Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Đề tài: Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.27 KB, 47 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………….2
PHẦN NỘI DUNG…………………………………………………………………………….3
45
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………… 46
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, vấn đề xây dựng nhãn hiệu mạnh là một yêu cầu quan
trọng với sự tồn tại và phát triển của mọi doanh nghiệp. Đặc biệt trong bối cảnh nước ta trở
thành thành viên chính thức của tổ chức TM thế giới WTO và là thành viên của nhiều tổ chức
kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Đối với hoạt động kinh doanh nói chung, nhãn hiệu có
thể giúp doanh nghiệp đạt vị thế dẫn đầu. Một nhãn hiệu mạnh sẽ giúp doanh nghiệp có lợi
thế và đứng vững trong cạnh tranh, giành được sự tin tưởng từ phía khách hàng. Nhãn hiệu
làm tăng giá trị của sản phẩm trên thị trường đồng thời tạo lợi nhuận bền vững cho công ty sở
hữu. Một nhãn hiệu càng nổi tiếng thì khả năng gia tăng thị phần trên thị trường càng cao.
Nhãn hiệu được coi như một tài sản quý của doanh nghiệp và là một công cụ cạnh tranh của
thời kỳ hội nhập. Do vậy, doanh nghiệp muốn thành công trên thương trường cần có một sự
nhận thức đúng đắn về nhãn hiệu.
Cũng chính vì vai trò và tầm quan trọng đó, có nhiều nhãn hiệu bị xâm phạm, thậm chí
bị “ăn cắp” bằng nhiều hình thức khác nhau.
Pháp luật thế giới nói chung và pháp luật quốc gia nói riêng đã và đang xây dựng hệ
thống Pháp luật về Sở hữu trí tuệ. Và vấn đề “Bảo hộ nhãn hiệu” là một mảng quan trọng của
hệ thống pháp luật để bảo vệ quyền lợi cho chủ sở hữu nhãn hiệu, bảo vệ cho chính nhãn hiệu.
Có rất nhiều tình huống trong thực tế đã và đang xảy ra trên phạm vi Thế giới và cả Việt Nam,
xoay quanh câu chuyện “Bảo hộ Nhãn hiệu”.
Nhóm chúng em nghiên cứu đề tài này muốn giới thiệu tổng quan về nhãn hiệu, đưa ra
sự khác biệt cơ bản giữa nhãn hiệu và thương hiệu. Đồng thời những quy định của pháp luật
Thế giới nói chung – họ điều chỉnh vấn đề Bảo hộ nhãn hiệu như thế nào, và của pháp luật
Việt Nam nói riêng. Tình hình thực tế của vấn đề Bảo hộ Nhãn hiệu hiện nay cụ thể ra sao, có
những điểm gì tiến bộ và còn tồn tại những mặt hạn chế nào. Từ đó nhóm đề xuất một số kiến
nghị đối với vấn đề bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam.
Vì kinh nghiệm còn thiếu và kiến thức về nhãn hiệu còn hạn hẹp, cho nên dù nhóm đã


cố gắng nghiên cứu nhưng không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Kính mong thầy góp ý để nhóm
có thể hoàn thiện vốn kiến thức của mình.
1
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÃN HIỆU VÀ BẢO HỘ
NHÃN HIỆU
1.1 Nhãn hiệu
1.1.1 Nhãn hiệu- Trademarks là gì
1
?
Hiện nay, nhãn hiệu chiếm lĩnh một vị trí quan trọng trong thương mại. Nhãn hiệu có
thể được mua bán hoặc có thể cho thuê quyền sử dụng. Nhãn hiệu có thể được bảo hộ trong
nước hoặc trên quốc tế.
Theo Điều 785 Bộ Luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì: “Nhãn
hiệu hàng hóa là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở
sản xuất kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết
hợp của các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc”.
Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ: “Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu của
doanh nghiệp (hoặc tập thể các doanh nghiệp) dùng để phân biệt với hàng hóa cùng loại của
doanh nghiệp khác”.
Theo Philip Kotler một chuyên gia marketing hàng đầu của thế giới thì: “Nhãn hiệu sản
phẩm là tên, thuật ngữ, dấu hiệu, biểu tượng, hình vẽ hay sự phối hợp giữa chúng, có công
dụng dùng để xác nhận hàng hóa hay dịch vụ của một người bán hay một nhóm người bán và
phân biệt chúng với các hàng hóa, dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh”.
Nhãn hiệu đã được sử dụng từ thời xa xưa khi các nhà sản xuất muốn phân biệt hàng
hóa của mình. Thuật ngữ nhãn hiệu “trademark” xuất phát từ người Aixơlen cổ đại với nghĩa
là đốt cháy “to burn”. Sự tự hào về hàng hóa do chính mình sản xuất không phải là lý do
chính để sử dụng nhãn hiệu. Thật ra, các nhà sản xuất muốn khách hàng nhận biết được nhà
sản xuất với hi vọng rằng khách hàng sẽ mua lại trong những lần sau hay giới thiệu với người
1 />2

khác. Ban đầu thì người ta đóng dấu nhãn hiệu cho các loại gia súc, về sau thì các nhà sản
xuất gốm, gia thú và tơ lụa cũng sử dụng phương pháp này để phân biệt các sản phẩm của họ
với nhà sản xuất khác.
1.1.2 Thương hiệu - Brand là gì?
Thương hiệu là khái niệm trong người tiêu dùng về sản phẩm với dấu hiệu của nhà sản
xuất gắn lên mặt, lên bao bì hàng hoá nhằm khẳng định chất lượng và xuất xứ sản phẩm.
Thương hiệu thường gắn liền với quyền sở hữu của nhà sản xuất và thường được uỷ quyền
cho người đại diện thương mại chính thức.
Thương hiệu - theo định nghĩa của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO): là một dấu
hiệu (hữu hình và vô hình) đặc biệt để nhận biết một sản phẩm hàng hoá hay một dịch vụ nào
đó được sản xuất hay được cung cấp bởi một cá nhân hay một tổ chức.".
Hiện nay ở Việt Nam chưa có định nghĩa về thương hiệu mà chỉ đưa ra định nghĩa về
nhãn hiệu, do đó chỉ có nhãn hiệu mới là đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt
Nam. Trong khi đó, theo hệ thống luật Anh Mỹ, thương hiệu có thể được bảo hộ và người chủ
sở hữu nhãn hiệu đã đăng kí sẽ có quyền kiện bất cứ ai xâm phạm đến thương hiệu của mình.
Lưu ý phân biệt thương hiệu với nhãn hiệu. Một nhà sản xuất thường được đặc trưng bởi một
thương hiệu, nhưng ông ta có thể có nhiều nhãn hiệu hàng hóa khác nhau. Ví dụ, Toyota là
một thương hiệu, nhưng đi kèm theo có rất nhiều nhãn hiệu hàng hóa: Innova, Camry
Thuật ngữ thương hiệu đôi khi cũng được sử dụng để đề cập tới bất cứ đặc tính khác
biệt nào của hàng hóa đã được xác nhận, đặc biệt là các tính chất đặc trưng của sản phẩm
được nhiều người biết tới, ví dụ thời trang Gucci, kính râm Elton John's Cần phải chú ý rằng
quyền bảo hộ thương hiệu chỉ thực sự có được khi đã sử dụng và đăng kí thương hiệu đó cho
một dòng sản phẩm hoặc dịch vụ nhất định. Quyền sở hữu đối với thương hiệu có thể sẽ bị
loại bỏ hoặc không tiếp tục được bảo hộ nữa nếu nó không tiếp tục được sử dụng vì thế chủ
thương hiệu phải sử dụng thương hiệu của mình nếu muốn duy trì quyền này.
1.1.3 Phân biệt giữa nhãn hiệu và thương hiệu
Chúng ta có thể phân biệt như sau:
Nhãn hiệu Thương hiệu
Nhìn nhận dưới góc độ pháp lý:
- Được bảo hộ bởi pháp luật (do

luật sư, bộ phận pháp chế của
công ty phụ trách)
- Có tính hữu hình: giấy chứng
nhận, đăng ký…
- Nhãn hiệu là những dấu hiệu
dùng để phân biệt hàng hóa,
dịch vụ cùng loại của các cơ sở
sản xuất kinh doanh khác nhau
Nhìn nhận dưới góc độ quản trị tiếp thị
của doanh nghiệp:
- Do doanh nghiệp xây dựng và
công nhận bởi khách hàng.
- Có tình vô hình: tình cảm, lòng
trung thành của khách hàng…
- Một nhà sản xuất thường được
đặc trưng bởi một thương hiệu,
nhưng có thể có nhiều nhãn hiệu
hàng hóa khác nhau
3
- Nhãn hiệu hàng hóa có thể là từ
ngữ, hình ảnh hoặc kết hợp các
yếu tố đó được thể hiện bằng
một hoặc nhiều màu sắc
- Thương hiệu là sự kì vọng của
khách hàng về sản phẩm hay
dịch vụ bất kì.
Những lợi ích mà một thương hiệu mạnh có thể mang lại cho công ty:
- Trước hết, thương hiệu là có giá trị và có thể định lượng được bằng tiền. Mỗi năm, tổ
chức Interbrand đều tiến hành định giá thương hiệu và công bố danh sách 100 thương hiệu có
giá trị cao nhất trên thế giới. Bảng xếp hạng mới nhất là công bố vào tháng 7/2006 với những

thương hiệu có giá trị nhiều tỷ đô la như Cocacola 67 tỷ đô la, Sam Sung trên 16 tỷ, HSBC
11,6 tỷ v.v. 100 thương hiệu có giá trị nhất thế giới đến từ nhiều quốc gia khác nhau và từ
nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau từ hàng tiêu dùng cho đến thời trang, điện toán, tài chính
ngân hàng v.v. Điểm quan trọng cần nhấn mạnh là tổng giá trị của 100 thương hiệu hàng đầu
này có giá trị gần 1000 tỷ đô la, xấp xỉ tổng thu nhập của 63 quốc gia nghèo nhất trên thế giới
(nơi có tới gần một nửa dân số thế giới đang sinh sống).
- Một thương hiệu mạnh sẽ mang lại cho chủ nhân cơ hội thu được một mức giá cao
hơn từ khách hàng so với sản phẩm cùng loại. Chỉ cần tháo mác Raph Lauren ra khỏi chiếc áo
sơ mi, ai trong chúng ta có thể sẵn lòng chi trả 300.000 đồng (đã thấp hơn 200.000 đồng so
với giá thực khi có mác) cho chiếc áo này? Chắc sẽ không quá khó để có câu trả lời.
- Thương hiệu mạnh giúp cắt giảm chi phí. Ngân hàng Gia Định và ACB sẽ đầu tư bao
nhiêu tiền để có thêm một khách hàng biết về mình, hay mua dịch vụ của mình, hay trung
thành với mình? Chắc hẳn chúng ta không có câu trả lời chính xác nhưng chắc chắn, khoản
đầu tư sẽ không giống nhau (bằng nhau về giá trị) và thương hiệu nào sẽ phải đầu tư ít tiền
hơn hẳn chúng ta cũng có thể suy luận được.
- Thương hiệu mạnh củng cố tính bền vững cho doanh nghiệp. Thế giới là thay đổi. Bất
kỳ thương hiệu nào cũng phải đối đầu với thách thức từ sự thay đổi này. Nhu cầu người tiêu
dùng có thể thay đổi, khoa học công nghệ tiến bộ không ngừng, đối thủ cạnh tranh gia nhập
thị trường ngày càng nhiều, những sự cố luôn rình rập doanh nghiệp dạng Xe Super dream bị
gãy cổ lái, Tổng giám đốc ngân hàng đã bỏ trốn, Sữa tươi làm từ sữa bột, Nước tương có thể
gây ung thư, v.v Đối đầu với sự thay đổi này, các lợi thế so sánh hữu hình dạng giá thành hạ,
công nghệ cao, vốn lớn, sản phẩm chất lượng, v.v sẽ là rất quan trọng nhưng khó có thể duy
trì vị thế của doanh nghiệp. Một thương hiệu mạnh giúp tạo ra khách hàng trung thành. Mà
khách hàng trung thành thì không bao giờ rời bỏ thương hiệu mạnh chỉ vì những thay đổi nhỏ
và càng không dễ dàng rời bỏ ngay mà luôn bao dung, rộng lòng chờ đợi sự thay đổi của
thương hiệu mà mình trung thành.
1.1.4 Phân loại nhãn hiệu
Dựa vào dấu hiệu được sử dụng làm nhãn hiệu thì có ba loại nhãn hiệu:
4
- Nhãn hiệu chữ: bao gồm các chữ cái (có kèm theo cả chữ số), từ (có nghĩa hoặc

không có nghĩa; có thể là tên gọi, từ tự đặt…), ngữ (một cụm từ, có thể là một khẩu hiệu trong
kinh doanh)
- Nhãn hiệu hình: bao gồm hình vẽ, ảnh chụp, biểu tượng, hình khối (hình không gian
ba chiều);
- Nhãn hiệu kết hợp: kết hợp cả từ ngữ và hình ảnh
Dựa vào tính chất, chức năng của nhãn hiệu, pháp luật Việt Nam và thế giới đều quy
định các loại nhãn hiệu sau:
- Nhãn hiệu hàng hóa: là dấu hiệu phân biệt hàng hóa của những nhà sản xuất khác
nhau;
- Nhãn hiệu dịch vụ: là dấu hiệu phân biệt dịch vụ do các chủ thể kinh doanh khác nhau
cung cấp
- Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các thành viên
của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân
không phải là thành viên của tổ chức đó.
- Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá
nhân khác sử dụng trên hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các
đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hoá, cách thức cung
cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hoá,
dịch vụ mang nhãn hiệu.
- Nhãn hiệu liên kết là nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc tương tự
nhau, dùng cho các sản phẩm, dịch vụ cùng loại, hoặc tương tự với nhau hoặc có liên
quan với nhau.
- Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh
thổ Việt Nam.
Quyền sở hữu đối với nhãn hiệu được xác lập theo văn bằng bảo hộ do Cục Sở hữu trí
tuệ cấp (Điều 4 Luật SHTT).
1.2. Bảo hộ nhãn hiệu
1.2.1. Tại sao phải bảo hộ nhãn hiệu?
1.2.1.1. Lợi ích và phạm vi bảo hộ
Chúng ta đã nghe nhắc nhiều đến những khái niệm như “nhãn hiệu độc quyền” hay

“nhãn hiệu đã đăng ký”, tuy rằng tên gọi khác nhau nhưng chúng lại cùng một ý nghĩa. Đây
chính là việc mà các chủ sở hữu nhãn hiệu đều muốn làm - đăng ký bảo hộ đối với nhãn hiệu
của mình. Bằng hành động đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, các chủ sở hữu đã ngăn không cho
người nào khác sử dụng nhãn hiệu trùng hay tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu
của mình. Bên cạnh đó, chủ sở hữu nhãn hiệu còn có thể bảo vệ uy tín thương mại của những
sản phẩm hay dịch vụ của mình cung cấp thông qua việc bảo hộ nhãn hiệu. Độc quyền nhãn
hiệu chỉ được bảo hộ trong giới hạn về thời gian, không gian và nội dung mà mình đã yêu cầu
5
bảo hộ. Tuy nhiên, nếu một nhãn hiệu được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng thì phạm vi bảo
hộ của nó có thể mở rộng ra với mọi loại sản phẩm.
Ví dụ: Công ty sản xuất bột ngọt nhãn hiệu A-ONE đã kiện công ty sản xuất nước uống
tinh khiết A-ONE.
1.2.1.2. Quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu khi đăng ký bảo hộ
 Quyền của chủ sở hữu
Chủ sở hữu nhãn hiệu được độc quyền sử dụng và định đoạt đối với các dấu hiệu được
bảo hộ. Độc quyền ở đây chúng ta có thể hiểu theo hai nghĩa
2
:
- Thứ nhất, chủ sở hữu có quyền cho hay không cho người khác sử dụng nhãn hiệu của
mình thông qua một hợp đồng (hợp đồng li-xăng).
- Thứ hai, khi có hành vi xâm phạm độc quyền của mình, chủ sở hữu có thể tự mình yêu
cầu hay thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người có hành vi xâm phạm chấm
dứt hành vi và bồi thường thiệt hại.
Quyền sử dụng bao gồm: gắn nhãn được bảo hộ lên lên sản phẩm hay dịch vụ của mình,
tàng trữ, lưu thông, bán, nhập khẩu, quảng cáo sản phẩm có nhãn hiệu được cấp văn bằng bảo
hộ. Đối ngược với độc quyền sử dụng, pháp luật cũng quy định rõ một số hành vi sử dụng
không thuộc độc quyền của chủ sở hữu – còn được gọi là sử dụng hạn chế. Bao gồm các hành
vi sau:
- Bán lại các đối tượng được bảo hộ do chính chủ sở hữu hay người được chủ sở hữu
đưa ra thị trường (exhaustion of rights). Ví dụ: một người mua nước khoáng LaVie ở Tiền

Giang có thể đem đúng sản phẩm LaVie này bán ở Lâm Đồng mà không cần phải xin phép
chủ sở hữu nhãn hiệu LaVie.
- Sử dụng nhãn hiệu không nhằm mục đích kinh doanh như: giảng dạy, bình luận, chỉ
trích.
- Sử dụng nhãn hiệu trên các phương tiện quá cảnh (máy bay, tàu thuyền đi qua vùng
trời, vùng biển Việt Nam).
Ngoài quyền sử dụng, chủ sở hữu nhãn hiệu được quyền chuyển giao quyền sở hữu văn
bằng bảo hộ hay quyền sử dụng của mình thông qua hợp đồng Li-xăng và được quyền để lại
thừa kế. Tuy nhiên, để đảm bảo khả năng phân biệt của nhãn hiệu, pháp luật quy định chỉ
được để lại thừa kế nhãn hiệu cho một chủ thể.
 Nghĩa vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu
Chủ sở hữu nhãn hiệu có nghĩa vụ phải sử dụng nhãn hiệu mà mình được bảo hộ không
được gián đoạn quá 5 năm. Trong trường hợp ngược lại, bất kỳ người nào cũng có quyền yêu
2 Tham khảo Quyền sở hữu trí tuệ, Lê Nết, NXB Đại học quốc gia TP.HCM 2006
6
cầu Cục SHTT đình chỉ hiệu lực văn bằng bảo hộ
3
. Điều này nhằm hạn chế tình trạng một số
chủ thể chỉ đăng ký nhãn hiệu mà không sử dụng chúng. Việc quy định nghĩa vụ sử dụng
nhãn hiệu được áp dụng hầu hết ở các nước, nhằm tập trung vào mục đích chính của việc bảo
hộ nhãn hiệu “bảo hộ uy tín sáng tạo của các chủ thể”. Bên cạnh đó, chủ sở hữu còn phải thực
hiện các quyền của mình phải phù hợp với quy định pháp luật, về mục đích và nội dung
không được trái với pháp luật, đạo đức xã hội, xâm phạm quyền và lợi ích của Nhà nước, lợi
ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân khác. Trong trường hợp nhằm
đảm bảo mục tiêu quốc phòng, an ninh, dân sinh và các lợi ích khác của Nhà nước, xã hội thì
Nhà nước có quyền cấm hay hạn chế chủ thể quyền sở hữu nhãn hiệu thực hiện quyền của
mình hoặc buộc phải cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng một hay một số quyền phù
hợp.
4
1.2.2. Điều kiện bảo hộ nhãn hiệu

Tuy nhiên, quyền sở hữu đối với nhãn hiệu chỉ được xác lập trên cơ sở quyết định cấp
văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật
SHTT 2005 hay công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của Điều ước quốc tế mà Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
5
. Theo quy định của pháp luật Việt Nam
6
, nhãn hiệu
được bảo hộ nếu đáp ứng được các điều kiện:
1.2.2.1 Là dấu hiệu nhìn thấy được
Các dấu hiệu này phải nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể
cả hình ba chiều hay sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hay một số màu sắc
nhất định. Từ đây, ta có thể thấy rằng ở Việt Nam chỉ bảo hộ những nhãn hiệu có thể nhận biết
bằng thị giác. Trong khi đó, trên thế giới hiện nay, bên cạnh loại nhãn hiệu truyền thống là dấu
hiệu nhìn thấy được, pháp luật một số nước còn bảo hộ cả nhãn hiệu là âm thanh như tiếng
nhạc mà con người có thể nhận biết được bằng thính giác, hoặc các dấu hiệu mùi hương mà
con người có thể nhận biết được thông qua khứu giác hay chỉ đơn thuần là nhãn hiệu được thể
hiện bằng một màu sắc nhất định.
Ví dụ, tại Hoa Kỳ, tiếng sư tử gầm của hãng sản xuất phim MGM đã được bảo hộ nhãn
hiệu, hay mùi hương của hoa mới nở cũng được bảo hộ nhãn hiệu cho sản phẩm chỉ thêu theo
văn bằng bảo hộ số U.S.Reg.No.13639128
7
.
3 Xem Điều 136 Luật SHTT 2005 đã được sử đổi bổ sung 2009
4 Xem thêm Điều 7, Điều 9 Luật SHTT 2005 đã được sửa đổi bổ sung 2009
5 Xem điểm a, khoản 3, điều 6 Luật SHTT 2005 đã được sửa đổi bổ sung 2009
6 Cụ thể Điều 72, Luật SHTT 20055 được sửa đổi, bổ sung 2009
7 Tham khảo bài viết Dấu hiệu mang chức năng trong pháp luật về nhãn hiệu - Một giải pháp cho vấn đề xung
đột quyền bảo hộ, Th.S Vương Thanh Thúy, Đại học Luật Hà Nội.
7

Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận việc chấp nhận bảo hộ các dấu hiệu thể hiện dưới
dạng không gian ba chiều của Việt Nam là một bước tiến đáng kể và tương đối phù hợp với
các quy định bảo hộ nhãn hiệu của các quốc gia khác trên thế giới. Chính việc thừa nhận “dấu
hiệu hiện đại” này đã thể hiện được sự điều chỉnh hợp lý của các quy định pháp luật với thực
tế phát triển của các quan hệ xã hội.
1.2.2.2 Nhãn hiệu phải có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu
nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác
Có thể thấy điều kiện này bao gồm hai yêu cầu: (1) Nhãn hiệu phải có khả năng tự phân
biệt và (2) Nhãn hiệu không trùng hay tương tự gây nhầm lẫn với một trong các đối tượng
thuộc phạm vi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của người khác.
(1) Khả năng tự phân biệt của nhãn hiệu
Theo quy định tại khoản 1 Điều 74 Luật SHTT 2005, nhãn hiệu được coi là có khả năng
phân biệt nếu tạo thành từ một hay một số yếu tố dễ nhận biết, dễ ghi nhớ hoặc từ nhiều yếu
tố kết hợp thành một tổng thể dễ nhận biết, dễ ghi nhớ.
Ở đây, yếu tố được hiểu là một trong những bộ phận của dấu hiệu, nhãn hiệu có khả
năng tự phân biệt nếu có một hay một số yếu tố tạo nên được sự “dễ nhận biết” và “dễ ghi
nhớ”. Dấu hiệu dễ nhận biết, dễ ghi nhớ là dấu hiệu tạo nên một ấn tượng nhất định, có khả
năng giúp cho người tiếp xúc với chúng có thể lưu trữ trong trí nhớ, dễ dàng nhận biết và
phân biệt chúng với các loại nhãn hiệu khác.
Nhãn hiệu bị coi là không có khả năng tự phân biệt nếu nhãn hiệu đó là dấu hiệu thuộc
một trong các trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 74 Luật SHTT 2005:
“a) Hình và hình học đơn giản, chữ số, chữ cái, chữ thuộc các ngôn ngữ không
thông dụng, trừ trường hợp các dấu hiệu này đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với
danh nghĩa một nhãn hiệu;
b) Dấu hiệu, biểu tượng quy ước, hình vẽ hoặc tên gọi thông thường của hàng hoá,
dịch vụ bằng bất kỳ ngôn ngữ nào đã được sử dụng rộng rãi, thường xuyên, nhiều người
biết đến;
c) Dấu hiệu chỉ thời gian, địa điểm, phương pháp sản xuất, chủng loại, số lượng,
chất lượng, tính chất, thành phần, công dụng, giá trị hoặc các đặc tính khác mang tính
mô tả hàng hoá, dịch vụ, trừ trường hợp dấu hiệu đó đã đạt được khả năng phân biệt

thông qua quá trình sử dụng trước thời điểm nộp đơn đăng ký nhãn hiệu;
d) Dấu hiệu mô tả hình thức pháp lý, lĩnh vực kinh doanh của chủ thể kinh doanh;
đ) Dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hoá, dịch vụ, trừ trường hợp dấu hiệu
đó đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn hiệu hoặc được đăng
ký dưới dạng nhãn hiệu tập thể hoặc nhãn hiệu chứng nhận quy định tại Luật này;
e) Dấu hiệu không phải là nhãn hiệu liên kết trùng hoặc tương tự đến mức gây
8
nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự trên
cơ sở đơn đăng ký có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn trong trường hợp đơn
đăng ký được hưởng quyền ưu tiên, kể cả đơn đăng ký nhãn hiệu được nộp theo điều
ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
g) Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người
khác đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự
từ trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên trong trường hợp đơn được hưởng quyền ưu
tiên;
h) Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người
khác đã đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự mà đăng ký nhãn hiệu đó đã
chấm dứt hiệu lực chưa quá năm năm, trừ trường hợp hiệu lực bị chấm dứt vì lý do nhãn
hiệu không được sử dụng theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 95 của Luật này;
i) Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được coi là
nổi tiếng của người khác đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự với hàng
hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng hoặc đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ không tương
tự, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm ảnh hưởng đến khả năng phân biệt của nhãn
hiệu nổi tiếng hoặc việc đăng ký nhãn hiệu nhằm lợi dụng uy tín của nhãn hiệu nổi
tiếng;
k) Dấu hiệu trùng hoặc tương tự với tên thương mại đang được sử dụng của người
khác, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn
gốc hàng hoá, dịch vụ;
l) Dấu hiệu trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ nếu việc sử
dụng dấu hiệu đó có thể làm cho người tiêu dùng hiểu sai lệch về nguồn gốc địa lý của

hàng hoá;
m) Dấu hiệu trùng với chỉ dẫn địa lý hoặc có chứa chỉ dẫn địa lý hoặc được dịch
nghĩa, phiên âm từ chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ cho rượu vang, rượu mạnh nếu dấu
hiệu được đăng ký để sử dụng cho rượu vang, rượu mạnh không có nguồn gốc xuất xứ
từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý đó;
n) Dấu hiệu trùng hoặc không khác biệt đáng kể với kiểu dáng công nghiệp của
người khác được bảo hộ trên cơ sở đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp có ngày nộp đơn
hoặc ngày ưu tiên sớm hơn so với ngày nộp đơn, ngày ưu tiên của đơn đăng ký nhãn
hiệu «.
Những nhãn hiệu được coi là đương nhiên có khả năng phân biệt gồm :
- Những nhãn hiệu là những từ tự tạo, không có nghĩa (fanciful trademark). Ví dụ : nhãn
hiệu Kodak do Công ty Eastman Kodakm đăng ký là tự tạo và không có nghĩa
- Nhãn hiệu tùy hứng (arbitrary trademark) là những từ ngữ phổ biến nhưng lại được sử
dụng một cách độc đáo, hoàn toàn không liên quan đến sản phẩm hay dịch vụ mang
9
nhãn hiệu. Ví dụ : từ CAMEL và hình con lạc đà được đăng ký làm nhãn hiệu cho sản
phẩm thuốc lá.
(2) Nhãn hiệu phải không trùng hay tương tự gây sự nhầm lẫn với một trong các đối
tượng thuộc phạm vi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của người khác.
 Nhãn hiệu là để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau, nên
một nhãn hiệu dùng cho một sản phẩm, dịch vụ nhất định chỉ có thể thuộc về một chủ
thể duy nhất. Nếu nhãn hiệu được đăng ký lại trùng hoặc gây nhầm lẫn với dấu hiệu
của người khác đã được bảo hộ hoặc được nộp đơn đăng ký sớm hơn thì sẽ không
được bảo hộ vì nó không bảo đảm được chức năng phân biệt của nhãn hiệu. Theo
những quy định tại Điều 4 của Văn bản hướng dẫn 89/104/EEC về hài hòa pháp luật
về nhãn hiệu hàng hóa của các quốc gia Châu Âu, một nhãn hiệu hàng hóa sẽ không
thể được đăng ký, hoặc nếu đã được đăng ký sẽ có thể bị tuyên bố vô hiệu ở các quốc
gia Châu Âu nếu nó bị coi là giống hoặc tương tự với những nhãn hiệu đã được đăng
ký được sử dụng cho những hàng hóa hay dịch vụ tương tự, hoặc nó có thể gây ra sự
nhầm lẫn với những nhãn hiệu Cộng đồng trước đó

8
.
Các dấu hiệu về nhãn hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam tuy rằng so với các
nước trên thế giới có sự khác biệt nhưng suy cho cùng một dấu hiệu muốn được coi là nhãn
hiệu hàng hóa thì cần phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện đã được chuẩn hóa trên toàn thế giới.
Theo WIPO, nhìn chung có hai loại điều kiện khác nhau cần phân biệt đó là:
Điều kiện thứ nhất liên quan tới chức năng cơ bản của nhãn hiệu hàng hóa, đó là chức
năng phân biệt sản phẩm hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp này với các sản phẩm hoặc dịch
vụ của các doanh nghiệp khác. Do vậy, một nhãn hiệu hàng hóa phải độc đáo hoặc có khả
năng phân biệt với các sản phẩm khác nhau.
Điều kiện thứ hai liên quan tới các hậu quả mà nhãn hiệu hàng hóa có thể gây ra nếu
những hàng hóa có những đặc tính gây hiểu lầm hoặc vi phạm tới trật tự công cộng và đạo
đức xã hội.
9
Ngoài ra đối tượng nhãn hiệu có khả năng được bảo hộ theo các điều ước quốc tế
như: quy định tại Điều 15.1 Hiệp định TRIPS, và Điều 16.1 Hiệp định thương mại Việt Nam -
Hoa Kỳ.
1.2.3. Trình tự, thủ tục đăng ký bảo hộ nhãn hiệu
1.2.3.1. Quyền nộp đơn
Chỉ có những người có quyền nộp đơn mới được nộp đơn yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, các loại chủ thể này bao gồm
10
:
8 THS. PHẠM NGỌC TÂM – BẢO VỆ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG THEO PHÁP LUẬT CHÂU ÂU VÀ HOA
KỲ - TẠP CHÍ KHPL SỐ 4 (35)/2006
9 Cẩm nang sở hữu trí tuệ: Chính sách, pháp luật và áp dụng, trang 69
10 Điều 87 – Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009
10
“1. Tổ chức, cá nhân có quyền đăng ký nhãn hiệu dùng cho hàng hoá do mình sản
xuất hoặc dịch vụ do mình cung cấp.

2. Tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động thương mại hợp pháp có quyền đăng ký
nhãn hiệu cho sản phẩm mà mình đưa ra thị trường nhưng do người khác sản xuất với
điều kiện người sản xuất không sử dụng nhãn hiệu đó cho sản phẩm và không phản đối
việc đăng ký đó.
3. Tổ chức tập thể được thành lập hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu tập thể
để các thành viên của mình sử dụng theo quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể; đối với
dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hóa, dịch vụ, tổ chức có quyền đăng ký là tổ
chức tập thể của các tổ chức, cá nhân tiến hành sản xuất, kinh doanh tại địa phương
đó; đối với địa danh, dấu hiệu khác chỉ nguồn gốc địa lý đặc sản địa phương của Việt
Nam thì việc đăng ký phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
4. Tổ chức có chức năng kiểm soát, chứng nhận chất lượng, đặc tính, nguồn gốc
hoặc tiêu chí khác liên quan đến hàng hóa, dịch vụ có quyền đăng ký nhãn hiệu chứng
nhận với điều kiện không tiến hành sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đó; đối với
địa danh, dấu hiệu khác chỉ nguồn gốc địa lý đặc sản địa phương của Việt Nam thì việc
đăng ký phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
5. Hai hoặc nhiều tổ chức, cá nhân có quyền cùng đăng ký một nhãn hiệu để trở
thành đồng chủ sở hữu với những điều kiện sau đây:
a) Việc sử dụng nhãn hiệu đó phải nhân danh tất cả các đồng chủ sở hữu hoặc sử
dụng cho hàng hoá, dịch vụ mà tất cả các đồng chủ sở hữu đều tham gia vào quá trình
sản xuất, kinh doanh;
b) Việc sử dụng nhãn hiệu đó không gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn
gốc của hàng hoá, dịch vụ.
6. Người có quyền đăng ký quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này, kể cả
người đã nộp đơn đăng ký có quyền chuyển giao quyền đăng ký cho tổ chức, cá nhân
khác dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản, để thừa kế hoặc kế thừa theo quy định của
pháp luật với điều kiện các tổ chức, cá nhân được chuyển giao phải đáp ứng các điều
kiện đối với người có quyền đăng ký tương ứng.
7. Đối với nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế
có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu đăng ký nhãn
hiệu đó mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên thì người đại diện

hoặc đại lý đó không được phép đăng ký nhãn hiệu nếu không được sự đồng ý của chủ
sở hữu nhãn hiệu, trừ trường hợp có lý do chính đáng.
11

Việc xác định quyền nộp đơn xác định tính trung thực của người nộp đơn yêu cầu bảo
hộ. Người nộp đơn có nghĩa vụ cam đoan với Cục SHTT về sự trung thực và quyền nộp đơn
11 Điều 87, Luật SHTT 2005 đã được sử đổi bổ sung 2009
11
của mình. Nếu như vi phạm cam kết, văn bằng bảo hộ sẽ bị hủy và chủ văn bằng sẽ phải chịu
mọi trách nhiệm do việc văn bằng bị hủy gây ra.
Ví dụ: cơ sở Hưng Vận được cấp GCN đăng ký nhãn hiệu “Sure Star” vào năm 1993
cho một nhóm sản phẩm trong đó có sản phẩm điện gia dụng. Ngày 12/3/1993, Bộ KH-ĐT
cấp giấy phép cho công ty Seoul Sure Star của Hàn Quốc được liên doanh với xí nghiệp DQ
thành lập công ty liên doanh Việt Sure Star. Trong số các sản phẩm liên doanh có tắc-te mang
nhãn hiệu Sure Star. Phát hiện ra nhãn hiệu của mình bị một cơ sở khác đăng ký, trong khi
bản thân cũng chưa đăng ký bảo hộ, Việt Sure Star đã yêu cầu Cục SHTT hủy bỏ hiệu lực văn
bằng bảo hộ của Hưng Vận vì đã không trung thực khi nộp đơn xin bảo hộ. Yêu cầu này đã
được chấp nhận vì Hưng Vận không phải là người có quyền nộp đơn.
12
Tổ chức, cá nhân nước ngoài đáp ứng các điều kiện để được bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp tại Việt Nam
13
có thể nộp đơn đăng ký sở hữu công nghiệp tại Việt Nam theo các điều
ước về hoặc liên quan đến thủ tục nộp đơn quốc tế. Các điều ước quốc tế quy định tại khoản
này bao gồm:
a) Hiệp ước hợp tác quốc tế về Bằng sáng chế năm 1970, được sửa đổi năm 1984 (sau
đây gọi tắt là “Hiệp ước PCT”);
b) Thoả ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu năm 1891, được sửa đổi năm 1979
(sau đây gọi tắt là “Thoả ước Madrid”) và Nghị định thư liên quan đến Thoả ước Madrid năm
1989 (sau đây gọi tắt là “Nghị định thư Madrid”);

c) Các điều ước quốc tế khác về hoặc liên quan đến thủ tục nộp đơn quốc tế mà Việt
Nam là thành viên, kể từ thời điểm điều ước quốc tế bắt đầu có hiệu lực đối với Việt Nam.
1.2.3.2. Hồ sơ cần thiết
 Tài liệu tối thiểu
(a) 02 Tờ khai đăng ký theo mẫu số 04-NH, Phụ lục A của Thông tư 01/2007/TT-
BKHCN;
(b) Mẫu nhãn hiệu và danh mục hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu;
12 Tham khảo Quyền sở hữu trí tuệ, Lê Nết, NXB Đại học quốc gia TP.HCM , 2006
13 Khoản 2, điều 2, Nghị định 103/2006/NĐ-CP đã được sử đổi bởi Nghị định 122/2011/NĐ-CP “2.Tổ chức,
cá nhân nước ngoài đáp ứng các điều kiện hưởng sự bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp tại Việt Nam theo các
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Các điều ước quốc tế quy định tại khoản này bao gồm:
a) Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp năm 1883, sửa đổi năm 1967 (sau đây gọi tắt là “Công
ước Paris”);
b) Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ năm 2000;
c) Hiệp định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ Việt Nam - Thụy Sĩ
năm 1999;
d) Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS) năm
1994, kể từ thời điểm Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới;
đ) Các điều ước quốc tế khác liên quan đến việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp mà Việt Nam là thành
viên.
12
(c) Chứng từ nộp phí, lệ phí.
 Đối với đơn đăng ký nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận
Ngoài các tài liệu quy định trên đây,đơn còn bắt buộc phải có thêm các tài liệu sau đây:
(a) Quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể/nhãn hiệu chứng nhận;
(b) Bản thuyết minh về tính chất,chất lượng đặc trưng (hoặc đặc thù) của sản phẩm
mang nhãn hiệu (nếu nhãn hiệu được đăng ký là nhãn hiệu tập thể dùng cho sản phẩm có tính
chất đặc thù hoặc là nhãn hiệu chứng nhận chất lượng của sản phẩm hoặc là nhãn hiệu chứng
nhận nguồn gốc địa lý);
(c) Bản đồ xác định lãnh thổ (nếu nhãn hiệu đăng ký là nhãn hiệu chứng nhận nguồn gốc

địa lý của sản phẩm).
 Yêu cầu đối với đơn
(a) Mỗi đơn chỉ được yêu cầu cấp một văn bằng bảo hộ;
(b) Mọi tài liệu của đơn đều phải được làm bằng tiếng Việt. Đối với các tài liệu được
làm bằng ngôn ngữ khác theo quy định tại điểm 7.3 và điểm 7.4 của Thông tư 01/2007/TT-
BKHCN thì phải được dịch ra tiếng Việt;
(c) Mọi tài liệu của đơn đều phải được trình bày theo chiều dọc (riêng hình vẽ, sơ đồ và
bảng biểu có thể được trình bày theo chiều ngang) trên một mặt giấy khổ A4 (210mm x
297mm), trong đó có chừa lề theo bốn phía, mỗi lề rộng 20mm, trừ các tài liệu bổ trợ mà
nguồn gốc tài liệu đó không nhằm để đưa vào đơn;
(d) Đối với tài liệu cần lập theo mẫu thì bắt buộc phải sử dụng các mẫu đó và điền đầy
đủ các thông tin theo yêu cầu vào những chỗ thích hợp;
(e) Mỗi loại tài liệu nếu bao gồm nhiều trang thì mỗi trang phải ghi số thứ tự trang đó
bằng chữ số Ả-rập;
(f) Tài liệu phải được đánh máy hoặc in bằng loại mực khó phai mờ, một cách rõ ràng,
sạch sẽ, không tẩy xoá, không sửa chữa; trường hợp phát hiện có sai sót không đáng kể thuộc
về lỗi chính tả trong tài liệu đã nộp cho Cục Sở hữu trí tuệ thì người nộp đơn có thể sửa chữa
các lỗi đó, nhưng tại chỗ bị sửa chữa phải có chữ ký xác nhận (và đóng dấu, nếu có) của
người nộp đơn;
(g) Thuật ngữ dùng trong đơn phải là thuật ngữ phổ thông (không dùng tiếng địa
phương, từ hiếm, từ tự tạo). Ký hiệu, đơn vị đo lường, phông chữ điện tử, quy tắc chính tả
dùng trong đơn phải theo tiêu chuẩn Việt Nam;
13
(h) Đơn có thể kèm theo tài liệu bổ trợ là vật mang dữ liệu điện tử của một phần hoặc
toàn bộ nội dung tài liệu đơn.
14
1.2.3.3. Nộp đơn yêu cầu bảo hộ-xác định ngày ưu tiên
Việc cấp văn bằng bảo hộ được bắt đầu bằn việc nộp đơn và lệ phí.
Các chủ thể có thể nộp đơn tại Cục SHTT
15

hay nộp đơn tại nước ngoài (tại một nước
thành viên của thỏa ước Madrid).
Tổ chức, cá nhân Việt Nam có quyền tự mình nộp đơn đăng ký nhãn hiệu, hoặc có thể
(không bắt buộc) thông qua dịch vụ trung gian của một Tổ chức dịch vụ đại diện sở hữu công
nghiệp, thay mặt mình làm và nộp đơn.
Tổ chức, cá nhân nước ngoài không thường trú hoặc không có đại diện hợp pháp, không
có cơ sở kinh doanh thực thụ ở Việt Nam nộp đơn thông qua việc uỷ quyền cho Tổ chức dịch
vụ đại diện sở hữu công nghiệp
16
.
Ngày nộp đơn hợp lệ sẽ được coi là ngày ưu tiên theo nguyên tắc “ai nộp đơn trước sẽ
được hưởng quyền ưu tiên xét đơn so với các chủ thể nộp đơn sau”
17
. Tuy nhiên nguyên tắc
này có một ngoại lệ: nếu chủ thể nộp đơn tại một quốc gia khác từ trước và có yêu cầu về
hưởng quyền ưu tiên theo Công ước Paris thì ngày ưu tiên sẽ tính theo các Công ước hay Hiệp
ước đó.
18
 Việc chấp nhận đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu theo các điều ước quốc tế Việt Nam
tham gia có 2 nguyên tắc được ghi nhận: Xin bảo hộ đầu tiên và người sử dụng đầu
tiên. Cũng giống như quy định ở Việt Nam thì hầu như ghi nhận việc bảo hộ nhãn hiệu
theo nguyên tắc xin bảo hộ đầu tiên.
 Tuy nhiên, cũng cần đề cập đến Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ ghi nhận
nguyên tắc sử dụng đầu tiên ( first to use), từ đó một nhãn hiệu được đăng ký hay
không có thể do một bên quy định căn cứ vào việc sử dụng nhãn hiệu đó. Nhưng việc
sử dụng một nhãn hiệu thực sự không được coi là một điều kiện để nộp đơn đăng ký.
Không được phép từ chối đơn đăng ký chỉ vì lý do dự định sử dụng chưa được thực
hiện trước khi kết thúc thời hạn 3 năm kể từ ngày nộp đơn, hơn thế công ước Paris còn
14 />OpenAgent&UNID=C161564AC24FAE4F4725777300129F03
15 Ở Nhật Bản, cơ quan chịu trách nhiệm xem xét đơn đăng ký nhãn hiệu là Phòng sáng chế Nhật Bản (JPO)

16 />17 Điều 90, Luật SHTT 2005 đã được sửa đổi bổ sung 2009
18 Điều 10, Nghị định 103/2006/NĐ-CP hướng dẫn Luật SHTT về sở hữ công nghiệp đã được sửa đổi bởi Nghị
định 122/2011/NĐ-CP
14
ghi nhận nguyên tắc bảo hộ độc lập trong việc bảo hộ nhãn hiệu tại mỗi nước tại điều
6.1.
19
Để đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, người nộp đơn phải nộp các khoản phí và lệ phí quy
định (tại Thông tư số 22/2009/TT-BTC ngày 04/02/2009 của Bộ Tài chính), bao gồm các
khoản sau
20
:
Các khoản phí, lệ phí Lệ phí (đồng)
Lệ phí nộp đơn (cho mỗi nhóm đến 6 sản phẩm, dịch vụ)
- Nếu tài liệu đơn dạng giấy 180.000
- Nếu đơn kèm tài liệu điện tử mang toàn bộ nội dung tài liệu
đơn
150.000
- Nếu đơn nhãn hiệu có trên 6 sản phẩm/dịch vụ trong một nhóm,
phải nộp thêm cho mỗi sản phẩm/dịch vụ từ thứ 7 trở đi
30.000
Lệ phí yêu cầu hưởng quyền ưu tiên (mỗi đơn/yêu cầu) 600.000
Phí thẩm định nội dung (cho mỗi nhóm đến 6 sản phẩm, dịch vụ) 300.000
- Nếu đơn nhãn hiệu có trên 6 sản phẩm/dịch vụ trong một nhóm,
phải nộp thêm cho mỗi sản phẩm/dịch vụ từ thứ 7 trở đi
60.000
Phí tra cứu thông tin (cho mỗi nhóm đến 6 sản phẩm, dịch vụ) 60.000
- Nếu đơn nhãn hiệu có trên 6 sản phẩm/dịch vụ trong một nhóm,
phải nộp thêm cho mỗi sản phẩm/dịch vụ từ thứ 7 trở đi
24.000

Lệ phí đăng bạ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu 120.000
Lệ phí cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu 120.000
Lệ phí công bố Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu 120.000
Lệ phí gia hạn hiệu lực (cho mỗi nhóm sản phẩm/dịch vụ) 540.000
19 />9001/
20 />OpenAgent&UNID=8ADA4A3045633EA347257773002E2670
15
Lệ phí nộp đơn có thể nộp gộp làm một lần, bao gồm tổng cộng các loại phí hoặc nộp
làm nhiều lần (lệ phí nộp đơn, lệ phí phân loại, lệ phí xét nghiệm, lệ phí đăng ký…). Hai hình
thức nộp lệ phí đều có ưu điểm và nhược điểm. Một mặt, lệ phí thanh toán một lần tỏ ra đơn
giản và hiệu quả hơn. Mặt khác, điều này có thể dẫn tới những hậu quả bất hợp lý đối với
những người nộp đơn khi quyết định rút toàn bộ hay một phần đơn xin đăng ký dùng trong
quá trình đăng ký (ví dụ do sự phản đối của chủ sở hữu có quyền trước hoặc do những ý kiến
từ chối không phản bác được cơ quan đăng ký). Trong trường hợp như vậy luật pháp cần phải
quy định việc hoàn trả lại một phần lệ phí đã nộp
1.2.3.4. Quy trình, thời hạn xem xét
21
Đơn đăng ký nhãn hiệu được xử lý tại Cục SHTT theo trình tự tổng quát sau (sơ đồ quy
trình thẩm định đơn đăng ký nhãn hiệu
22
):
 Thẩm định hình thức:
Là việc đánh giá tính hợp lệ của đơn theo các yêu cầu về hình thức,về đối tượng loại trừ,
về quyền nộp đơn… để từ đó đưa ra kết luận đơn hợp lệ hay không hợp lệ. Thời gian thẩm
định hình thức là 1 tháng kể từ ngày nộp đơn.
Tính hợp lệ bao gồm quyền nộp đơn và các yêu cầu khác đối với đơn mà không phải là
tiêu chuẩn bảo hộ, ví dụ như ngôn ngữ sử dụng, giấy ủy quyền, tính thống nhất của đơn, lệ phí
nộp đơn. Nếu phát hiện đơn có thiếu sót thì sẽ có thông báo để chủ thể nộp đơn bổ sung.
 Công bố đơn hợp lệ:
Đơn đăng ký nhãn hiệu được chấp nhận là hợp lệ được công bố trên Công báo SHCN

trong thời hạn 2 tháng kể từ ngày được chấp nhận là đơn hợp lệ. Ở Mỹ, thời hạn này là 30
ngày. Nội dung công bố đơn đăng ký nhãn hiệu là các thông tin liên quan đến đơn hợp lệ ghi
trong thông báo chấp nhận đơn hợp lệ, mẫu nhãn hiệu và danh mục hàng hóa, dịch vụ kèm
theo.
Kể từ thời điểm đăng trên Công báo, bất kỳ người thứ ba nào cũng có quyền có ý kiến
về việc cho hay không cho chủ thể nộp đơn được cấp văn bằng bảo hộ (opposition period).
 Thẩm định nội dung:
Đơn đăng ký nhãn hiệu đã được công nhận là hợp lệ được thẩm định nội dung để đánh
giá khả năng cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu cho đối tượng nêu trong đơn theo các
điều kiện bảo hộ. Thời hạn thẩm định nội dung đơn nhãn hiệu là 9 tháng kể từ ngày công bố
đơn.
21 Tham khảo
22 Xem phục lục
16
Hầu hết các nước đều quy định xét nghiệm nội dung đối với đươn xin đăng ký nhãn hiệu
hàng hóa vì lợi ích công và đối thủ cạnh tranh. Nói chung, ba cách tiếp cận có thể thấy trên
quy mô quốc tế.
Hệ thống pháp luật Vương quốc Anh quy định trách nhiệm xét nghiệm các lý do tuyệ
đối và tương đối của các cơ quan đăng ký, đồng thời quy định thủ tục phản đối. Hệ thống này
cũng được quy định tại châu Âu như các nước Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và các nước Bắc
Âu.
Theo cách tiếp cận thứ hai, cơ quan đăng ký chỉ xét nghiệm các lý do tuyệt đối, còn
pháp luật không quy định về thủ tục phản đối và dành cho chủ sở hữu quyền có trước tiến
hành thủ tục hủy bỏ hiệu lực đăng ký hay khởi kiện hành vi vi phạm do việc đăng ký hay sử
dụng thủ tục có sau. Hệ thống này được áp dụng theo luật Nhãn hiệu hàng hóa cũ của Pháp và
Thụy Sĩ song cả hai quốc gia này đều quy định thủ tục phản đối trong luật mới cả họ.
Hệ thống thứ ba theo kiểu của Đức quy định việc Cơ quan đăng ký xét nghiệm theo lý
do tuyệt đối và có việc phản đối theo thủ tục hành chính, trong đó sở hữu các quyền có trước
có thể phản đối đơn xin đăng ký nhãn hiệu vi phạm bằng một thủ tục rút gọn và không quá
tốn kém. Hệ thống này là sự thỏa hiệp giữa các hệ thống nêu trên và theo xu hướng hiện đại

được phản ánh trong Hệ thống Nhãn hiệu hàng hóa của Cộng đồng Châu Âu.
Doanh nghiệp thường ủng hộ hệ thống như trên hơn, bởi tiêu tốn ít thời gian hơn và linh
hoạt hơn. Biết được có rất nhiều nhãn hiệu hàng hóa được đăng ký trong các đăng bạ khác
nhau trên toàn thế giới, trong bất kỳ trường hợp nào cũng nên tra cứu các quyền có trước
trước khi đăng ký nhãn hiệu và thậm chí trước khi sử dụng nhãn hiệu. Hầu hết những người
làm đơn thường xuyên tra cứu, còn các công ty đại diện sở hữu của mình hoặc dịch vụ theo
dõi quốc tế thông báo cho họ về việc có các đơn yêu cầu đăng ký nhãn hiệu tương tự tiềm ẩn
nguy cơ xung đột.
Các tiêu chuẩn mà cơ quan đăng ký áp dụng khi xét nghiệm xem một đơn xin đăng ký
nhãn hiệu có bị từ chối là quyền có trước là giống với, các tiêu chuẩn được áp dụng trong thủ
tục phản đối hay bởi thẩm phán khi xem xét vụ kiện hành vi vi phạm sẽ đóng vai trò bổ sung.
Một trong những quyền cơ bản của chủ sở hữu nhãn hiệu đăng ký là ngăn chặn người
khác sử dụng nhãn hiệu của mình hay sử dụng nhãn hiệu tương tự tới mức gây nhầm lẫn.
23
Người nộp đơn có quyền khiếu nại về việc từ chối cấp văn bằng bảo hộ lên Cục SHTT
trong vòng 90 ngày kể từ ngày nhận được thông báo từ chối. Nếu đồng ý với lập luận của
người khiếu nại thì Cục SHTT sẽ cấp văn bằng bảo hộ cho nhãn hiệu nộp đơn. Ngược lại, nếu
Cục SHTT tiếp tục từ chối, thì người khiếu nại có thể chọn một trong hai giải pháp: tiếp tục
khiếu nại lên Bộ Khoa học -Công nghệ- Môi trường hay khởi kiện tại Tòa hành chính.
23 Cẩm nang sở hữu trí tuệ: Chính sách, pháp luật và áp dụng, trg 77-79
17
Ví dụ: công ty Garden Ltd xin đăng ký nhãn hiệu Chicken Thins cho các sản phẩm làm
từ bột ngũ cốc, bánh mì, mứt, bách bích quy. Ban đầu Cục SHTT từ chối vì Chicken tiếng
Anh có nghĩa là thịt gà, vì vậy nhãn hiệu này có thể làm cho người tiêu dùng hiểu lầm sản
phẩm làm từ thịt gà. Người nộp đơn đã khiếu nại thông báo từ chối vì họ cho rằng “chicken
thins” là hoàn toàn không có nghĩa và vì thế mà nó hoàn toàn có khả năng phân biệt. Cuối
cùng, Cục SHTT đá chấp nhận lập luận trên và quyết định cấp văn bằng bảo hộ cho nhãn hiệu
này.
24
 Sửa đổi, bổ sung đơn:

Trước khi Cục Sở hữu trí tuệ ra thông báo từ chối chấp nhận đơn hợp lệ, thông báo từ
chối cấp văn bằng bảo hộ hoặc quyết định cấp văn bằng bảo hộ, người nộp đơn có thể chủ
động hoặc theo yêu cầu của Cục Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung các tài liệu đơn.
Đối với yêu cầu sửa đổi, bổ sung Mẫu nhãn hiệu, danh mục hàng hoá, dịch vụ mang
nhãn hiệu đối với đơn đăng ký nhãn hiệu, người nộp đơn phải nộp bản tài liệu tương ứng đã
được sửa đổi, kèm theo bản thuyết minh chi tiết nội dung sửa đổi so với bản tài liệu ban đầu
đã nộp.
Việc sửa đổi, bổ sung đơn không được mở rộng phạm vi (khối lượng) bảo hộ vượt quá
nội dung đã bộc lộ trong danh mục hàng hoá, dịch vụ đối với đơn đăng ký nhãn hiệu và không
được làm thay đổi bản chất của đối tượng nêu trong đơn. Nếu việc sửa đổi làm mở rộng phạm
vi (khối lượng) bảo hộ hoặc làm thay đổi bản chất đối tượng thì người nộp đơn phải nộp đơn
mới và mọi thủ tục được tiến hành lại từ đầu.
Người nộp đơn có thể yêu cầu sửa chữa sai sót về tên, địa chỉ của người nộp đơn, tác
giả.
Mọi yêu cầu sửa đổi, bổ sung phải được làm thành văn bản theo mẫu 01-SĐĐ quy định
tại Phụ lục B của Thông tư 01/2007/TT-BKHCN. Có thể yêu cầu sửa đổi với cùng một nội
dung liên quan đến nhiều đơn, với điều kiện người yêu cầu phải nộp lệ phí theo số lượng đơn
tương ứng.
Việc sửa đổi, bổ sung đơn, kể cả thay đổi về người được uỷ quyền, do người nộp đơn
chủ động thực hiện hoặc theo yêu cầu của Cục Sở hữu trí tuệ phải được thể hiện bằng văn
bản, ghi rõ nội dung sửa đổi, bổ sung và kèm theo chứng từ nộp lệ phí sửa đổi, bổ sung đơn.
 Tách đơn
Người nộp đơn có thể chủ động hoặc theo yêu cầu của Cục Sở hữu trí tuệ tách đơn (tách
một hoặc một số thành phần của nhãn hiệu hoặc một phần danh mục hàng hoá, dịch vụ trong
đơn đăng ký nhãn hiệu sang một hoặc nhiều đơn mới, gọi là đơn tách).
24 Tham khảo Quyền sở hữu trí tuệ, Lê Nết, NXB Đại học quốc gia TP.HCM, 2006
18
Đơn tách mang số đơn mới và được lấy ngày nộp đơn của đơn ban đầu hoặc (các) ngày
ưu tiên của đơn ban đầu (nếu có).
Đối với mỗi đơn tách, người nộp đơn phải nộp lệ phí nộp đơn và mọi khoản phí, lệ phí

cho các thủ tục được thực hiện độc lập với đơn ban đầu, nhưng không phải nộp phí yêu cầu
hưởng quyền ưu tiên. Đơn tách được thẩm định về hình thức và tiếp tục được xử lý theo các
thủ tục chưa được hoàn tất đối với đơn ban đầu. Đơn tách phải được công bố lại và người nộp
đơn phải nộp lệ phí công bố nếu việc tách đơn được thực hiện sau khi Cục Sở hữu trí tuệ đã
có thông báo chấp nhận đơn hợp lệ đối với đơn ban đầu.
Đơn ban đầu (sau khi bị tách) tiếp tục được xử lý theo thủ tục thông thường và người
nộp đơn phải nộp lệ phí sửa đổi, bổ sung đơn.
 Chuyển giao đơn
Trước khi Cục Sở hữu trí tuệ ra một trong các thông báo từ chối chấp nhận đơn hợp lệ,
thông báo từ chối cấp văn bằng bảo hộ hoặc quyết định cấp văn bằng bảo hộ, người nộp đơn
có thể yêu cầu Cục Sở hữu trí tuệ ghi nhận việc chuyển giao đơn cho người khác. Yêu cầu ghi
nhận việc chuyển giao làm theo mẫu 02-CGĐ quy định tại Phụ lục B của Thông tư
01/2007/TT-BKHCN. Trong yêu cầu ghi nhận việc chuyển giao đơn phải có tài liệu chứng
minh người được chuyển giao đáp ứng yêu cầu về quyền đăng ký.
1.2.3.5. Cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu và đăng bạ
Sau khi xét thấy hội đủ tiêu chuẩn bảo hộ, Cục SHTT sẽ ra quyết định cấp Giấy chứng
nhận đăng ký nhãn hiệu
25
. Việc cấp văn bằng bảo hộ này được công bố trên Công báo Sở hữu
công nghiệp. Điều quan trọng đối với chủ sở hữu quyền có trước và công chúng là các dữ liệu
thích hợp trong đăng bạ liên quan đến các đơn, việc đăng ký, gia hạn, đổi tên, địa chỉ và tên
chủ sở hữu phải được công bố trong một công báo chính thức.
26
Sau đó, Cục SHTT sẽ tiến hành vào sổ đăng ký quốc gia về SHCN
27
. Sổ đăng ký quốc
gia về SHCN là tài liệu ghi nhận việc xác lập, thay đổi, chuyển giao quyền sở hữu công
nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý.
Như vậy, khi có bất cứ sự sửa đổi, chấm dứt, hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ, quyết định
đăng ký hợp đồng chuyển giao quyền SHCN cũng được ghi nhận vào Sổ đăng ký quốc gia về

SHCN.
25 Là một trong những loại văn bằng bảo hộ được quy định tại khoản 3, điều 92 Luật SHTT 2005 đã sửa đổi bổ
sung 2009, “Văn bằng bảo hộ gồm Bằng độc quyền sáng chế, Bằng độc quyền giải pháp hữu ích, Bằng độc
quyền kiểu dáng công nghiệp, Giấy chứng nhận đăng ký thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, Giấy chứng nhận
đăng ký nhãn hiệu và Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý”
26 Cẩm nang sở hữu trí tuệ: Chính sách, pháp luật và áp dụng, t. 81
27 Điều 98 Luật SHTT 2005 đã được sửa đổi bổ sung 2009
19
1.2.3.6. Đăng ký quốc tế theo Nghị định thư/Thỏa ước Madrid
28

Ngoài việc đăng ký bảo hộ cho nhãn hiệu của mình trong phạm vi lãnh thổ nước Việt
Nam, các chủ thể sở hữu nhãn hiệu vẫn có thể đạt được sự bảo hộ tại các nước khác là thành
viên của Thỏa ước Madrid 1891 (được sửa đổi lần cuối cùng 1967) cho nhãn hiệu của mình
đối với hàng hóa và dịch vụ bằng việc nộp đơn đăng ký nhãn hiệu đó tại Văn phòng quốc tế
về Sở hữu trí tuệ (gọi tắt là Văn phòng quốc tế).
 Quyền đăng ký quốc tế nhãn hiệu dựa trên đăng ký nhãn hiệu cơ sở tại Việt Nam
a) Người đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam có quyền đăng
ký quốc tế nhãn hiệu tương ứng theo Thoả ước Madrid;
b) Người đã nộp đơn đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam và người đã được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam có quyền đăng ký quốc tế nhãn hiệu tương ứng theo
Nghị định thư Madrid.
 Đơn đăng ký quốc tế nhãn hiệu có nguồn gốc Việt Nam
a) Đơn đăng ký quốc tế nhãn hiệu chỉ định nước muốn được đăng ký bảo hộ là thành
viên Thoả ước Madrid và không chỉ định bất kỳ nước nào là thành viên Nghị định thư Madrid
phải được làm bằng tiếng Pháp.
b) Đơn đăng ký quốc tế nhãn hiệu chỉ định ít nhất một nước là thành viên Nghị định thư
Madrid, kể cả đồng thời chỉ định nước là thành viên Thoả ước Madrid phải được làm bằng
tiếng Anh hoặc tiếng Pháp.
c) Người nộp đơn phải nộp tờ khai yêu cầu đăng ký quốc tế nhãn hiệu theo mẫu 06-

ĐKQT quy định tại Phụ lục C của Thông tư 01/2007/TT-BKHCN và đơn đăng ký quốc tế
nhãn hiệu theo mẫu do Cục Sở hữu trí tuệ cung cấp miễn phí. Trong tờ khai cần chỉ rõ các
nước là thành viên Thoả ước Madrid (có thể đồng thời là thành viên Nghị định thư Madrid) và
nước chỉ là thành viên Nghị định thư Madrid mà người nộp đơn muốn đăng ký bảo hộ nhãn
hiệu. Đơn đăng ký quốc tế nhãn hiệu phải được làm bằng cách điền chính xác, đầy đủ thông
tin vào các mục dành cho người nộp đơn và phải gắn kèm các mẫu nhãn hiệu đúng như mẫu
nhãn hiệu đã được đăng ký tại Việt Nam.
d) Người nộp đơn cần tính sơ bộ tổng số phí, lệ phí theo biểu lệ phí in trên mẫu đơn
hoặc có thể yêu cầu Cục Sở hữu trí tuệ thông báo chính xác số phí, lệ phí cần phải nộp cho
Văn phòng quốc tế. Người nộp đơn phải thanh toán trực tiếp các khoản phí, lệ phí đó cho Văn
phòng quốc tế và phải nộp thêm các khoản lệ phí, phí liên quan theo quy định cho Cục Sở hữu
trí tuệ.
28 />OpenAgent&UNID=1BE50F9E2E83E05D47257773002D4DC4
20
e) Người nộp đơn phải bảo đảm các thông tin (đặc biệt về tên, địa chỉ của người nộp
đơn, hàng hoá, dịch vụ và phân nhóm hàng hoá, dịch vụ
29
) khai trong đơn đăng ký quốc tế
nhãn hiệu là chính xác, kể cả về ngôn ngữ, dịch thuật và thống nhất với các thông tin ghi
trong giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu cơ sở hoặc đơn đăng ký nhãn hiệu cơ sở tương ứng.
Người nộp đơn có trách nhiệm nộp các khoản lệ phí phát sinh liên quan đến sửa đổi, bổ sung
đơn đăng ký quốc tế nhãn hiệu do việc khai báo các thông tin không chính xác hoặc không
thống nhất theo thông báo của Văn phòng quốc tế.
f) Mọi thư từ, giao dịch liên quan đến đơn đăng ký quốc tế nhãn hiệu đều được thực
hiện thông qua Cục Sở hữu trí tuệ. Cục Sở hữu trí tuệ có trách nhiệm thông báo kịp thời các
yêu cầu của người nộp đơn cho Văn phòng quốc tế và ngược lại, tuân theo quy định của điều
ước quốc tế liên quan.
 Cơ quan nhận đơn đăng ký quốc tế nhãn hiệu có nguồn gốc Việt Nam
a) Đơn đăng ký quốc tế nhãn hiệu được nộp cho Văn phòng quốc tế thông qua Cục Sở
hữu trí tuệ. Cục Sở hữu trí tuệ có trách nhiệm chuyển đơn đăng ký quốc tế nhãn hiệu cho Văn

phòng quốc tế trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được đủ tài liệu đơn hợp lệ theo quy
định.
b) Ngày Cục Sở hữu trí tuệ nhận được đơn đăng ký quốc tế nhãn hiệu sẽ được coi là
ngày nộp đơn đăng ký quốc tế nhãn hiệu trong trường hợp Văn phòng quốc tế nhận được đơn
đó trong vòng 02 tháng kể từ ngày ghi trên dấu nhận đơn của Cục Sở hữu trí tuệ. Trường hợp
đơn không được người nộp đơn hoàn thiện để gửi đến Văn phòng quốc tế trong thời hạn nói
trên thì ngày nhận được đơn tại Văn phòng quốc tế sẽ được coi là ngày nộp đơn đăng ký quốc
tế nhãn hiệu.
1.2.4 Hiệu lực, gia hạn, hủy bỏ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu
1.2.4.1 Hiệu lực
Theo quy định của Luật SHTT 2005, Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu (GCN
ĐKNH) có hiệu lực trên toàn lãnh thổ Việt Nam và có hiệu lực từ ngày cấp đến hết 10 năm kể
từ ngày nộp đơn. Tuy nhiên, hiệu lực của Giấy chứng nhận sẽ bị chấm dứt trong những trường
hợp sau:
- Chủ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu không nộp lệ phí duy trì hoặc gia hạn hiệu
lực theo quy định;
29 Khoản 2, điều 3, Thỏa ước Madrid 1981 “ Người nộp đơn phải chỉ ra hàng hoá hoặc dịch vụ mà theo đó
nhãn hiệu được yêu cầu bảo hộ, và nếu có thể, thì cả nhóm hàng hoá hoặc các nhóm hàng hoá tương ứng theo
phân loại hàng hoá được thiết lập theo Thoả ước Nice về phân loại quốc tế hàng hoá và dịch vụ nhằm mục đích
đăng ký nhãn hiệu. Nếu người nộp đơn không thực hiện việc chỉ dẫn phân loại này thì Văn phòng quốc tế sẽ thực
hiện việc phân loại hàng hoá theo các nhóm sản phẩm tương ứng với phân loại hàng hoá nêu trong phân loại nêu
trên. Việc chỉ dẫn các nhóm hàng hoá của người nộp đơn sẽ được Văn phòng quốc tế kiểm tra, Văn phòng quốc
tế sẽ thực hiện việc kiểm tra trong sự phối hợp với Cơ quan quốc gia. Trong trường hợp có sự bất đồng ý kiến
giữa Văn phòng quốc tế và Cơ quan quốc gia, thì quan điểm của Văn phòng này sẽ được ưu tiên.”
21
- Chủ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tuyên bố từ bỏ quyền sở hữu công nghiệp;
- Chủ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu không còn hoạt động kinh doanh mà không
có người thừa kế hợp pháp;
- Nhãn hiệu không được chủ sở hữu hay người được chủ sở hữu cho phép sử dụng trong
thời hạn 5 năm liên tục trước ngày có yêu cầu chấm dứt hiệu lực mà không có lý do chính

đáng;
- Chủ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đối với nhãn hiệu tập thể không kiểm soát
hoặc kiểm soát không có hiệu quả việc thực hiện quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể;
- Chủ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đối với nhãn hiệu chứng nhận vi phạm quy
chế sử dụng nhãn hiệu chứng nhận hoặc không kiểm soát, kiểm soát không có hiệu quả việc
thực hiện quy chế sử dụng nhãn hiệu chứng nhận.
1.2.4.2. Gia hạn
Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu có thể được gia hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần 10
năm.
Để được gia hạn hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu, trong vòng 06 tháng
trước ngày Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hết hiệu lực, chủ Giấy chứng nhận đăng ký
nhãn hiệu phải nộp đơn yêu cầu gia hạn cho Cục Sở hữu trí tuệ.
Đơn yêu cầu gia hạn có thể nộp muộn hơn thời hạn quy định nêu trên nhưng không
được quá 06 tháng kể từ ngày Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hết hiệu lực và chủ Giấy
chứng nhận đăng ký nhãn hiệu phải nộp lệ phí gia hạn cộng với 10% lệ phí gia hạn cho mỗi
tháng nộp muộn.
Đơn yêu cầu gia hạn hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu gồm các tài liệu sau
đây:
(a) Tờ khai yêu cầu gia hạn hiệu lực văn bằng bảo hộ, làm theo mẫu 02-GHVB quy định
tại Phụ lục C của Thông tư 01/2007/TT-BKHCN;
(b) Bản gốc Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu (trường hợp yêu cầu ghi nhận việc gia
hạn vào Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu);
(c) Giấy uỷ quyền (trường hợp nộp đơn thông qua đại diện);
(d) Chứng từ nộp lệ phí gia hạn, công bố quyết định gia hạn và đăng bạ quyết định gia
hạn Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu theo quy định.
30
1.2.4.3. Hủy bỏ
 Bằng bảo hộ có thể bị huỷ bỏ vì một trong hai lý do:
30 />OpenAgent&UNID=8A12D0329092111B47257773002CCE70
22

- Nhãn hiệu đã đăng ký không đủ khả năng bảo hộ;
- Người chủ nhãn hiệu không có quyền nộp đơn (có đôi khi chủ nhãn hiệu trong
trường hợp này còn phải bồi thường thiệt hại do hành vi lạm dụng quyền sở hữu
công nghiệp của họ gây ra.
1.2.5. Các dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu
Điều 73, Luật SHTT 2005 quy định về các trường hợp dấu hiệu không được bảo hộ với
danh nghĩa nhãn hiệu nếu :
“1. Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ, quốc
huy của các nước;
2. Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu tượng, cờ, huy
hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -
xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế, nếu không được cơ quan, tổ chức đó cho phép;
3. Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thật, biệt hiệu, bút
danh, hình ảnh của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân của Việt Nam, của nước ngoài;
4. Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với dấu chứng nhận, dấu
kiểm tra, dấu bảo hành của tổ chức quốc tế mà tổ chức đó có yêu cầu không được sử
dụng, trừ trường hợp chính tổ chức này đăng ký các dấu đó làm nhãn hiệu chứng nhận;
5. Dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa dối người tiêu
dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị hoặc các đặc tính
khác của hàng hoá, dịch vụ. »
Nhãn hiệu không được bảo hộ theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
31
:
- Trường hợp thiếu tính phân biệt: có thể hiểu trường hợp thiếu tính phân biệt ở đây là
điều kiện tiên quyết để một dấu hiệu được ghi nhận là nhãn hiệu , nếu thiếu nó sẽ
không được công nhận và bảo hộ. Công ước Paris 1883, Hiệp định TRIPS và hiệp
định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ.
- Bên cạnh đó, Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ còn đưa ra một số trường hợp
không được bảo hộ cụ thể do thiếu tính phân biệt:

• Tại Điều 6.2, Nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với một nhãn hiệu đã được đang ký:
với biệc trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nào khác đã được đang ký sẽ dẫn đến
việc có khả năng xảy ra hậu quả tiêu cực gây tranh chấp giữa các chủ sở hữu nhãn
hiệu vì vậy nhẫn hiệu thược đối tượng này sẽ bị từ chối bảo hộ;
• Tại Điều 6.14, nhãn hiệu sử dụng cả từ ngữ chỉ dẫn chung về hang hoá hoặc dịch
vụ thì đều bị cấm đang ký nhãn hiệu. Quy định này trong Hiệp định là hợp lý để
bảo hộ quyền sở hữu vì nhãn hiệu chỉ mang chỉ dẫn chung sẻ không thể hiện được
điều kiện tiên quyết là nhãn hiệu có tính phân biệt. những chỉ dẫn chung sẽ dẫn
31 />nam-la-thanh-vien-9001/
23
đến khả năng người tiêu dung khó xác định xuất xứ của sản phẩm nếu có vấn đề
xảy ra và gây nên tranh chấp.
- Trường hợp trái đạo đức: Điều 6.14, Hiệp định Việt Nam- Hoa Kỳ có quy định về
việc có thể từ chối đăng ký nhãn hiệu đối với những nhãn hiệu hang hoá chứa các
dấu hiệu trái đạo đức; mang tính chất lừa dối hoặc gây tai tiếng; bêu xấu hoặc gây
hiểu sai một người đang sống hoặc đã chết, một tổ chức tín ngưỡng hoặc biểu
tượng của quốc gia; làm cho các đối tượng đó bị khinh thị hoặc mất uy tín.
1.2.6. Một số lưu ý khi đăng ký và sử dụng nhãn hiệu
32
Hiện nay, các doanh nghiệp có thể nộp đơn đăng ký nhãn hiệu trước khi sử dụng các
nhãn hiệu đó trên thị trường với mục đích thương mại hoá các sản phẩm và dịch vụ của mình.
Tuy nhiên ở một số quốc gia trên thế giới, nếu như không có chứng cứ chứng minh rằng
một doanh nghiệp sẽ sử dụng nhãn hiệu sau khi đăng ký thì nhãn hiệu đó sẽ không được phép
đăng ký chính thức.
Trên thực tế, kể cả với những nhãn hiệu đã được đăng ký thành công nhưng không có
dấu hiệu cho thấy nhãn hiệu đó được sử dụng trong một thời gian dài trên thực tế (khoảng 3-5
năm sau khi đăng ký) thì đăng ký của nhãn hiệu đó sẽ bị huỷ bỏ hiệu lực. Sự ra đời của các
quy định này nhằm để đảm bảo rằng việc đăng ký nhãn hiệu sẽ được thực hiện với mục đích
sử dụng nhãn hiệu đó thực tế trên thị trường chứ không phải chỉ đăng ký với mục đích độc
quyền nhãn hiệu, đầu cơ và không cho người khác sử dụng.

Khi một cá nhân hay doanh nghiệp đăng ký thành công một nhãn hiệu, nếu nhãn hiệu đó
có chứa các thành phần màu sắc khác nhau, cách thiết kế đặc trưng và trình bày cách điệu (Ví
dụ: các nhãn hiệu của Nike, Louis Vuiton…) thì cần đảm bảo rằng nhãn hiệu đó phải được thể
hiện một cách chính xác như lúc đăng ký dù được xuất hiện ở bất kỳ đâu (tivi, đài báo, báo
điện tử, các phương tiện thông tin đại chúng…) vì điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hình ảnh
về các sản phẩm của cá nhân hay doanh nghiệp đó.
Nếu các cá nhân, doanh nghiệp đều chú ý đến việc kiểm tra và sử dụng các nhãn hiệu
mà mình đăng ký một cách chặt chẽ, cẩn thận thì sẽ hạn chế được tối đa các rủi ro không đáng
có trong các hoạt động thương mại của mình.
Nhằm chứng tỏ sự độc quyền của mình đối với nhãn hiệu đăng ký, một số doanh nghiệp
sử dụng các dấu hiệu như: ® (được sử dụng đối với những nhãn hiệu đã đăng ký), TM (được
sử dụng để thể hiện cho người khác biết đây là nhãn hiệu hàng hoá), SM (được sử dụng cho
nhãn hiệu dịch vụ)… bên cạnh các nhãn hiệu của mình. Việc sử dụng các biểu tượng này
không bắt buộc và cũng không làm tăng thêm sự bảo hộ cho nhãn hiệu đó mà đơn thuần chỉ là
một cách thức cảnh báo cho những người có dự định đăng ký nhãn hiệu tương tự với nhãn
hiệu này cân nhắc trước khi tiến hành đăng ký.
32 />trong-kinh-doanh/1276.html
24
Mỗi một doanh nghiệp có thể kinh doanh nhiều loại sản phẩm, dịch vụ khác nhau, việc
đăng ký một nhãn hiệu cho nhiều sản phẩm hay nhiều nhãn hiệu cho nhiều sản phẩm là tuỳ
thuộc theo chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Trên thực tế, việc đăng ký một nhãn hiệu
cho nhiều sản phẩm sẽ góp phần vào việc củng cố tên tuổi, hình ảnh và thương hiệu của
doanh nghiệp đó trong mắt người tiêu dùng. Tuy nhiên có những trường hợp cần thiết phải có
những hình ảnh có tính phân biệt nhằm giúp sản phẩm mới có thể được hướng đến những
nhóm người tiêu dùng cụ thể, thì việc sử dụng một nhãn hiệu mới có những chi tiết mới
nhưng vẫn có sự liên hệ với nhãn hiệu cũ là cần thiết cho chiếc lược kinh doanh của doanh
nghiệp đó.
Hiện nay rất nhiều doanh nghiệp lựa chọn phương án này nhằm đạt được hiệu quả cao
nhất trong sản xuất và kinh doanh.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU

Trong vài năm trở lại đây, có rất nhiều nhãn hiệu nổi tiếng thế giới đã được đưa vào thị
trường Việt Nam và trở thành những nhãn hiệu quen thuộc của người tiêu dùng trong nước
như nước giải khát Pepsi, Coca Cola, xe hơi Ford, Toyota, sản phẩm thời trang Gucci, CK
Những nhãn hiệu này đã và đang đóng một vai trò to lớn trong sự phát triển chung của nền
kinh tế quốc gia, đòi hỏi chúng ta cần phải có một cách nhìn nhận đúng đắn và có sự quan tâm
cần thiết đến việc bảo hộ đối tượng này một cách hiệu quả và kịp thời trên thực tế. Trong thời
gian qua, Việt Nam đã có rất nhiều cố gắng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói
chung và lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói riêng. Việt Nam đã trở thành thành viên của nhiều điều
ước quốc tế quan trọng như Công ước Paris và Thoả ước Madrid từ năm 1949. Và những qui
định mang tính nguyên tắc của các văn bản này về cơ bản đã được chuyển hóa và vận dụng
một cách phù hợp trong hệ thống pháp luật quốc gia, đặc biệt là trong Luật Sở hữu trí tuệ năm
2005. Tuy nhiên, những cố gắng kể trên nhìn chung chỉ thể hiện ở bề nổi và mang tính vĩ mô
nhiều hơn chứ chưa đi vào giải quyết một cách kịp thời và hiệu quả những nhu cầu thực tiễn
25

×