn làm việc quan, bà rất quan tâm đến việc thi cử, bồi dưỡng nhân tài.
Phần lớn ở các kỳ thi đình, thi hội; tất cả bài vở đều qua tay bà chấm chọn. Mỗi tháng
vài kỳ, bà cùng các bậc túc nho đến giảng dạy, ôn tập cho các sĩ tử. Ngoài ra, bà còn
xin triều đình cấp nhiều mẫu ruộng tốt, cho canh tác lấy huê lợi, giúp đỡ học trò nghèo
biết chăm chỉ.
Người ta còn truyền tụng câu chuyện: Thưở hàn vi, anh trai Nguyễn Thị Duệ bị
người trong làng hãm hại, nhưng khi vinh hiển, bà không hề nghĩ đến thù riêng.
Một lần dự cuộc vui, Nguyễn Thị Duệ quen được hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc
Trúc (vợ vua Lê Thần Tông). Từ đấy, bà thường cùng hoàng hậu đi lễ chùa, gặp các
nhà sư thông tuệ, đạo hạnh; gặp gỡ các sĩ phu có tài, như Giang Văn Minh, Khương
Thế Hiền để hiểu rõ tình hình trong nước nhằm giúp vua, chúa kịp thời điều chỉnh
chính sách cho phù hợp. Do nhiều công lao, bà được thăng chức “Chiêu Nghi” hiệu là
“Nghi Ái Quan”.
Tuổi cao, Nguyễn Thị Duệ cáo quan về lại quê nhà, bà dựng am Đào hoa để có
nơi đọc sách và bảo ban các sĩ tử trong làng.
Vua Lê giao cho bà số thuế hằng năm của tổng Kiệt Đặc để làm bổng lộc; chỉ
dành một ít tiền chi dụng, còn bao nhiêu bà dành hết cho việc công ích và trợ giúp
người nghèo.
Về sáng tác, theo Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề (1697-?), thì: Văn thơ
của bà rất nhiều, nhưng nay không còn bài nào. Bà có làm bài Gia ký bằng Quốc âm
thuật lại các việc riêng và tự ví mình như Bạc Thị[6].
Bài Gia ký có mấy câu rằng:
Kém gì một chút đảo điên,
So le Bạc Thị vốn duyên Hán hoàng.
Nữ nhi dù đặng có lề
Ắt là tay thiếp kém gì trạng nguyên.
Ghi công
Trên Website Phụ nữ ViệtNamviết:
Dưới thời phong kiến ở ViệtNam, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã không cho
giới nữ được bình đẳng với nam giới, kể cả việc học hành, thi cử. Vậy mà có một
người con gái tài sắc, đức độ, trí tuệ trác việt đã vượt qua luật lệ khắt khe đó, đạt tới
học vị tiến sĩ. Đó là Nguyễn Thị Duệ
Danh sĩ Vũ Phương Đề khen ngợi bà là:
Lễ sư thông tuệ, nhất kính chiếu tam vương (Công Dư tiệp ký)
Tháp mộ Nguyễn Thị Duệ trên đỉnh một quả đồi cạnh núi Phượng Hoàng (Chí
Linh, Hải Dương). Cuối triều Lê, Tinh Phi cổ tháp được xếp vào hàng Chí Linh bát
cổ, trong đó có những câu:
Lạ thay nhất kính chiếu ba vương
Kiệt Đặc tinh phi vốn cố hương
Đẹp tuyệt trần gian thêm sắc sảo
Đình làng Kiệt Đoài có một pho tượng đẹp gọi là Vua Bà (tức Nguyễn Thị
Duệ) và một sắc phong thờ phụng: “chánh vương phủ, thị nội cung tần, lế sư Nguyễn
Thị Ngọc tôn thần. Người có công giúp nước, che chở cho dân ”. Ngoài ra tại thôn
Trung Hà, xã Nam Tân, huyện Nam Sách (đất phong của bà, khi địa phương này
thuộc huyện Chí Linh) cũng có đền thờ bà gồm có tượng và sắc phong từ hơn 100
năm của các triều đại phong kiến ViệtNam, hiện vẫn còn tồn tại
Năm 2004, có tám vị đại khoa của Hải Dương là hiền tài của đất nước được
đúc tượng đồng và khám thờ, trong đó có nữ Tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ. Bà được thờ
cùng Khổng Tử tại hậu cung Văn miếu Mao Điền (Hải Dương).