Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Đề cương môn Luật hành chính pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.92 KB, 33 trang )

Đề cương môn Luật hành chính:
Câu 1: Phân tích, so sánh các khái niệm quản lý, quản lý nhà nước và
quản lý hành chính nhà nước.
- KN QL:
QL là sự điều khiển, chỉ đạo 1 hệ thống hay 1 quá trình, căn cứ vào
những quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng cho hệ thống hay
quá trình ấy vận động theo đúng ý muốn của người quản lý nhằm đạt
đc mục đích đã đặt ra từ trước. Là 1 yếu tố thiết yếu quan trọng, QL k
thể thiếu đc trong đời sống xã hội, XH càng pt cao thì vai trò của QL
càng lớn và nội dung càng phức tạp.
- KN QLNNL:
Quản lý nhà nước là quản lý xã hội mang tính quyền lực NN, sử dụng
quyền lực NN để điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu và quan trọng
của con người. Điểm khác nhau cơ bản giữa QLNN và các hình thức
quản lý khác ( VD: quản lý của các TC xã hội…) là tính quyền lực NN
gắn liền vs cưỡng chế NN khi cần. Từ khi xuất hiện, NN điều chỉnh các
quan hệ xã hội đc xem là quan trọng, cần thiết. QLNN đc thực hiện bởi
toàn bộ hoạt động của các cơ quan trong bộ máy NN nhằm thực hiện
chức năng đối nội và đối ngoại của NN.
- KN QLHCNN:
QLHCNN là hoạt động chấp hành, điều hành của cơ quan HCNN, của
các cơ quan NN khác và các TC đc NN ủy quyền QL trên cơ sở của luật
và để thi hành luật nhằm thực hiện chức năng TC, QL, điều hành các
quá trình xã hội của NN. Nói cách khác, QLHCNN chính là quản lý NN
trong lĩnh vực hành pháp- đc thực hiện bởi ít nhất 1 bên có thẩm quyền
HCNN trong quan hệ chấp hành, điều hành.
Câu 2: Phân tích đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của luật
HC
Ðối tượng điều chỉnh của luật hành chính
Ðối tượng điều chỉnh của một ngành luật nói chung là những quan hệ xã hội
xác định các đặc tính cơ bản giống nhau và do những quy phạm thuộc ngành


luật đó điều chỉnh. Cùng với phương pháp điều chỉnh, đối tượng điều chỉnh là
tiêu chuẩn để phân biệt ngành luật này với ngành luật khác.
Ðối tượng điều chỉnh của luật hành chính Việt Nam là những quan hệ xã hội
chủ yếu và cơ bản hình thành trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước,
hay nói khác hơn đối tượng điều chỉnh của luật hành chính là những quan hệ
xã hội hầu hết phát sinh trong hoạt động chấp hành và điều hành của nhà
nước.
Nhìn chung, đối tượng điều chỉnh của luật hành chính bao gồm những vấn đề
sau:
+ Việc thành lập, cải tiến cơ cấu bộ máy, cải tiến chế độ làm việc, hoàn chỉnh
các quan hệ công tác của các cơ quan nhà nước.
+ Các hoạt động quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, trật
tự xã hội trên từng địa phương và từng ngành.
+ Trực tiếp phục vụ nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân. Ðây phải
được xác định là mục tiêu hàng đầu của quản lý hành chính.
+ Khen thưởng, trao danh hiệu cho các cá nhân tổ chức có đóng góp và đạt
được những thành quả nhất định trong lĩnh vực hành chính nhà nước hoặc
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội theo luật định; xử lý các cá nhân, tổ
chức có hành vi vi phạm trật tự quản lý hành chính nhà nước.
Căn cứ vào phạm vi điều chỉnh, đối tượng điều chỉnh của luật hành chính Việt
Nam ta có thể chia các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của luật
hành chính thành hai nhóm lớn.
* Nhóm 1: Những quan hệ quản lý phát sinh trong quá trình các cơ quan
hành chính nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành trong
phạm vi các cơ quan hành chính nhà nước (ngoại trừ hoạt động trong quan
hệ công tác nội bộ), với mục đích chính là đảm bảo trật tự quản lý, hoạt động
bình thường của các cơ quan hành chính nhà nước
Ðây là nhóm những quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh cơ bản của luật hành
chính. Thông qua việc thiết lập những quan hệ loại này, các cơ quan hành
chính nhà nước thực hiện các chức năng cơ bản của mình. Những quan hệ

này rất đa dạng, phong phú bao gồm những quan hệ được chia thành 2 nhóm
nhỏ như sau:
* Quan hệ dọc
* Quan hệ ngang
Thực tiễn của hoạt động quản lý hành chính nhà nước cho thấy trong một số
trường hợp pháp luật quy định có thể trao quyền thực hiện hoạt động chấp
hành - điều hành cho một số các cơ quan nhà nước khác (không phải là cơ
quan hành chính nhà nước), các tổ chức, cá nhân. Ðiều này có nghĩa là hoạt
động quản lý hành chính nhà nước không chỉ do các cơ quan hành chính nhà
nước tiến hành.
Hoạt động của các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức hoặc cá nhân được
trao quyền có tất cả các hậu quả pháp lý như hoạt động của các cơ quan
hành chính nhà nước nhưng hoạt động này chỉ giới hạn trong việc thực hiện
hoạt động chấp hành điều hành
* Nhóm 2: Các quan hệ quản lý hình thành khi các cơ quan hành chính
nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành trong các
trường hợp cụ thể liên quan trực tiếp tới các đối tượng không có thẩm
quyền hành chính nhà nước hoặc tham gia vào quan hệ đó không với
tư cách của cơ quan hành chính nhà nước, với mục đích chính là phục
vụ trực tiếp nhân dân, đáp ứng các quyền và lợi hợp pháp của công
dân, tổ chức.
Nói ngắn gọn, đây là quan hệ pháp luật hành chính tư, hình thành giữa một
bên chủ thể tham gia với tư cách chủ thể có thẩm quyền hành chính nhà
nước và một bên chủ thể tham gia không với tư cách chủ thể có thẩm quyền
hành chính nhà nước. Nhóm này được gọi ngắn gọn là nhóm hành chính tư".
Ðây là mục đích cao nhất của quản lý hành chính nhà nước khi cơ quan hành
chính- cơ quan được xem là công bộc của nhân dân, quản lý hành chính vì
quyền lợi nhân dân
Trên cơ sở phân tích đặc điểm của các vấn đề liên quan đến luật hành chính,
đối tượng điều chỉnh của luật hành chính, có thể đưa ra định nghĩa luật hành

chính như sau:
Luật hành chính là một ngành luật bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật
điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý hành
chính nhà nước của các cơ quan hành chính nhà nước, các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình các cơ quan nhà nước xây dựng và ổn định chế độ
công tác nội bộ của mình, các quan hệ xã hội trong quá trình các cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội, cá nhân thực hiện hoạt động quản lý hành chính
nhà nước đối với các vấn đề cụ thể do pháp luật quy định.
Ngoài ra có thể định nghĩa luật hành chính một cách ngắn gọn hơn: Luật
hành chính là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam bao gồm
tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành của
các cơ quan hành chính nhà nước.
Như vậy, qua định nghĩa trên ta thấy rằng chỉ có thể nói đến điều chỉnh bằng
pháp luật hành chính khi trong quan hệ quản lý phải có ít nhất một bên có
thẩm quyền với tư cách là chủ thể thực hiện chức năng chấp hành và điều
hành của nhà nước. Nếu cơ quan hành chính nhà nước hoạt động không phải
trong phạm vi, lĩnh vực thẩm quyền của mình, không sử dụng quyền lực nhà
nước, thì hoạt động đó được thực hiện không phải thuộc đối tượng điều
chỉnh của pháp luật hành chính.
2. Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính Việt Nam
Phương pháp điều chỉnh của một ngành luật là cách thức tác động đến các
quan hệ xã hội bằng pháp luật. Phương pháp điều chỉnh là yếu tố quan trọng
để xác định ngành luật đó có phải là ngành luật độc lập hay không. Ngoài ra,
phương pháp điều chỉnh còn góp phần xác định phạm vi điều chỉnh của các
ngành luật trong trường hợp những quan hệ xã hội có chỗ gần kề hoặc đan
xen với nhau.
Ðặc trưng của phương pháp điều chỉnh của luật hành chính là tính mệnh
lệnh đơn phương, xuất phát từ quan hệ quyền uy - phục tùng giữa một bên có
quyền nhân danh nhà nước và ra những mệnh lệnh bắt buộc đối với bên có

nghĩa vụ phục tùng. Sự áp đặt ý chí được thể hiện trong các trường hợp sau:
- Cả hai bên đều có những quyền hạn nhất định do pháp luật quy định nhưng
bên này quyết định vấn đề gì thì phải được bên kia cho phép, phê chuẩn. Ðây
là quan hệ đặc trưng của hành chính công.
- Một bên có quyền đưa ra những yêu cầu, kiến nghị còn bên kia có thẩm
quyền xem xét, giải quyết, có thể thỏa mãn những yêu cầu, kiến nghị này hoặc
có thể bác bỏ.
- Một bên có quyền ra các mệnh lệnh yêu cầu còn bên kia phải phục tùng các
yêu cầu, mệnh lệnh đó.
- Một bên có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính buộc đối
tượng quản lý phải thực hiện mệnh lệnh của mình. Sự bất bình đẳng còn thể
hiện rõ nét trong tính chất đơn phương và bắt buộc của các quyết định hành
chính.
Các cơ quan hành chính nhà nước và các chủ thể quản lý hành chính nhà
nước, dựa vào thẩm quyền của mình trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình
có quyền ra những mệnh lệnh hoặc đề ra các biện pháp quản lý thích hợp đối
với từng đối tượng quản lý cụ thể. Những quyết định ấy có tính chất đơn
phương vì chúng thể hiện ý chí của chủ thể quản lý hành chính nhà nước trên
cơ sở quyền lực đã được pháp luật quy định.
Ngoài ra, có những trường hợp phương pháp thoả thuận được áp dụng
trong quan hệ pháp luật hành chính, còn gọi là "quan hệ pháp luật hành
chính theo chiều ngang". Cụ thể như khi ban hành các văn bản liên bộ, liên
ngành, liên tịch (ví dụ: Thông tư Liên Bộ của Bộ Tư pháp và Bộ Xây dựng;
Thông tư liên tịch giữa Mặt trận Tổ Quốc Việt nam và Bộ giáo dục ). Tuy
nhiên, các "quan hệ pháp luật hành chính theo chiều ngang" cũng là tiền đề
cho sự xuất hiện "quan hệ pháp luật hành chính theo chiều dọc". Suy cho
cùng, các quan hệ pháp luật hành chính cũng không hoàn toàn bình đẳng
tuyệt đối. Trên những đặc quyền hành chính và thể chế hành chính, các bên
chấp nhận những đề nghị của nhau, cùng phục vụ cho mục đích quản lý hành
chính nhà nước.

Tóm lại: Phương pháp điều chỉnh chủ yếu của luật hành chính Việt Nam là
phương pháp mệnh lệnh đơn phương. Nó được xây dựng trên các nguyên tắc
sau:
- Một bên được nhân danh nhà nước sử dụng quyền lực để đưa ra các quyết
định hành chính còn bên kia phải tuân theo những quyết định ấy.
- Quyết định hành chính phải thuộc phạm vi thẩm quyền của bên nhân danh
nhà nước, vì lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội, trên cơ sở pháp luật có hiệu lực
bắt buộc thi hành đối với các bên hữu quan và được đảm bảo thi hành bằng
sự cưỡng chế nhà nước.
Từ các phân tích trên, có thể kết luận được Luật Hành chính là ngành luật
độc lập trong hệ thống pháp luật Việt nam, có đối tượng điều chỉnh và
phương pháp điều chỉnh đặc thù gắn liền với khái niệm quản lý hành chính
nhà nước.
Câu 3: Tại sao nói phương pháp điều chỉnh của luật HC là phương
pháp mệnh lệnh đơn phương dựa trên cơ sở quyền uy phục tùng và
lấy ví dụ minh họa:
Ðặc trưng của phương pháp điều chỉnh của luật hành chính là tính mệnh
lệnh đơn phương, xuất phát từ quan hệ quyền uy - phục tùng giữa một bên có
quyền nhân danh nhà nước và ra những mệnh lệnh bắt buộc đối với bên có
nghĩa vụ phục tùng. Sự áp đặt ý chí được thể hiện trong các trường hợp sau:
- Cả hai bên đều có những quyền hạn nhất định do pháp luật quy định nhưng
bên này quyết định vấn đề gì thì phải được bên kia cho phép, phê chuẩn. Ðây
là quan hệ đặc trưng của hành chính công.
- Một bên có quyền đưa ra những yêu cầu, kiến nghị còn bên kia có thẩm
quyền xem xét, giải quyết, có thể thỏa mãn những yêu cầu, kiến nghị này hoặc
có thể bác bỏ.
- Một bên có quyền ra các mệnh lệnh yêu cầu còn bên kia phải phục tùng các
yêu cầu, mệnh lệnh đó.
- Một bên có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính buộc đối
tượng quản lý phải thực hiện mệnh lệnh của mình. Sự bất bình đẳng còn thể

hiện rõ nét trong tính chất đơn phương và bắt buộc của các quyết định hành
chính.
Các cơ quan hành chính nhà nước và các chủ thể quản lý hành chính nhà
nước, dựa vào thẩm quyền của mình trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình
có quyền ra những mệnh lệnh hoặc đề ra các biện pháp quản lý thích hợp đối
với từng đối tượng quản lý cụ thể. Những quyết định ấy có tính chất đơn
phương vì chúng thể hiện ý chí của chủ thể quản lý hành chính nhà nước trên
cơ sở quyền lực đã được pháp luật quy định.
Ngoài ra, có những trường hợp phương pháp thoả thuận được áp dụng
trong quan hệ pháp luật hành chính, còn gọi là "quan hệ pháp luật hành
chính theo chiều ngang". Cụ thể như khi ban hành các văn bản liên bộ, liên
ngành, liên tịch (ví dụ: Thông tư Liên Bộ của Bộ Tư pháp và Bộ Xây dựng;
Thông tư liên tịch giữa Mặt trận Tổ Quốc Việt nam và Bộ giáo dục ). Tuy
nhiên, các "quan hệ pháp luật hành chính theo chiều ngang" cũng là tiền đề
cho sự xuất hiện "quan hệ pháp luật hành chính theo chiều dọc". Suy cho
cùng, các quan hệ pháp luật hành chính cũng không hoàn toàn bình đẳng
tuyệt đối. Trên những đặc quyền hành chính và thể chế hành chính, các bên
chấp nhận những đề nghị của nhau, cùng phục vụ cho mục đích quản lý hành
chính nhà nước.
Tóm lại: Phương pháp điều chỉnh chủ yếu của luật hành chính Việt Nam là
phương pháp mệnh lệnh đơn phương. Nó được xây dựng trên các nguyên tắc
sau:
- Một bên được nhân danh nhà nước sử dụng quyền lực để đưa ra các quyết
định hành chính còn bên kia phải tuân theo những quyết định ấy.
- Quyết định hành chính phải thuộc phạm vi thẩm quyền của bên nhân danh
nhà nước, vì lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội, trên cơ sở pháp luật có hiệu lực
bắt buộc thi hành đối với các bên hữu quan và được đảm bảo thi hành bằng
sự cưỡng chế nhà nước.
Từ các phân tích trên, có thể kết luận được Luật Hành chính là ngành luật
độc lập trong hệ thống pháp luật Việt nam, có đối tượng điều chỉnh và

phương pháp điều chỉnh đặc thù gắn liền với khái niệm quản lý hành chính
nhà nước.
Câu 4: Phân tích khái niệm và đặc điểm quan hệ pháp luật HC:
-KN: Quan hệ pháp luật hành chính là những quan hệ xã hội phát sinh trong
lĩnh vực chấp hành và điều hành của NN đc điều chỉnh bởi quy phạp PLHC
giữa những chủ thể mang quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của
PLHC.
-Đặc điểm:
+QHPLHC chủ yếu phát sinh trong quá trình QLHCNN trên các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội, luôn gắn liền vs hoạt động chấp hành và điều hành
của NN, chúng vừa thể hiện lợi ích của các bên tham gia quan hệ vừa thể hiện
những yêu cầu và mục đích của hoạt động chấp hành- điều hành.
+QHPLHC có thể phát sinh giữa all các loại chủ thể như cơ quan NN, TC xã
hội, công dân, người nước ngoài… nhưng ít nhất 1 bên trong quan hệ phải là
cơ quan HCNN hoặc cơ quan NN khác or TC, cá nhân đc trao quyền quản lý.
Điều này có nghĩa là quan hệ giữa công dân vs công dân, TC vs TC hay TC vs
công dân nào đó( K mang quyền lực HCNN) thì k thể hình thành QHPLHC.
+QHPLHC có thể phát sinh do đề nghị hợp pháp của bất kỳ bên nào, sự thỏa
thuận của bên kia k phải là đk bắt buộc cho sự hình thành quan hệ.
+Các tranh chấp trong quan hệ PLHC phần lớn đc gq theo trình tự, thủ tục HC
và chủ yếu thuộc thẩm quyền của cơ quan HCNN.
+ Trong quan hệ PLHC, bên vi phạm phải chịu trách nhiệm trước NN chứ k
phải chịu trách nhiệm trước bên kia của QHPLHC.
Câu 5: Phân tích thành phần quan hệ pháp luật HC:
a./ Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính
Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính là những bên tham gia vào quan
hệ pháp luật hành chính, có năng lực chủ thê,ứ có quyền và nghĩa vụ tương
ứng đối với nhau theo quy định của pháp luật hành chính.
Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính bao gồm: cơ quan nhà nước, cán
bộ nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế, công dân Việt Nam, người nước

ngoài và người không quốc tịch. Trong đó, có một loại chủ thể luôn luôn hiện
diện trong mọi quan hệ pháp luật hành chính: chủ thể quản lý-bên có thẩm
quyền hành chính nhà nước.
* Chủ thể quản lý hành chính nhà nước: là các cá nhân hay tổ chức của con
người mang quyền lực hành chính nhà nước, nhân danh nhà nước và thực
hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước. "Mang quyền lực nhà nước" ở
đây cần hội đủ 2 yếu tố sau:
- Có thẩm quyền hành chính nhà nước do pháp luật qui định;
- Tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính với tư cách của chủ thể có
thẩm quyền hành chính nhà nước, không vượt ra khỏi thẩm quyền đã được
luật định;
Nói lên điều này để phân biệt rạch ròi "vai trò" của một chủ thể nhất định
trong những trường hợp cụ thể nhất định. Trường hợp chủ thể A là chủ thể
có thẩm quyền hành chính nhà nước, nhưng tham gia vào quan hệ không với
tư cách thẩm quyền ấy, thì không thể hình thành quan hệ pháp luật hành
chính với A là chủ thể quản lý
Ví dụ: Nguyễn Văn A là chủ tịch UBND huyện B, có hành vi vi phạm trật tự an
toàn giao thông trong khi điều khiển phương tiên xe 2 bánh. Trường hợp này,
A phải chịu xử lý theo pháp luật hành chính như tất cả các cá nhân khác vi
phạm trật tư an toàn giao thông.
Chủ thể bắt buộc trong quan hệ pháp luật hành chính có quyền nhân danh
Nhà nước để đơn phương ra những mệnh lệnh (thể hiện dưới dạng các quy
phạm pháp luật hoặc các mệnh lệnh cụ thể để giải quyết công việc cụ thể)
buộc phía bên kia phải thực hiện. Ðây là một đặc trưng cơ bản của quan hệ
pháp luật hành chính so với các quan hệ pháp luật khác. Ðiều kiện để trở
thành chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính là phải có năng lực pháp
luật hành chính và năng lực hành vi hành chính. Chủ thể này có thể là:
- Cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ hành chính nhà nước. Tuy nhiên, cần
phân biệt quan hệ pháp luật hành chính với quan hệ chỉ đạo công tác trong
nội bộ một cơ quan.

Ví dụ: Quan hệ pháp luật giữa UBND Tỉnh A với UBND Huyện B tương ứng
trực thuộc là quan hệ pháp luật hành chính. Tuy nhiên, quan hệ giữa thủ
trưởng cơ quan hành chính nhà nước với thư ký của cơ quan đó trong việc
"nhờ" cô thư ký đánh máy một công văn thì không phái là quan hệ pháp luật
hành chính. Nó dựa trên quan hệ pháp luật hành chính, nhưng là quan hệ
công tác nội bộ của cơ quan.
- Cơ quan nhà nước khác, cá nhân, tổ chức xã hội tham gia vào một quan hệ
pháp luật cụ thể với tư cách là bên có thẩm quyền hành chính nhà nước được
qui định trong pháp luật hành chính.
Ví dụ: Theo Ðiều 35[1] Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 06/07/1995,
chủ toạ phiên toà có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi
gây rối tại phiên toà. Trong quan hệ này, toà án (cơ quan tư pháp) được trao
thẩm quyền hành chính nhà nước, vì thế đây là quan hệ pháp luật hành chính
với chủ thể quản lý là toà án.
* Chủ thể của quản lý hành chính nhà nước:
Là một bên trong quan hệ pháp luật hành chính, chịu sự quản lý, chấp hành
mệnh lệnh của chủ thể quản lý. Trong quan hệ pháp luật hành chính, đây có
thể là cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia không với tư cách có quyền lực
hành chính nhà nước; hoặc cá nhân công dân, các tổ chức kinh tế ngoài quốc
doanh, các tổ chức xã hội không mang quyền lực hành chính nhà nước. Theo
pháp luật Việt nam:
- "Nhà nước CH XHCN Việt nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân". (Ðiều 2 Hiến pháp 1992)
- "Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt
của nhân dân". (Ðiều 3 Hiến pháp 1992)
- "Công dân có quyền tham gia vào quản lý nhà nước " (Ðiều 53 Hiến pháp
1992).
Do đó, công dân Việt nam không chỉ là chủ thể của quản lý mà còn có quyền
và nghĩa vụ tham gia vào quản lý nhà nước, làm cho mục đích của quản lý
hành chính ngày càng thể hiện rõ hơn lợi ích và nguyện vọng của nhân dân.

b. Khách thể của quan hệ pháp luật hành chính
Là trật tự quản lý hành chính nhà nước. Trật tự này được quy định trong
từng lĩnh vực cụ thể và khi tham gia vào quan hệ này, đối tượng mà các chủ
thể mong muốn hướng tới là những lợi ích về vật chất hoặc những lợi ích phi
vật chất, nó đóng vai trò là yếu tố định hướng cho sự hình thành và vận động
của một quan hệ pháp luật hành chính. ở đây có sự khác nhau về khách thể
của quan hệ pháp luật hành chính công và tư.
c. Cơ sở của sự phát sinh, thay đổi và chấm dứt quan hệ pháp luật hành
chính
Quan hệ pháp luật hành chính chỉ phát sinh, thay đổi hay chấm dứt khi có đủ
ba điều kiện:
- Quy phạm pháp luật hành chính;
- Năng lực chủ thể hành chính;
- Sự kiện pháp lý hành chính.
* Quy phạm pháp luật hành chính: Là cơ sở ban đầu cho sự phát sinh, thay
đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính, bởi vì quan hệ pháp luật
hành chính quy định:
- Ðiều kiện và hoàn cảnh phát sinh quan hệ pháp luật hành chính;
- Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể;
- Các biện pháp xử lý những trường hợp vi phạm.
Như vậy, quy phạm pháp luật hành chính quy định các quyền và nghĩa vụ của
các bên trong quản lý hành chính nhà nước, quy định nội dung những quy tắc
xử sự của các bên tham gia quan hệ, do đó nếu không có các chủ thể thì quan
hệ pháp luật hành chính không thể phát sinh, thay đổi hay chấm dứt, bản
thân nó không tạo ra được quan hệ pháp luật hành chính mà phải có những
tình huống, những điều kiện cụ thể khác như chủ thể, sự kiện pháp lý
* Sự kiện pháp lý hành chính: là những sự kiện thực tế mà khi xảy ra làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý hành chính. Hay nói cách khác, sự kiện
pháp lý hành chính là những sự kiện xảy ra trong thực tế phù hợp với những
điều kiện mà quy phạm pháp luật hành chính dự liệu trước.

Sự kiện pháp lý có hai loại: sự kiện pháp lý ý chí và sự kiện pháp lý phi ý chí.
*Sự kiện pháp lý ý chí là những sự kiện xảy ra tùy thuộc vào ý chí của con
người.
Ví dụ: cố ý chạy xe vượt tuyến, cố ý làm sai lệch hồ sơ
* Sự kiện pháp lý phi ý chí (còn gọi là sự biến) là những sự kiện xảy ra không
phụ thuộc vào ý chí con người, nó mang yếu tố khách quan.
Ví dụ: lũ lụt, bão, cái chết tự nhiên của con người
Câu 6: Phân tích nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong quản lý HCNN:
a) Cơ sở pháp lý
Ðiều 4-Hiến pháp 1992 quy định: Ðảng cộng sản Việt Nam-đội ngũ tiên
phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã
hội.
b) Nội dung nguyên tắc
Thực tế lịch sử đã chỉ rõ, sự lãnh đạo của Ðảng là hạt nhân của mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Bằng những hình thức và phương pháp lãnh đạo
của mình, Ðảng cộng sản giữ vai trò quyết định đối với việc xác định phương
hướng hoạt động của nhà nước trên mọi lĩnh vực; sự lãnh đạo của Ðảng đối
với nhà nước mang tính toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội Sự
lãnh đạo đó chính là việc định hướng về mặt tư tưởng, xác định đường lối,
quan điểm giai cấp, phương châm, chính sách, công tác tổ chức trên lĩnh vực
chuyên môn.
Nguyên tắc Ðảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước biểu hiện cụ
thể ở các hình thức hoạt động của các tổ chức Ðảng:
1. Trước hết, Ðảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước bằng việc
đưa ra đường lối, chủ trương, chính sách của mình về các lĩnh vực hoạt động
khác nhau của quản lý hành chính nhà nước. Trên cơ sở đường lối chủ
trương, chính sách của Ðảng. Các chủ thể quản lý hành chính nhà nước xem
xét và đưa ra các quy định quản lý của mình để từ đó đường lối, chủ trương,

chính sách của Ðảng sẽ được thực hiện hóa trong quản lý hành chính nhà
nước. Trên thực tế, đường lối cải cách hành chính nhà nước được đề ra trong
nghi quyết đại hội đại biểu Ðảng cộng sản Việt nam lần thứ VI và thứ VII và
trong Nghị quyết trung ương khoá VIII về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt nam, mà trọng tâm là cải cách một bước nền
hành chính quốc gia là kim chỉ nam cho hoạt động quản lý hành chính nhà
nước.
2. Ðảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước thể hiện trong công tác
tổ chức cán bộ. Các tổ chức Ðảng đã bồi dưỡng, đào tạo những Ðảng viên ưu
tú, có phẩm chất và năng lực gánh vác những công việc trong bộ máy hành
chính nhà nước, đưa ra các ý kiến về việc bố trí những cán bộ phụ trách vào
những vị trí lãnh đạo của các cơ quan hành chính nhà nước. Tuy nhiên vấn đề
bầu, bổ nhiệm được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước theo trình tự, thủ
tục do pháp luật quy định, ý kiến của tổ chức Ðảng là cơ sở để cơ quan xem
xét và đưa ra quyết định cuối cùng.
3. Ðảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước thông qua công tác
kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Ðảng trong
quản lý hành chính nhà nước. Thông qua kiểm tra xác định tính hiệu quả,
tính thực tế của các chủ trương chính sách mà Ðảng đề ra từ đó khắc phục
khiếm khuyết, phát huy những mặt tích cực trong công tác lãnh đạo.
4. Sự lãnh đạo của Ðảng trong quản lý hành chính nhà nước còn được thực
hiện thông qua uy tín và vai trò gương mẫu của các tổ chức Ðảng và của
từng Ðảng viên. Ðây là cơ sở nâng cao uy tín của Ðảng đối với dân, với cơ
quan nhà nước.
5. Ðảng chính là cầu nối giữa nhà nước và nhân dân. Sự lãnh đạo của Ðảng
là cơ sở bảo đảm sự phối hợp của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội, lôi
cuốn nhân dân lao động tham gia thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước ở
tất cả các cấp quản lý.
6. Ðây là nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước, cần được
vận dụng một cách khoa học và sáng tạo cơ chế Ðảng lãnh đạo, nhà nước

quản lý, nhân dân làm chủ trong quản lý hành chính nhà nước, tránh khuynh
hướng tuyệt đối hóa vai trò lãnh đạo của Ðảng cũng như khuynh hướng hạ
thấp vai trò lãnh đạo của Ðảng trong quản lý hành chính nhà nước. Vì vậy,
đường lối, chính sách của Ðảng không được dùng thay cho luật hành chính,
Ðảng không nên và không thể làm thay cho cơ quan hành chính nhà nước.
Các nghị quyết của Ðảng không mang tính quyền lực- pháp lý. Tuy nhiên, để
bảo đảm hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước không thể tách rời sự lãnh
đạo của Ðảng.
Câu 7: Phân tích nguyên tắc tập trung dân chủ:
a) Cơ sở pháp lý
Ðây là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của nhà nước ta nên
việc thực hiện quản lý hành chính nhà nước phải tuân theo nguyên tắc này.
Ðiều 6-Hiến pháp 1992 quy định :Quốc hội, hội đồng nhân dân và các cơ quan
khác của nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân
chủ.
b) Nội dung nguyên tắc
Nguyên tắc tập trung dân chủ bao hàm sự kết hợp giữa hai yếu tố tập trung
và dân chủ, vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ, vừa đảm
bảo mở rộng dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung.
¨ Tuy nhiên, đây không phải là sự tập trung toàn diện và tuyệt đối, mà chỉ đối
với những vấn đề cơ bản, chính yếu nhất, bản chất nhất. Sự tập trung đó bảo
đảm cho cơ quan cấp dưới, cơ quan địa phương có cơ sở và khả năng thực
hiện quyết định của trung ương; đồng thời, căn cứ trên điều kiện thực tế của
mình, có thể chủ động sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề của địa
phương và cơ sở. Cả hai yếu tố này vì thế phải có sự phối hợp chặt chẽ, đồng
bộ. Chúng có mối quan hệ qua lại, phụ thuộc và thúc đẩy nhau cùng phát
triển trong quản lý hành chính nhà nước.
¨ Tập trung dân chủ thể hiện quan hệ trực thuộc, chịu trách nhiệm và báo cáo
của cơ quan quản lý trước cơ quan dân chủ ; phân định chức năng, thẩm
quyền giữa cơ quan quản lý các cấp, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung của cấp

trên của trung ương và quyền chủ động của cấp dưới. Ngoài ra, đó là hệ
thống "song trùng trực thuộc" của nhiều cơ quan quản lý, bảo đảm sự kết
hợp tốt nhất sự lãnh đạo tập trung theo ngành với quyền quản lý tổng thể
của địa phương.
¨ Có sự phân cấp rành mạch. Quyền lực nhà nước không phải được ban phát
từ cấp trên xuống cấp dưới. Sự phân quyền cho từng cấp là cần thiết nhưng
phải đồng thời được kết hợp với việc xác định vai trò của từng cấp hành
chính: trung ương, tỉnh, huyện, xã. Từ khi ra đời, mỗi cấp đã có "sứ mệnh lịch
sử" và vai trò quản lý hành chính nhà nước riêng, đặc thù. Có những chức
năng được thực hiện ở cấp dưới lại có hiệu quả hơn cấp trên, hoặc có những
chức năng tất yếu phải được thực hiện ở cấp cơ sở. Hương ước làng xã là
một ví dụ. Hương ước không thể được "lập ra" ở cấp huyện, cấp mà có thể có
rất nhiều làng xã với những tập quán và lối sống khác nhau. Từ đó, nguyên
tắc tập trung dân chủ được biểu hiện cụ thể như sau:
- Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà
nước cùng cấp.
Ðiều 6-Hiến pháp 1992 quy định : Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước
thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý
chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm
trước nhân dân.
Như vậy, Hiến pháp quy định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân,
nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan quyền lực nhà
nước do chính họ bầu ra để thay mặt mình trực tiếp thực hiện những quyền
lực đó. Ðể thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước, hệ thống cơ
quan hành chính nhà nước được thành lập và nó luôn có sự phụ thuộc vào
các cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
+ Các cơ quan quyền lực nhà nước có những quyền hạn nhất định trong việc
thành lập, thay đổi, bãi bỏ các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp.
+ Trong hoạt động, các cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự chỉ đạo,
giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm báo cáo hoạt

động của mình với cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
Tất cả sự phụ thuộc này nhằm mục đích bảo đảm cho hoạt động của hệ thống
cơ quan hành chính nhà nước, phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích của
nhân dân lao động, bảo đảm sự tập trung quyền lực vào cơ quan quyền lực-
cơ quan do dân bầu và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
- Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, của địa phương đối với trung
ương.
Nhờ có sự phục tùng này cấp trên và trung ương mới tập trung quyền lực
nhà nước để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa phương,
nếu không có sự phục tùng sẽ xảy ra tình trạng cục bộ địa phương, tùy tiện,
vô chính phủ.
+ Sự phục tùng ở đây là sự phục tùng mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy
định của pháp luật.
+ Mặt khác, trung ương cũng phải tôn trọng ý kiến của cấp dưới, địa phương
về công tác tổ chức, hoạt động và về các vấn đề khác của quản lý hành chính
nhà nước.
+ Phải tạo điều kiện để cấp dưới, địa phương phát huy sự chủ động, sáng tạo
nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, nhằm chủ động thực hiện được
"thẩm quyền cấp mình". Có như thế mới khắc phục tình trạng quan liêu, áp
đặt ý chí, làm mất đi tính chủ động sáng tạo của địa phương, cấp dưới.
- Sự phân cấp quản lý.
Là sự phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong bộ máy quản lý hành
chính nhà nước. Mỗi cấp quản lý có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền và
những phương thức cần thiết để thực hiện một cách tốt nhất những mục tiêu,
nhiệm vụ của cấp mình.
Phân cấp quản lý là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy
nhiên, việc phân cấp phải đảm bảo những yêu cầu sau:
+ Phải xác định quyền quyết định của trung ương đối với những lĩnh vực then
chốt, những vấn đề có ý nghĩa chiến lược để đảm bảo sự phát triển cân đối
hài hòa của toàn xã hội, bảo đảm sự quản lý tập trung và thống nhất của nhà

nước trong phạm vi toàn quốc.
+ Phải mạnh dạn phân quyền cho địa phương, các đơn vị cơ sở để phát huy
tính chủ động sáng tạo trong quản lý, tích cực phát huy sức người, sức của,
đẩy mạnh sản xuất và phục vụ đời sống nhằm hoàn thành nhiệm vụ mà cấp
trên giao phó.
+ Phải phân cấp quản lý cụ thể, hợp lý trên cơ sở quy định của pháp luật. Hạn
chế tình trạng cấp trên gom quá nhiều việc, khi không làm xuể công việc ấy
thì giao lại cho cấp dưới. Phân cấp quản lý phải xác định chức năng cơ quan.
Mỗi loại việc chỉ được thực hiện bởi một cấp cơ quan, hoặc một vài cấp cơ
quan. Cấp trên không phải lúc nào cũng thực hiện được một số chức năng
một cách có hiệu quả như cấp dưới.
- Sự hướng về cơ sở
Hướng về cơ sở là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân chủ
trên cơ sở quản lý tập trung đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn
vị kinh tế, văn hóa xã hội trực thuộc. Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính
nhà nước là nơi tạo ra của cải vật chất trực tiếp phục vụ đời sống nhân dân.
Vì thế nhà nước cần có các chính sách quản lý thống nhất và chặt chẽ, cung
cấp và giúp đỡ về vật chất nhằm tạo điều kiện để đơn vị cơ sở hoạt động có
hiệu quả. Có như vậy hoạt động của các đơn vị này mới phát triển một cách
mạnh mẽ theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Ðây cũng chính là việc thực
hiện "dân là gốc" trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
- Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều tổ chức và hoạt động
theo nguyên tắc song trùng trực thuộc. Ðối với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền chung một mặt phụ thuộc vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp,
mặt khác phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
Ví dụ: UBND Tỉnh A một mặt chịu sự chỉ đạo của HÐND Tỉnh A theo chiều
ngang, một mặt chịu sự chỉ đạo của Chính phủ theo chiều dọc.
Ðối với cơ quan chuyên môn, một mặt phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà
nước có thẩm quyền chung cùng cấp, mặt khác nó phụ thuộc vào cơ quan

hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cấp trên trực tiếp.
Ví dụ: Sở Tư pháp Tỉnh B, một mặt phụ thuộc vào UBND Tỉnh B, mặt khác
phụ thuộc vào Bộ Tư pháp.
Nguyên tắc song trùng trực thuộc của cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương bảo đảm sự thống nhất giữa lợi ích chung của nhà nước với lợi ích
của địa phương, giữa lợi ích ngành với lợi ích của lãnh thổ.
Câu 8: Phân tích nguyên tắc nhân dân làm chủ:
Câu 9: Phân tích nguyên tắc pháp chế XHCN trong quản lý HCNN:
a) Cơ sở pháp lý
Ðây là nguyên tắc thể hiện một nguyên lý căn bản của tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước. Bởi vì trước hết việc tổ chức và hoạt động hành chính
phải hợp pháp, tức là phải tuân theo pháp luật. Tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa vì vậy là một biện pháp để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. "Nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa". (Ðiều 12- Hiến pháp 1992)
b) Nội dung nguyên tắc
Biểu hiện của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý hành chính
nhà nước như sau:
1. Trong lĩnh vực lập quy
Khi ban hành quy phạm pháp luật thuộc phạm vi thẩm quyền của mình, các
cơ quan hành chính nhà nước phải tôn trọng pháp chế xã hội chủ nghĩa, phải
tôn trọng vị trí cao nhất của hiến pháp và luật, nội dung văn bản pháp luật
ban hành không được trái với hiến pháp và văn bản luật, chỉ được ban hành
những văn bản quy phạm pháp luật trong phạm vi thẩm quyền và hình thức,
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
2. Trong lĩnh vực thực hiện pháp luật
Việc áp dụng quy phạm pháp luật phải tuân theo nguyên tắc pháp chế xã hội
chủ nghĩa, tức là phải phù hợp với yêu cầu của luật và các văn bản quy phạm
pháp luật khác, phải thiết lập trách nhiệm pháp lý đối với các chủ thể áp
dụng quy phạm pháp luật, mọi vi phạm phải xử lý theo pháp luật, áp dụng

pháp luật phải đúng nội dung, thẩm quyền và phải tôn trọng những văn bản
quy phạm pháp luật do chính cơ quan ấy ban hành.
3. Trong lĩnh vực tổ chức
Ðể đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước đòi hỏi việc thực
hiện pháp chế phải trở thành chức năng quan trọng của mọi cơ quan quản lý
và ngay trong bộ máy quản lý cũng phải có những tổ chức chuyên môn thực
hiện chức năng này. Vi phạm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh
vực tổ chức là vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc nhân dân
lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước, vi phạm mối
quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau.
4. Trong việc quản lý nói chung
Mở rộng, bảo đảm các quyền dân chủ của công dân. Mọi quyết định hành
chính và hành vi hành chính đều phải dựa trên quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân trực tiếp hoặc gián tiếp. Ngược lại, việc hạn chế quyền công dân chỉ
được áp dụng trên cơ sở hiến định.
5. Phải chịu trách nhiệm trước xã hội và pháp luật
Các chủ thể quản lý hành chính nhà nước phải chịu trách nhiệm do những sai
phạm của mình trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, xâm phạm
đến lợi ích tới quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và phải bồi thường cho
công dân. Chính vì vậy, hoạt động quản lý gắn liền với một chế độ trách
nhiệm nghiêm ngặt đối với một chủ thể quản lý. Chế độ trách nhiệm ấy thông
qua pháp luật và các hệ thống kỷ luật nhà nước. Cụ thể hơn, yêu cầu của
quản lý đặt dưới sự thanh tra, kiểm tra giám sát và tài phán hành chính để
pháp chế được tuân thủ thống nhất, mọi vi phạm đều bị phát hiện và xử lý
theo đúng pháp luật. Sự kiểm tra và giám sát ấy, trước hết phải được bảo
đảm thực hiện chính từ chủ thể quản lý. Tự kiểm tra với tư cách tổ chức
chuyên môn vì thế cũng rất cần thiết như sự kiểm tra, giám sát từ phía các cơ
qaun nhà nước tương ứng, các tổ chức xã hội và công dân.
Câu 10: Phân tích nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo
lãnh thổ và biểu hiện của nguyên tắc này trong việc xây dựng và tổ chức thực

hiện các văn bản luật trong quản lý HCNN hiện nay:
Ngành là một phạm trù chỉ tổng thể những đơn vị, tổ chức sản xuất, kinh
doanh có cùng một cơ cấu kinh tế-kỹ thuật hay các tổ chức, đơn vị hoạt động
với cùng một mục đích giống nhau. Có sự phân chia các hoạt động theo
ngành tất yếu dẫn đến việc thực hiện hoạt động quản lý theo ngành.
Quản lý theo ngành là hoạt động quản lý ở các đơn vị, các tổ chức kinh tế,
văn hóa, xã hội có cùng cơ cấu kinh tế-kỹ thuật hay hoạt động với cùng một
mục đích giống nhau nhằm làm cho hoạt động của các tổ chức, đơn vị này
phát triển một cách đồng bộ, nhịp nhàng, đáp ứng được yêu cầu của nhà
nước và xã hội. Hoạt động quản lý theo ngành được thực hiện với hình thức,
qui mô khác nhau, có thể trên phạm vi toàn quốc, trên từng địa hay một vùng
lãnh thổ.
Quản lý theo địa giới hành chính là quản lý trên một phạm vi địa bàn nhất
định theo sự phân vạch địa giới hành chính của nhà nước. Quản lý theo địa
giới hành chính ở nước ta được thực hiện ở bốn cấp:
- Cấp Trung ương (cấp nhà nước)
- Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
- Xã, phường, thị trấn.
Nội dung của hoạt động quản lý theo địa giới hành chính gồm đề ra các chủ
trương, chính sách, có quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trên
một phạm vi toàn lãnh thổ. Bắt đầu từ qui hoạch xây dựng và quản lý kết cấu
hạ tầng cho sản xuất, đời sống dân cư sống và làm việc trên lãnh thổ. Tiếp đó,
có sự tổ chức điều hòa phối hợp sự hợp tác, quản lý thống nhất về khoa học
công nghệ, liên kết, liên doanh các đơn vị kinh tế, văn hóa, xã hội trên lãnh
thổ
Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, quản lý theo ngành luôn được
kết hợp chặt chẽ với quản lý theo địa giới hành chính. Ðây chính là sự phối
hợp giữa quản lý theo chiều dọc của các Bộ với quản lý theo chiều ngang của
chính quyền địa phương theo sự phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý

giữa các ngành, các cấp. Sự kết hợp này là một nguyên tắc cơ bản trong quản
lý hành chính nhà nước, mang tính cần thiết, khách quan. Nội dung của quản
lý theo điạ giới hành chính:
+ Xây dựng qui hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội trên lãnh thổ,
nhằm xây dựng cơ cấu kinh tế có hiệu quả từ trung ương tới địa phương.
+ Qui hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất và đời sống dân cư sống
và làm việc trên một địa giới hành chính. Ðầu tư kinh tế luôn được khuyến
khích và chù ý trong quá trình lập dự án hạ tầng. Tuy nhiên, phải có kế hoạch
và định hướng, tránh tình trạng "đầu tư đi trước, qui hoạch theo sau", làm sự
phát triển và an cư bị xáo trộn, gây mất cân bằng trong quản lý kinh tế-xã
hội.
+ Tổ chức điều hoà, phối hợp, hợp tác liên doanh giữa các đơn vị kinh tế trực
thuộc Trung ương về những mặt có liên quan đến linh tế- xã hội trên địa bàn
lãnh thổ; bảo đảm cho các điều kiện ở địa phương phục vụ cho phương
hướng phát triển của trung ương, và đa dạng hoá các khả năng, ngành nghề
phát triển.
+ Tổ chức, chăm lo đời sống nhân dân trên một địa bàn lãnh thổ, không kể
các nhân, tổ chức đó do Trung ương hay địa phương quản lý. Mặt khác, bảo
đảm sự chấp hành pháp luật chính sách của địa phương, không trái với
Trung ương.
Câu 11: Phân tích các phương pháp quản lý HCNN:
Khái niệm: Phương pháp quản lí hành chính nhà nước là cách thức thực hiện
các chức năng và nhiệm vụ của bộ máy hành chính; cách thức tác động của
chủ thể quản lí hành chính nhà nước lên các đối tượng quản lí nhằm đạt
được hành vi xử sự cần thiết.
*Nhóm phương pháp chung :
Phương pháp kế hoạch hóa
Phương pháp thống kê
Phương pháp toán học
Phương pháp tâm lí xã hội

Phương pháp sinh lí học
1. Phương pháp kế hoạch hóa
Xây dựng chiến lược phát triển KTXH
Lập quy hoạch tổng thể và chuyên ngành
Dự báo xu thể phát triển
Đặt chương trình mục tiêu và xây dựng kế hoạch dài hạn, ngắn hạn
Sử dụng pp này để tính toán các chỉ tiêu kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm
tra, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch, các biện pháp cân đối
2. Phương pháp thống kê
Tiến hành điều tra, khảo sát, phân bổ sử dụng các pp tính toán
Thu thập số liệu, tổng hợp và chỉnh lý để tính toán tốc độ phát triển các chỉ
tiêu quan trọng
Phân tích các nguyên nhân, dự báo tình hình của hiện tượng quản lí
3. Phương pháp toán học
Các cơ quan nhà nước sử dụng các máy điện toán để thu thập số liệu xử lý và
lưu trữ thông tin
Tính toán cân đối các liên ngành trong mọi lĩnh vực quản lí
4. Phương pháp tâm lí - xã hội:
Tác động vào tâm tư, tình cảm của người lđ, tạo cho họ không khí hồ hởi
yêu thích công việc, gắn bó với tập thể hăng say làm việc, giải quyết các
vướng mắc trong công tác, giúp đỡ giải quyết các khó khăn về cuộc sống
5. Phương pháp sinh lí học
Các cq hành chính nhà nước tiền hành bố trí nơi làm việc phù hợp với sinh lí
con người, tạo ra sự thoải mái trong làm việc và tiết kiệm các thao tác không
cần thiết nhằm nâng cao năng suất lao động như: bố trí phòng làm việc; bàn
làm việc; ghế ngồi; màu sắc; ánh sáng…
Nhóm phương pháp quản lí hành chính nhà nước chủ đạo
• Phương pháp thuyết phục
• Phương pháp cưỡng chế
• Phương pháp hành chính

• Phương pháp kinh tế
- Phương pháp thuyết phục
Thuyết phục là làm cho đối tượng quản lí hiểu rõ sự cần thiết và tự giác thực
hiện những hành vi nhất định hoặc tránh thực hiện những hành vi nhất định
Thông qua pp thuyết phục Các chủ thể quản lí giáo giục cho mọi người nhận
thức đúng đắn về kỷ cương xã hội, kỉ luật nhà nước, động viên họ tự giác
thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước
Các tổ chức xã hội là cơ sở để thực hiện nguyên tắc này
Các biện pháp thuyết phục: Giải thích, nhắc nhở, tổ chức, giáo dục, kêu gọi,
cung cấp thông tin, tuyên truyền phát triển các hình thức tự quản xã hội, tổ
chức thi đua, khen thưởng…
- Phương pháp cưỡng chế
Cưỡng chế là biện pháp bắt buộc bằng bạo lực của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đối với những cá nhân hoặc tổ chức nhất định trong những
trường hợp mà pháp luật quy định.PP cưỡng chế trong quản lí hành chính
nhà nước thể hiện trong việc áp dụng những biện pháp bắt buộc đơn phương
đối với đối tượng quản lí
Các hình thức cưỡng chế nhà nước: Cưỡng chế hình sự .Cưỡng chế dân sự
.Cưỡng chế kỉ luật .Cưỡng chế hành chính .
- Phương pháp hành chính: Là PP quản lí bằng cách ra chỉ thị từ trên
xuống, nghĩa là ra những quyết định bắt buộc đối với đối tượng quản lí.
Đặc trưng là sự tác động trực tiếp lên đối tượng bằng cách quy định
đơn phương nhiệm vụ và phương án hành động của đối tượng quản lí
Phương pháp hành chính bao gồm: Quy định những quy tắc xử sự chung
trong quản lí hành chính nhà nước
Quy định quyền hạn và nghĩa vụ của các cơ quan dưới quyền, giao nhiệm vụ
cho các cq đó
Thỏa mãn đơn phương yêu cầu hợp pháp của công dân
Kiểm tra việc chấp hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ của cấp dưới
Phương pháp kinh tế (hiệu quả): Là PP tác động gián tiếp đến hành vi của

các đối tượng quản lí thông qua việc sử dụng những đòn bẩy kinh tế tác động
đến lợi ích của con người
Phươg pháp kinh tế gồm: Quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh; Chế độ
hạch toán kinh tế, chế độ thưởng…nhằm tạo điều kiện vật chất thuận lợi cho
hoạt động có hiệu quả của đối tượng quản lí, sử dụng hợp lí tài sản được
giao, phát huy và khai thác hợp lí nhất những khả năng sẵn có
Câu 12: vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính phủ
trong cơ quan QLHCNN:
Điều 109 Hiến pháp 1992 và Điều 1 Luật tổ chức Chính phủ (2001) quy định
Chính phủ là cơ quan chấp hành Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Người đứng đầu Chính
phủ theo Hiến pháp và Luật tổ chức Chính phủ (2001) là Thủ tướng
Vị trí pháp lý của Chính phủ :
1. Chính phủ là một thiết chế chính trị nắm quyền hành pháp, theo nguyên
tắc thống nhất quyền lực nhà nước có sự phân công, phân cấp rành mạch
giữa ba quyền: lập, hành và tư pháp, Chính phủ có chức năng cụ thể là:
+ Có quyền lập qui để thực hiện các luật do cơ quan lập pháp định ra;
+ Quản lý công việc hàng ngày của nhà nước;
+ Quyền tổ chức bộ máy hành chính và quản lý bộ máy đó;
+ Trong phạm vi luật định, có quyền tham gia vào các dự luật, hỗ trợ Quốc
hội trong hoạt động lập pháp.
2. Là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam (Ðiều 112 Hiến pháp 1992 và Chương II, Luật tổ chức Chính
phủ công bố ngày 10/02/1992)
3. Là cơ quan chấp hành của Quốc hội, Chính phủ và các thành viên của Chính
phủ chịu sự giám sát của Quốc hội, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo
cáo với Quốc hội. Chính phủ phải trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội khi
Quốc hội hoặc đại biểu Quốc hội có yêu cầu.
4. Trách nhiệm của Chính phủ và các cơ quan thành viên: Chính phủ do
Quốc hội lập ra trong kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc hội. Quốc hội

bầu TTCP theo đề nghị của Chủ tịch nước, giao cho TTCP đề nghị danh
sách các Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ để Quốc hội phê
chuẩn
Chức năng của CP:
+ Có quyền lập quy để thực hiện các luật do cơ quan lập pháp định ra.
+Quản lý công việc hàng ngày của NN.
+Quyền tổ chức bộ máy hành chính và quản lý bộ máy đó.
+Trong phạm vi luật định, có quyền tham gia vào các dự luật, hỗ trợ
Quốc hội trong hoạt động lập pháp.
Nhiệm vụ của CP:
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của NN, đảm
bảo hiệu lực của bộ máy NN từ TW đến cơ sở. Là cơ quan điều hành
cao nhất, Cp chỉ đạo tập trung, thống nhất các bộ, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc CP, các cấp chính quyền địa phương, CP có toàn quyền
quyết định các vấn đề có lien quan đến HĐ quản lý NN trên phạm vi
toàn quốc, trừ các công việc của Quốc hội và UBTV Quốc hội ( Điều 112
Hiến pháp 1992 và chương II, Luật tổ chức Chính phủ công bố ngày
10/2/1992).
Thẩm quyền của CP:
- Quyền sáng kiến lập pháp: Trên cơ sở đường lối chính sách pháp luật của
Ðảng và nhà nước, Chính phủ dự thảo:
+ Các văn bản luật trình Quốc hội;
+ Các văn bản pháp lệnh trình UBTV Quốc hội;
+ Các dự án kế hoạch nhà nước và ngân sách nhà nước;
+ Các chính sách lớn về đối nội và đối ngoại của nhà nước.
- Quyền lập quy: tức là ban hành những văn bản quản lý dưới luật có tính
chất qui phạm pháp luật nhằm:
+ Ðưa ra các chủ trương, biện pháp để thực hiện chính sách, pháp luật;
+ Bảo vệ lợi ích nhà nước;

+ Bảo đảm trật tự xã hội;
+ Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân;
Chính phủ có thẩm quyền ban hành nghị quyết, nghị định. TTCP có thẩm
quyền ban hành quyết định, chỉ thị. Trong đó, nghị định của Chính phủ bao
giờ cũng là văn bản pháp quy.
- Quyền quản lý và điều hành toàn bộ hoạt động quản lý nhà nước trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội theo đúng đường lối, chủ trương chính sách
của Ðảng, văn bản luật của Quốc hội, UBTV Quốc hội và hệ thống văn bản lập
quy của Chính phủ.
- Quyền xây dựng và lãnh đạo toàn bộ hệ thống tổ chức, các cơ quan quản lý
nhà nước từ trung ương tới địa phương, từ cơ quan HCNN có thẩm quyền
chung đến cơ quan HCNN có thẩm quyền chuyên môn.
- Quyền tổ chức những đơn vị sản xuất, kinh doanh theo những hình thức
thích hợp, lãnh đạo các đơn vị ấy kinh doanh theo đúng kế hoạch, đúng cơ
chế, đúng pháp luật.
Câu 13: Trình bày quy trình tuyển dụng công chức ở Việt Nam
hiện nay:
Tuyển dụng công chức: là việc tuyển người vào làm việc trong biên chế của cơ
quan Nhà nước thông qua thi hoặc xét tuyển.
Định kỳ hàng năm (vào quí IV năm trước), trưởng các phòng chuyên môn,
đơn vị trực thuộc sở căn cứ vào tình hình thực tế của đơn vị mình đánh giá
nhu cầu công việc, vị trí công tác của từng chức danh, đề xuất nhu cầu biên
chế.
. Căn cứ đề xuất biên chế của các phòng gửi lên, Chánh Văn phòng tổng hợp,
lập kế hoạch biên chế trình Giám đốc Sở xem xét và gửi Sở Nội vụ thẩm địn.
Khi có thông báo của Sở Nội vụ, Chánh Văn phòng thực hiện theo chỉ đạo của
Giám đốc Sở thông báo tuyển công chức, viên chức trên các phương tiện
thông tin đại chúng,
. Chánh Văn phòng giúp sở tiếp nhận hồ sơ dự tuyển;
Trường hợp thi tuyển: Sở nộp danh sách và hồ sơ dự tuyển tại Sở Nội vụ.

Thực hiện thi tuyển theo quy định hiện hành.
Trường hợp xét tuyển: Hội đồng tuyển dụng sở họp xét hồ sơ dự tuyển và lập
biên bản họp hội đồng tuyển dụng.
Trường hợp thi tuyển: Căn cứ thông báo kết quả trúng tuyển của Sở Nội vụ;
Sở Khoa học và Công nghệ ra quyết định tuyển dụng vào làm việc theo quy
định.
Trường hợp xét tuyển: Căn cứ kết quả họp xét, Chánh Văn phòng lập danh
sách những người đủ điều kiện tuyển dụng trình Giám đốc Sở phê duyệt và
báo cáo Sở Nội vụ kết quả tuyển dụng theo quy định phân cấp (gửi văn bản
đề nghị Sở Nội Vụ tiếp nhận, điều động công chức, viên chức theo phân cấp
của UBND tỉnh).
Văn phòng sở hoàn thiện hồ sơ và đưa vào lưu trữ.
Câu 14: Phân tích các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy
định trong hiến pháp năm 1992:
a.Các quyền cơ bản của công dân:
Nhóm quyền dân chủ về chính trị bao gồm:
Quyền tham gia quản lý NN và xã hội; Tham gia thảo luận các vấn đề chung
của cả nước và địa phương kiến nghị vs các CQNN, biểu quyết khi NN trưng
cầu ý dân, quyền bầu cử, ứng cử vào Quốc hội và HĐND theo quy định của
pháp luật, quyền khiếu nại, tố cáo vs cơ quan NN có thẩm quyền về những
việc làm trái pháp luật của cơ quan NN, Tổ chức kinh tế, TC xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân or bất cứ cá nhân nào.
Nhóm quyền dân chủ về kinh tế, văn hóa, xã hội bao gồm:
Quyền lao động: quyền tự do kinh doanh theo quy định của PL: quyền học tập,
quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt,
tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác, quyền thừa kế, quyền đc bảo vệ sức khỏe,
quyền đc xây dựng nhà ở, quyền bình đẳng nam nữ, quyền đc bảo hộ về hôn
nhân và gia đình, quyền nghiên cứu khoa học, phát minh, sáng chế, quyền tác
giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đc hưởng chế độ bảo vệ sức khỏe,
quyền đc NN và XH tạo đk học tập,….

Nhóm quyền tự do dân chủ, tự do cá nhân bao gồm:
Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền đc thông tin, hội họp, lập hội,
biểu tình theo quy định của PL, quyền tự do đi lại và cư trú trong nước, ra
nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của PL, quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, quyền bất khả xâm phạm về than thể, quyền bất khả xâm
phạm về chỗ ở, quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín.
b.Tính chất của các quyền công dân đc ghi nhận trong hiến pháp:
Tính đầy đủ: Mọi công dân nước CHXHCNVN đều có các quyền, trên all các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xh.
Tính rộng rãi và công bằng: Mọi công dân k phân biệt về trình độ chính trị,
kinh tế, văn hóa, giới tính… đều đc hưởng các quyền cơ bản mà Hiến pháp
quy định. Việc thực hiện các quyền này dựa trên nguyên tắc “ Mọi công dân
đều bình đẳng trc pháp luật” ( Điều 52). Tuân thủ nguyên tắc này trong thực
hiện quyền của mỗi công dân là bảo đảm công bằng xã hội, đảm bảo cho
pháp luật đc thi hành nghiêm chỉnh.
Tính hiện thực và phát triển: Hiến pháp năm 1946 có 18 điều quy định về
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,, khẳng định vị trí làm chủ của nhân
dân ta sau khi thoát khỏi cảnh nô lệ. tiếp đó, hiến pháp 1959 vs 21 điều và
hiến pháp 1980 vs 29 điều tiếp tục khẳng định và phát triển chế độ định
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân nước ta.
Đến hiến pháp 1992- Hiến pháp của thời kì đổi mới, quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân nước ta đã đc ghi nhận trong 34 điều. như vậy, về số lượng các
quyền cơ bản của công dân ngày càng pt phù hợp với mỗi gđ lịch sử của CM
VN. Nội dung của các quyền ghi nhận trong hiến pháp cũng càng phong phú
và hoàn thiện.
c.Các nghĩa vụ cơ bản của công dân:
Các nghĩa vụ cơ bản của công dân đc ghi nhận trong Hiến pháp bao goomg:
Nghĩa vụ trung thành vs Tổ quốc, nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, nghĩa vụ tôn trọng
và bảo vệ tài sản của NN và lợi ích công cộng, nghĩa vụ đóng thuế và lao động
công ích, nghĩa vụ thuân theo Hiến pháp và pháp luật.

d.Tính chất của nghĩa vụ công dân đc quy định trong Hiến pháp:
Tính thống nhất giữa nghĩa vụ và quyền lợi: Tính chất này đc thể hiện ở điều
51, hiến pháp 1992 :” Quyền của công dân k tách rời nghĩa vụ công dân. NN
đảm bảo các quyền công dân, công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối
vs NN và xh”. Quy định này cho thấy, mỗi công dân đc hưởng quyền thì đồng
thời cũng phải làm nghĩa vụ đối với NN. Làm tròn nghĩa vụ đối với NN sẽ tạo
ra những đk thuận lợi để NN đảm bảo thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền
công dân.
Tính thống nhất giữa nghĩa vụ và đạo đức XHCN:
Pháp luật XHCN về cơ bản có nhiều điểm thống nhất vs đạo đức XHCN, phù
hợp vs truyền thống tốt đẹp của dân tộc VN và con ng VN, vs những thuần
phong mỹ tục của dân tộc ta từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Thể hiện niềm vinh dự, tự hào của mỗi công dân khi làm nghĩa vụ đối với NN:
Thực tế cho thấy, trong đấu tranh dựng nước và giữ nước cũng như trong sự
nghiệp đổi mới hiện nay, nhân dân ta k tiếc xương máu, của cải để làm nghĩa
vụ đối vs Tổ quốc, để đánh thắng giặc ngoại xâm, giành quyền làm chủ của
công dân 1 nước độc lập, giành lại c/s ấm nó, tự do, hp. Đó chính là niềm vinh
dự, tự hào của mỗi công dân khi làm nghĩa vụ đối với Tổ quốc, góp phần tạo
nên những thành quả to lớn của cách mạng nước ta.
C âu 15: Phân biệt giữa Vi phạm hành chính vs tội phạm:
-Tính chất:
+Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội đc quy định trong bộ luật hình sự,
do người có năng lực trách nhiệm hình sự cố ý hoặc vô ý xâm phạm các
QHXH đc luật hình sự bảo vệ.
+Vi phạm HC là những hành vi trái pháp luật do các cá nhân, TC có năng lực
HC thực hiện 1 cách cố ý hoặc vô ý xâm hại quy tắc NN trong các lĩnh vực đời
sống xã hội mà k phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử
phạt HC.
Vi phạm HC k gây nguy hiểm cho xã hội cao như tội phạm.
-Văn bản quy định:

+Tội phạm quy định trong bộ luật hình sự, hành vi nào là hành vi phạm tội đc
bộ luật hình sự quy định.
+Vi phạm hành chính đc quy định trong pháp lệnh xử lý vi phạm HC,
-Đối tượng xâm hại:
+Tội phạm: chủ yếu xâm hại trong các lĩnh vực của xã hội.
+VPHC: Là phạm vi chủ yếu xảy ra trong các lĩnh vực của quản lý NN, trật tự
quản lý NN trên mọi đời sống xã hội.
-Hình thức xử lý:
+Tội phạm:Có hình thức tăng nặng và giảm nhẹ đc áp dụng trong quyết định
hình phạt.
+VPHC: K có hình thức tăng nặng, giảm nhẹ.
-Chủ thể:
+ Chủ thể của tội phạm k phải là tổ chức vì k có năng lực trách nhiệm hình sự
và k áp dụng đc hình phạt với tổ chức.
+ Chủ thể của vi phạm HC có thể là tổ chức.
Câu 16: Phân tích các nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính:
Mọi vi phạm HC phải đc phát hiện kịp thời và phải bị đình chỉ ngay. Việc xử
lý vi phạm HC phải đc tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để, mọi hậu
quả do vi phạm HC gây ra phải đc khắc phục theo đúng quy định của PL,

×