Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Chuyên đề số 62 chủ nghĩa xã hội hiện thực trong thời đại ngày nay và triển vọng phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.48 KB, 29 trang )

Chuyên đề số 62
chủ nghĩa xã hội hiện thực trong thời đại ngày nay và triển vọng phát triển
I- Quan điểm tiếp cận

1- Nhận thức về chủ nghĩa xã hội hiện nay và khả năng phát triển của
nó trong tương lai là một tiền đề quan trọng để nâng cao tính tự giác trong
thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung, trong q trình đổi mới ở
nước ta hiện nay nói riêng
Vấn đề càng trở nên cấp thiết khi hiện nay chủ nghĩa xã hội đang trong thời
kỳ thối trào, cịn chủ nghĩa tư bản lại đang tiếp tục phát triển trong bối cảnh tồn
cầu hóa.
Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã đặt cả
phong trào xã hội chủ nghĩa trước một thách thức nghiệt ngã: chủ nghĩa xã hội cịn
có một tương lai, hay là một ảo tưởng đã phá sản? Phải chăng chủ nghĩa tư bản là
hình thái cuối cùng của sự phát triển xã hội; vậy là "lịch sử đã kết thúc", như
Ph.Phucuyama đã khẳng định?
Chủ nghĩa xã hội hiện thực (các nước kiên trì chế độ chính trị xã hội chủ
nghĩa) đang trải qua sự biến đổi một cách căn bản để tiếp tục tồn tại, phát triển và
trở thành một "chủ nghĩa xã hội hiện thực mới". Vậy khả năng để thực hiện sự biến
đổi căn bản đó ra sao?
Với niềm tin rằng: theo quy luật tiến hóa của lịch sử, lồi người nhất định
sẽ đi tới chủ nghĩa xã hội, chúng ta kiên định con đường phát triển đất nước theo
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Song niềm tin đó chỉ có thể giữ vững
trên cơ sở lý trí khoa học bằng việc làm sáng tỏ hàng loạt vấn đề, thậm chí phải trở lại
với khái niệm đầu tiên: chủ nghĩa xã hội là gì?
Như vậy, nhận thức về chủ nghĩa xã hội hiện thực trong thời đại ngày nay và
triển vọng phát triển của nó là góp phần vào việc phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội


và nhận thức con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
2- Về cơ sở lý luận cho việc dự báo triển vọng của chủ nghĩa xã hội, cần


đặc biệt coi trọng vai trò phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác Lênin trong việc tiếp cận chủ nghĩa xã hội
Dự báo triển vọng của chủ nghĩa xã hội trong khi chủ nghĩa xã hội là gì lại
đang được hiểu rất khác nhau; cịn trong thực tiễn, chủ nghĩa xã hội đang tìm cho
mình hình thái biểu hiện mới, mà cho đến nay vẫn chưa thật định hình (Việt Nam
cịn đang ở trạng thái quá độ lên chủ nghĩa xã hội; "Chủ nghĩa xã hội đặc sắc
Trung Quốc" cũng đang từng bước tìm tịi). Vì thế, Đảng ta ln chỉ rõ, quan niệm
về mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà chúng ta kiên trì là dựa trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội
khoa học luôn nhắc nhở rằng học thuyết của các ông về chủ nghĩa xã hội không
phải là đã xây dựng xong xuôi hẳn. Chủ tịch Hồ Chí Minh càng khơng bao giờ
xem chủ nghĩa xã hội chỉ là một khuôn mẫu cứng nhắc. Người cho rằng chúng ta
phải dùng quan điểm, lập trường và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để
tìm ra quy luật cách mạng của nước ta.
Như vậy, về cơ sở lý luận cho việc dự báo triển vọng của chủ nghĩa xã hội,
cần đặc biệt nhấn mạnh vai trò phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác Lênin trong việc tiếp cận chủ nghĩa xã hội.
Căn cứ chủ yếu cho việc dự đoán tương lai của chủ nghĩa xã hội vẫn là thực
tiễn, nhất là thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội trong quá khứ và hiện tại. Bằng
phương pháp kết hợp lơgíc với lịch sử xem chủ nghĩa xã hội đã trải qua những giai
đoạn phát triển nào, đang vận động theo xu hướng nào; từ đó, có thể vạch ra khả
năng phát triển của nó trong tương lai.
- Trước hết, cần phân tích sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở
thế kỷ XX mà "kịch biến Liên Xô và Đông Âu" là sự kiện điển hình; bởi vì, nếu
như đó là bằng chứng "cần và đủ" về sự phá sản của chủ nghĩa xã hội cả về lý luận


và thực tiễn, thì cũng có nghĩa là khả năng phát triển của nó trong tương lai đã
khơng cịn. Hơn nữa, bài học từ quá khứ lại có ý nghĩa là tiền đề cho nhận thức
tương lai.
- Căn cứ quan trọng nhất để dự báo triển vọng của chủ nghĩa xã hội là thực
trạng và khả năng phát triển của bản thân chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội với

tính cách là phong trào hiện thực bao gồm nhiều bộ phận, trong đó cơng cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở những nước xã hội chủ nghĩa còn lại hiện nay - được gọi
là chủ nghĩa xã hội hiện thực - và phong trào cộng sản và công nhân ở các nước tư
bản chủ nghĩa phát triển là hai bộ phận cơ bản, hai "chủ lưu" đi tới chủ nghĩa xã hội
trong tương lai xa. Còn trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI thì chủ nghĩa xã hội hiện
thực là nhân tố cơ bản nhất; vì vậy, thực trạng và triển vọng của công cuộc đổi mới,
cải cách của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và Trung Quốc được xem là căn cứ thực
tiễn quan trọng hàng đầu cho việc dự báo triển vọng của chủ nghĩa xã hội trong hai
thập kỷ đầu thế kỷ XXI.
- Khả năng phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực cịn phụ thuộc vào tác
động của nhiều nhân tố. Có những nhân tố có ý nghĩa là bối cảnh thời đại như cách
mạng khoa học - công nghệ và quá trình tồn cầu hóa, đặc biệt là sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản trong bối cảnh đó là nhân tố tác động rất quan trọng, bởi vì xét
trong tồn bộ lịch sử thì chủ nghĩa xã hội được sinh ra từ chủ nghĩa tư bản. Có
những nhân tố có ý nghĩa là động lực mang tính cách mạng như các phong trào đấu
tranh cho độc lập dân tộc, dân chủ, hịa bình và tiến bộ xã hội. Có nhân tố tác động
tiêu cực và phản động từ phía chủ nghĩa đế quốc... Việc xem xét tổng hợp những tác
động đó cũng là một nhiệm vụ khơng thể thiếu trong việc xác lập những tiền đề để dự
báo triển vọng của chủ nghĩa xã hội.
II- chủ nghĩa xã hội: lý luận và thực tiễn

1- Cơ sở phương pháp tiếp cận triển vọng của chủ nghĩa xã hội
a- Khái niệm chủ nghĩa xã hội có nội dung phong phú, từ lý tưởng, lý luận


đến thực tiễn. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã có lịch sử lâu đời. Chỉ riêng ở trình độ
lý luận, qua nhiều thế kỷ, chủ nghĩa xã hội đã không ngừng phát triển, từ những
học thuyết xã hội chủ nghĩa không tưởng trở thành học thuyết khoa học với sự ra
đời của chủ nghĩa Mác. Trong tính chỉnh thể của khái niệm, chủ nghĩa xã hội là
"một phong trào hiện thực", như Mác và Ăngghen xác định, trong đó có sự thống

nhất lý luận và thực tiễn, đặc biệt là thực tiễn xây dựng một xã hội mới, được gọi là
"chủ nghĩa xã hội hiện thực", đã từng tồn tại thành một hệ thống thế giới ở thế kỷ
XX và tiếp tục tồn tại ở một số nước theo chế độ chính trị là chế độ xã hội chủ nghĩa
với những tên gọi khác nhau.
Chủ nghĩa xã hội với tính cách là phong trào hiện thực bao gồm:
- Các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây cịn lại, đang trải qua
những biến đổi to lớn (tích cực hoặc tiêu cực), nhưng một số nước vẫn kiên trì mục
tiêu xã hội chủ nghĩa; bao gồm: Việt Nam, Trung Quốc, Cuba, CHDCND Triều
tiên và CHDCND Lào.
- Phong trào cộng sản và công nhân đang được gây dựng lại ở các nước xã
hội chủ nghĩa thuộc Liên Xô và Đông Âu trước đây.
- Phong trào cộng sản và công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa, chủ yếu là
các nước tư bản phát triển.
- Phong trào đấu tranh cho độc lập dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa
dưới sự lãnh đạo của Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
b- Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc tiếp cận chủ
nghĩa xã hội
Cần lĩnh hội phương pháp luận đó cả về ba phương diện:1) Luận chứng khoa
học tính tất yếu của sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội; 2) Xác
định những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội; và 3) Biện pháp thực hiện (theo nghĩa
rộng là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản).
Mối liên hệ giữa ba phương diện của phương pháp luận này có thể trình bày


vắn tắt như sau:
- Vận dụng phép biện chứng duy vật, vạch ra được quy luật khách quan của
lịch sử xã hội, cho thấy sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội như quá trình lịch
sử - tự nhiên.
Đi sâu phân tích kinh tế - xã hội của xã hội tư bản, Mác tìm ra quy luật cơ
bản nhất của xã hội tư bản - quy luật giá trị thặng dư. Sự vận động và phát triển với

quy luật khách quan này đã dẫn đến sự cần thiết phải thay thế chủ nghĩa tư bản
bằng chủ nghĩa xã hội, đồng thời đã tạo những tiền đề cần thiết để thực hiện sự
thay thế đó. Chính vì thế, có thể khẳng định: "Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và
thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau" (Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản).
- Quan niệm của Mác về chủ nghĩa xã hội cũng được hình thành từ sự phân
tích xã hội tư sản. "Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng
thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn
theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng
thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là kết quả của những tiền đề hiện
đang tồn tại"1. Như vậy, Mác, Ăngghen và cả Lênin khơng thể thiết kế một mơ
hình xã hội tương lai với các chi tiết của nó mà chỉ có thể xác định những nét cơ
bản, như Đảng ta đã khái quát trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội thành sáu đặc trưng cơ bản. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã
hội sẽ làm cho quan niệm của chúng ta ngày càng đầy đủ hơn, cụ thể hơn. Nhưng
đó lại là phương pháp khoa học của Mác trong việc tiếp cận chủ nghĩa xã hội.
- Phần biện pháp với tính cách là một bộ phận hợp thành nội dung học
thuyết về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ là về những vấn đề có
tính ngun tắc, như: phải thông qua cách mạng vô sản; giai cấp vô sản phải "dùng
sự thống trị chính trị của mình" để lãnh đạo quần chúng nhân dân cải tạo xã hội cũ
1

C.Mác - Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.3, tr.51.


và xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là "để tăng thật nhanh số
lượng những lực lượng sản xuất lên" (Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản); v.v.. Ngay
cả khi các nhà kinh điển nêu những biện pháp nào đó để thực hiện những nhiệm vụ
ấy, thì chúng ta khơng xem đó là nội dung lý luận của học thuyết mà là sự vận
dụng lý luận vào thực tiễn trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Nói về những biện pháp

để thực hiện chủ nghĩa xã hội, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và
Ăngghen không quên lưu ý rằng, trong những nước khác nhau, "những biện pháp
ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều"; chín biện pháp được nêu trong "Tun ngơn"
chỉ là "đối với những nước tiên tiến nhất" và cũng chỉ là "có thể được áp dụng khá
phổ biến". Hơn nữa, không chỉ những biện pháp mà ngay cả những nguyên lý,
"Tun ngơn" cũng đã giải thích rõ rằng "bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp
dụng những ngun lý đó cũng phải tùy theo hồn cảnh lịch sử đương thời".
2- Chủ nghĩa xã hội hiện thực trong thế kỷ XX: Bài học lịch sử
a- Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, chủ nghĩa xã hội đã từ
lý tưởng trở thành hiện thực ở một nước, tiếp đó trở thành một hệ thống thế giới.
Nhưng rồi, sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan vỡ, chủ nghĩa xã hội lâm vào thối trào.
Sẽ là khơng có quan điểm lịch sử, tư duy không biện chứng, nếu bảo vệ học
thuyết xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin bằng cách không thừa nhận chủ
nghĩa xã hội đã tồn tại hơn 70 năm cho đến khi bị sụp đổ ở Liên Xô là chủ nghĩa xã
hội hiện thực.
Mặc dù chủ nghĩa xã hội với mơ hình Xơviết cịn khơng ít khuyết tật và cả
những biến dạng do sai lầm chủ quan gây nên, nhưng vẫn thể hiện tính ưu việt của
mình.
Thứ nhất, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động được giải phóng
khỏi chế độ bóc lột, đã phát huy tinh thần sáng tạo xây dựng xã hội mới với những
thành tựu to lớn mang tầm vóc lịch sử trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Nói


riêng về nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên, từ một "nước Nga tiểu nông lạc hậu", như
Lênin thường gọi, đã trở thành một Liên Xô "siêu cường quốc" chỉ trong vòng nửa
thế kỷ với tổn thất hết sức nặng nề trong chiến tranh chống phát xít.
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội đã là đồng minh chiến lược, chỗ dựa vững chắc
của phong trào giải phóng dân tộc, một trào lưu cách mạng to lớn làm biến đổi cục
diện chính trị thế giới ở thế kỷ XX.

Thứ ba, tạo được thế cân bằng sức mạnh quân sự đối với chủ nghĩa đế quốc,
chủ nghĩa xã hội đã đóng vai trị nòng cốt và tiên phong trong phong trào đấu tranh
cho hịa bình, ngăn chặn chiến tranh thế giới; nhờ đó, hịa bình thế giới được duy
trì suốt gần nửa thế kỷ từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Thảm họa chiến tranh do
chủ nghĩa bá quyền đơn phương của đế quốc Mỹ gây ra hiện nay càng chứng tỏ vai
trị lịch sử tồn thế giới đặc biệt to lớn của Liên Xơ trong việc tiêu diệt chủ nghĩa
phát xít và của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới trong cuộc đấu tranh bảo vệ hịa
bình thế giới ở thế kỷ XX.
Thứ tư, tác động tích cực của chủ nghĩa xã hội đối với cuộc đấu tranh của
nhân dân trong lòng chủ nghĩa tư bản cho dân chủ và tiến bộ xã hội là rất quan
trọng. Có căn cứ để nói rằng, sức sống của chủ nghĩa tư bản đương đại trên nhiều
phương diện được quyết định bởi việc học tập và kế thừa những giá trị của chủ
nghĩa xã hội.
Như vậy, chủ nghĩa xã hội đã thể hiện tính ưu việt của mình ngay trong q
trình cịn đang được xây dựng. Nếu như việc tuyên bố chủ nghĩa xã hội đang trong
quá trình xây dựng như vậy đã là "chủ nghĩa xã hội phát triển" là một sai lầm chủ
quan, thì việc phủ nhận những thành tựu thể hiện tính ưu việt của nó lại là một sai
lầm nghiêm trọng.
b- Vậy, vì sao Liên Xơ sụp đổ ?
Trước hết, cần thấy mặt hạn chế cùng những khuyết tật của mơ hình chủ
nghĩa xã hội hiện thực đã bị khủng hoảng, đã được mổ xẻ bởi khá nhiều công trình


nghiên cứu, thường được gọi là "mơ hình cổ điển" hay "mơ hình Xơ viết", và có
thể được khái qt như sau:
- Về cơ sở kinh tế của xã hội: Chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa với hai hình
thức sở hữu - sở hữu tồn dân và sở hữu tập thể - chưa tìm được những hình thức
kinh tế đa dạng để tạo nên sự gắn bó mật thiết sở hữu xã hội với sở hữu cá nhân
của người lao động. Hơn thế nữa, những hình thức cụ thể của chế độ cơng hữu theo
mơ hình Xơ-viết mới được coi là "đích thực xã hội chủ nghĩa", nếu làm khác đi là

đi chệch khỏi quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội ! Vì thế, quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa trở nên cứng nhắc và trở thành lực cản đối với sự phát triển kinh tế khi lực
lượng sản xuất đạt bước phát triển cao hơn. Điều đó càng tai hại trong điều kiện kỷ
nguyên cách mạng khoa học và công nghệ.
Nền kinh tế dựa trên nền tảng là chế độ công hữu tất yếu phải mang tính kế
hoạch hóa, mặc dù tính kế hoạch khơng phải là đặc tính riêng có của kinh tế xã hội
chủ nghĩa. Song, việc đối lập tuyệt đối kinh tế kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa với
kinh tế thị trường khiến cho kế hoạch hóa trở thành tập trung quan liêu. Thêm vào
đó, chủ nghĩa xã hội đã ra đời ở những nước chưa có chủ nghĩa tư bản phát triển,
chưa có những tiền đề kinh tế và kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với nền kinh tế
kế hoạch hóa. Từ đó đã hình thành cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu. Cơ chế
đó càng được củng cố thì tình trạng tập trung quan liêu càng nặng nề, lực cản đối
với sự phát triển sản xuất càng lớn. Hơn thế nữa, kế hoạch hóa bản thân nó chưa
phải là chủ nghĩa xã hội, mà còn, như A. Anh-xtanh từ 1949 đã lưu ý, có thể làm
nơ dịch con người2. Vì thế, hậu quả của cơ chế đó là triệt tiêu nhiều động lực phát
triển kinh tế và cả động lực phát triển xã hội.
Sự trì trệ trong sự phát triển kinh tế làm cho tính ưu việt của chủ nghĩa xã
hội dần dần bị lu mờ và đặt Liên Xô vào thế bất lợi trong cuộc cạnh tranh với siêu
cường Mỹ.
2

Xem Vì sao chủ nghĩa xã hội ? Tạp chí Cộng sản, 1/1991.


- Về lĩnh vực chính trị, tinh thần: Hệ thống chính trị của xã hội càng thích
ứng với cơ chế kinh tế tập trung quan liêu, càng trở nên xơ cứng.
Quan liêu hóa vốn là nguy cơ tiềm tàng của mọi nhà nước. Điều này đã được
các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học hết sức quan tâm, nhưng trên thực tế
cho đến cuối đời của Lênin vẫn còn là vấn đề nan giải. Nay, việc lẫn lộn chức năng
quản lý nhà nước với quản lý hoạt động sản xuất - kinh doanh trực tiếp của kinh tế

công hữu khiến bộ máy nhà nước ngày càng cồng kềnh. Vấn đề nhà nước pháp
quyền trong chủ nghĩa xã hội lại chưa được giải quyết cả về lý luận và thực tiễn; vì
thế, xã hội thiếu một cơ chế kiểm soát quyền lực. Đây là một nguyên nhân quan
trọng khiến cho nền dân chủ xã hội chủ nghĩa còn bị hạn chế, thậm chí bị vi phạm.
Trong tình hình như vậy, bệnh quan liêu của nhà nước đã trở thành căn bệnh khá
phổ biến và ngày càng trầm trọng trong các nước xã hội chủ nghĩa.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nguyên tắc quan trọng hàng đầu của nền
chính trị vơ sản, nhưng lý luận về xây dựng Đảng đã không đáp ứng yêu cầu thực
tiễn về tổ chức và phương thức lãnh đạo trong điều kiện đảng cầm quyền. Tình
trạng "nhà nước hóa" Đảng (thiên về mệnh lệnh hành chính) và "Đảng hóa" nhà
nước (Đảng bao biện làm thay) đã xảy ra. Và, vì vậy, khi bệnh quan liêu của nhà
nước càng nặng thì nguy cơ thối hóa của Đảng càng tăng; bởi vì, việc giành các
chức vụ trong tổ chức đảng biến thành điều kiện để nắm quyền lực nhà nước.
- Về nhân tố con người: Lênin đã từng chỉ rõ, sự quan tâm lợi ích vật chất
thiết thân của người lao động là cơ sở bảo đảm thành công của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Trong trạng thái xã hội có những khiếm khuyết nêu trên, quyền
làm chủ của nhân dân đã thiếu sự bảo đảm vững chắc bởi cơ sở kinh tế (sở hữu cá
nhân đối với tư liệu sản xuất), lại bị hạn chế bởi cơ chế quản lý kinh tế và xã hội
của nhà nước quan liêu. Nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi cho sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội đã ngày một bị suy yếu.
Song, những khuyết tật như vậy chỉ chứng tỏ một quá trình đổi mới, cải cách


đã trở thành tất yếu chứ chưa đủ để tạo thành khủng hoảng xã hội. Cần thấy rằng,
dù không phạm những sai lầm nghiêm trọng thì cải cách, đổi mới vẫn là bước đi tất
yếu trong công cuộc xây dựng xã hội mới nói chung, xã hội xã hội chủ nghĩa nói
riêng.
Sau một thời gian xây dựng và trưởng thành, yêu cầu cải cách, đổi mới đối
với chủ nghĩa xã hội hiện thực đã trở nên tất yếu và cấp bách. Song, chủ nghĩa chủ
quan và duy ý chí đã cản trở q trình đó. Trong tình hình đó, quy luật khách quan

phải "tự mở đường đi cho mình", như Ăngghen đã cảnh báo; đó là khủng hoảng.
Ngay cả khi khủng hoảng đã là khơng tránh khỏi thì sự sụp đổ của chế độ xã
hội chủ nghĩa cũng không phải là tất yếu. Thực tiễn, nhất là công cuộc đổi mới, cải
cách của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Trung Quốc đã chứng tỏ điều đó.
Thành cơng hay thất bại trong việc sửa chữa sai lầm tùy thuộc vào nhân tố
chủ quan, trước hết là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Như vậy, trong sự sụp đổ
của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, nếu như sự trì trệ của kinh tế là
nguyên nhân sâu xa, sự tấn công của chủ nghĩa đế quốc là ngun nhân bên ngồi,
thì sự suy sụp của Đảng Cộng sản là nguyên nhân trực tiếp và chủ yếu nhất.
Phân tích nguyên nhân chủ quan dẫn đến sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa
ở Liên Xô, nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy rõ: Goocbachốp đã làm tan rã
Đảng Cộng sản Liên Xô để Enxin đào mồ chơn chủ nghĩa xã hội như thế nào. Vấn
đề cịn phải tiếp tục tìm hiểu với nhiều cơng sức và thời gian lâu dài nữa là: vì sao
một Đảng Cộng sản vĩ đại đã lãnh đạo thành công cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa vĩ đại lại tan rã nhanh chóng bởi quyền lực của cá nhân người lãnh đạo đến
như vậy ? Phải chăng bản thân thứ quyền lực như vậy cùng với cá nhân nắm quyền
lực đó cũng đã được sinh ra và nuôi dưỡng trong trạng thái "tha hóa" của một
đảng cầm quyền? ở đó, vai trị lãnh đạo và uy tín của Đảng đối với quần chúng bị
chủ nghĩa cơ hội biến thành "bàn đạp" tiến đến những vị trí có thể sử dụng quyền
lực nhà nước - một thứ quyền lực công cộng đặc biệt - làm công cụ phục vụ chủ


nghĩa cá nhân; còn nguyên tắc tập trung dân chủ - cái cho phép tạo nên sức mạnh
của tổ chức cách mạng - được thực hiện một cách xuyên tạc tăng uy quyền cá
nhân người lãnh đạo, triệt tiêu sức sáng tạo tập thể của tổ chức đảng.
Vì vậy, quá trình đổi mới của chủ nghĩa xã hội trong khi lấy đổi mới kinh tế
làm nhiệm vụ trung tâm, phải đặc biệt coi trọng công tác xây dựng và chỉnh đốn
Đảng, xem đó là khâu then chốt khơng chỉ của cơng cuộc đổi mới mà cịn là của
tồn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
III- chủ nghĩa xã hội hiện thực - đổi mới và phát triển


1- Chủ nghĩa xã hội hiện thực trong giai đoạn hiện nay
- Với sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, chủ
nghĩa xã hội hiện thực bị suy yếu nghiêm trọng cả về thế và lực. Các nước trong hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới còn lại đều phải đương đầu với những thách thức
lớn chưa từng có.
Trong khi đó, xu thế tồn cầu hóa cũng làm biến đổi hình thái của cuộc đấu
tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản; từ hình thái đối đầu sang hình thái
vừa hợp tác vừa đấu tranh trên các lĩnh vực quan hệ quốc tế, nhất là trong quá trình
hội nhập kinh tế thế giới. Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa đế quốc - đứng đầu là đế
quốc Mỹ - tận dụng mọi cơ hội để đẩy mạnh cuộc tấn công chủ nghĩa xã hội hiện
thực bằng mọi thủ đoạn, cả tinh vi xảo quyệt bằng "diễn biến hịa bình", cả cơng
khai trắng trợn - từ cấm vận, trừng phạt đến tiến công quân sự.
- Để có thể tiếp tục tồn tại và phát triển trong hoàn cảnh khắc nghiệt như
vậy, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã và đang phải biến đổi mạnh mẽ. Biến đổi theo
xu hướng đổi mới để tồn tại và phát triển là đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa xã hội
hiện thực hiện nay.
ở Trung Quốc, đường lối cải cách đã mở ra thời kỳ mới trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội, thời kỳ xây dựng "chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung
Quốc".


ở Việt Nam, đường lối đổi mới được khởi xướng bởi Đại hội VI Đảng Cộng
sản Việt Nam (12 - 1986) đã và đang được thực hiện với những thành tựu to lớn và
rất quan trọng.
Quá trình đổi mới cũng đã và đang diễn ra ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào theo đường lối của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào.
ở Cuba, những biện pháp chuyển đổi, cải cách về kinh tế đã được tiến hành,
dù là với những bước đi hết sức thận trọng, cũng cho thấy tính tất yếu của xu
hướng đổi mới.

Còn ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, chủ nghĩa xã hội đang phải
đương đầu với hàng loạt vấn đề cả về lý luận và thực tiễn; song thực tế cũng cho
thấy con đường xã hội chủ nghĩa chỉ có thể tiếp tục thơng qua một q trình đổi
mới, cải cách đầy khó khăn phức tạp, với những bước đi và cách thức thích hợp.
Như vậy, đến nay chủ nghĩa xã hội hiện thực vẫn đang trong giai đoạn đấu
tranh gay go, phức tạp cho sự tồn tại và phát triển của mình. Dù cho sự sụp đổ cục
bộ nào đó có thể xảy ra thì chủ nghĩa xã hội hiện thực vẫn đứng vững, tiếp tục đổi
mới để phát triển và là một động lực cách mạng to lớn cho sự phát triển xã hội nói
chung, cho sự phục hồi chủ nghĩa xã hội nói riêng.
Song, q trình đổi mới như một xu hướng biến đổi của chủ nghĩa xã hội
hiện thực đang cịn phải tiếp tục vượt qua những khó khăn và thách thức mới để đi
tới đích của nó: một chủ nghĩa xã hội hiện thực đã đổi mới - một "chủ nghĩa xã hội
hiện thực mới".
2- "Chủ nghĩa xã hội hiện thực mới" - vấn đề và triển vọng
a- Chủ nghĩa xã hội hiện thực đang còn trải qua những biến đổi phức
tạp, nhưng đã tiếp tục tồn tại và phát triển để trở thành một chủ nghĩa xã hội
với hình thái đã được đổi mới, có thể gọi đó là "chủ nghĩa xã hội hiện thực
mới"
Sự đổi mới căn bản nhất từ quan niệm đến thực tiễn của chủ nghĩa xã hội


hiện thực là đi lên chủ nghĩa xã hội với một nền kinh tế thị trường. Nó cho phép
kết hợp sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu, trong đó chế độ cơng hữu là nền
tảng. Sự đa dạng về hình thức sở hữu làm cho quan hệ sản xuất có khả năng biến
đổi năng động thích ứng với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Nó cũng đáp ứng yêu cầu khách quan về tính đa dạng của con đường đi tới
chủ nghĩa xã hội từ những trình độ phát triển xã hội khác nhau của các dân tộc. Do
đó, nó khơng chỉ là tất yếu đối với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội theo con
đường "quá độ gián tiếp" mà cả đối với các nước "quá độ trực tiếp" từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội.

Nó giúp cho việc khắc phục cơ chế kinh tế và cơ chế quản lý kế hoạch hóa
theo kiểu tập trung quan liêu, tạo điều kiện cho việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa với tính cách là nhân tố chủ động, tích cực trong sự phát
triển nền dân chủ - một mục tiêu chiến lược của chủ nghĩa xã hội.
Như vậy là, chủ nghĩa xã hội hiện thực đang "thay da, đổi thịt" để trở thành
chủ nghĩa xã hội hiện thực mới thể hiện đầy đủ hơn bản chất nhân đạo ưu việt của
mình.
b- Triển vọng của sự nghiệp đổi mới của chủ nghĩa xã hội tùy thuộc vào
việc ngăn ngừa nguy cơ, giải quyết "những vấn đề nóng bỏng" do thực tiễn đặt
ra
- Sự khác biệt cơ bản giữa nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa với nền
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là gì?
Tính chất khó khăn, phức tạp của vấn đề là ở chỗ: cho đến nay, kinh tế thị
trường phát triển trên cơ sở sự đa dạng về sở hữu, trong đó, sở hữu tư nhân có vai
trị rất to lớn và quan trọng đến mức có thể nói, khơng có kinh tế tư nhân thì khơng
có kinh tế thị trường. Mặt khác, liệu có thể có một nền kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa mà chế độ cơng hữu khơng đóng vai trị nền tảng ? Liệu có thể giải quyết
một cách căn bản vấn đề công bằng xã hội trong khuôn khổ nền kinh tế dựa trên


chế độ sở hữu tư nhân, kể cả trong điều kiện chủ nghĩa tư bản phát triển?
Từ những bài học lịch sử của chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XX, kinh nghiệm
của quá trình đổi mới, cải cách của Việt Nam, Trung Quốc, Đảng ta bác bỏ quan
điểm phủ nhận vai trị nền tảng của chế độ cơng hữu trong nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa; đồng thời cho rằng phải tiếp tục khắc phục quan niệm giản đơn, siêu hình và
chủ quan duy ý chí về chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa, gây trở ngại cho q trình
đổi mới kinh tế.
Chế độ cơng hữu xã hội chủ nghĩa được hiểu một cách đúng đắn là hình thức
xã hội của sự sản xuất vật chất, làm cho quan hệ sản xuất thích ứng với tính chất xã
hội hóa cao của lực lượng sản xuất. Vì thế nó sẽ được thể hiện với những hình thức

kinh tế đa dạng sao cho đáp ứng yêu cầu gắn bó sở hữu xã hội với sở hữu cá nhân
của người lao động và có thể biến đổi linh hoạt theo những bước phát triển mới về
chất của lực lượng sản xuất.
- Vấn đề quan hệ giữa chính trị và kinh tế trong q trình đổi mới của chủ
nghĩa xã hội. Tính chất phức tạp của vấn đề là ở chỗ: kiến trúc thượng tầng chính
trị là nhân tố chủ động, tự giác và có ý nghĩa quyết định đối với cơng cuộc đổi mới
nói chung, định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển kinh tế thị trường nói riêng;
song, xét đến cùng, thì chính trị vẫn là biểu hiện tập trung của kinh tế và do cơ sở
kinh tế quyết định.
Kinh nghiệm của Việt Nam và Trung Quốc đều chứng tỏ rằng, hai nguy cơ
đối với sự ổn định chính trị - xã hội đang trở nên bức xúc trong q trình phát triển
kinh tế thị trường, đó là sự phân hóa giàu nghèo và nạn tham nhũng trong bộ máy
nhà nước. Điều cần nhấn mạnh là, tác dụng tiêu cực của sự phân hóa giàu nghèo
trở thành nguy cơ đối với ổn định xã hội chủ yếu lại là khi nó gắn với nạn tham
nhũng.
Tình trạng quan liêu, tham nhũng của bộ máy nhà nước càng nặng thì nguy
cơ thối hóa của đảng cầm quyền càng lớn, và ngược lại. Song, "khâu then chốt"


để phá vỡ cái vịng luẩn quẩn đó là xây dựng đảng cầm quyền - người lãnh đạo và
tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, đặc biệt là trong điều kiện đảng cầm quyền
là đảng duy nhất. Đó cũng là khâu then chốt quyết định thành công của sự nghiệp
đổi mới; và như vậy, triển vọng của chủ nghĩa xã hội phụ thuộc một cách trực tiếp
vào việc giải quyết khâu then chốt này.
IV- Triển vọng của chủ nghĩa xã hội

1- Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến triển vọng chủ nghĩa xã hội
a- Cách mạng khoa học - công nghệ và những biến đổi mới của chủ nghĩa tư
bản trong q trình tồn cầu hóa với tương lai của chủ nghĩa xã hội
Xét cho cùng thì chủ nghĩa xã hội được sinh ra từ chủ nghĩa tư bản. Để hiểu

tương lai của chủ nghĩa xã hội phải tìm hiểu cái đã sản sinh ra nó là chủ nghĩa tư
bản. Vấn đề trở nên phức tạp trong thế giới ngày nay, khi mà khoa học và công
nghệ đã trở thành một động lực hết sức to lớn và mạnh mẽ để loài người thực hiện
mục tiêu xã hội chủ nghĩa, thì thực tế biến đổi của chủ nghĩa tư bản trong điều kiện
cách mạng khoa học - công nghệ lại dường như là bằng chứng phủ định đối với
tương lai của chủ nghĩa xã hội.
- Về cách mạng khoa học - công nghệ, vấn đề đặt ra không phải là bản thân
sự phát triển khoa học và công nghệ mà là hệ quả xã hội của nó. Dự báo có căn cứ
từ nhiều cơng trình nghiên cứu là: trong thế kỷ XXI, khoa học và cơng nghệ có
bước tiến nhảy vọt; từ đó, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật đối với sự
phát triển lực lượng sản xuất của xã hội.
Trình độ phát triển của sức sản xuất, như Mác và Ăngghen đã chỉ rõ, "là tiền
đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết" để khắc phục sự tha hóa con người. Như vậy, chính
cách mạng khoa học - công nghệ đang và sẽ là một động lực lịch sử, một lực lượng
cách mạng cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trong tương lai.
Cách mạng khoa học - công nghệ cũng là động lực to lớn và mạnh mẽ làm


biến đổi chủ nghĩa tư bản. Song, trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản, hầu như mỗi
tiến bộ của khoa học - kỹ thuật lại phải trả cái giá về đạo đức và xã hội, như Mác
đã vạch ra. Ngày nay, cái giá đó càng ghê gớm hơn rất nhiều, khi những thành tựu
khoa học và công nghệ bị chủ nghĩa đế quốc sử dụng vào mục đích chiến tranh
cướp bóc, bóc lột và áp bức các dân tộc.
Như vậy, có thể rút ra kết luận, ngay cả sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa
tư bản trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ cũng chứng tỏ một điều là: sự
thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa bằng một chế độ xã hội do nhân dân lao động làm
chủ cũng là nhu cầu phát triển của khoa học và cơng nghệ.
- Tồn cầu hóa là xu thế tất yếu của sự phát triển xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay của q trình tồn cầu hóa, chủ nghĩa tư bản tìm được
điều kiện phát triển để trở thành "chủ nghĩa tư bản tồn cầu hóa".

Kết quả nghiên cứu những biến đổi của chủ nghĩa tư bản cho phép đi tới
những nhận định quan trọng cho việc đoán định tương lai của chủ nghĩa xã hội.
Thứ nhất, đây là một giai đoạn phát triển mới, giai đoạn cao nhất của chủ
nghĩa tư bản, cũng là giai đoạn cuối của thời đại tư bản.
Sẽ là cách giải thích thiếu sức thuyết phục, khi xem sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản hiện nay chỉ là nhờ lợi dụng được những thành tựu cách mạng khoa
học và công nghệ để kéo dài sự tồn tại của nó. Chủ nghĩa tư bản là một nấc thang
phát triển của lịch sử xã hội văn minh. Nó đã phát triển từ giai đoạn trước độc
quyền sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, rồi chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Nay, chủ nghĩa tư bản có bước phát triển mới về tầm vóc thế giới của
nó. Có thể dùng thuật ngữ "chủ nghĩa tư bản tồn cầu hóa" để nói lên đặc trưng sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn mới này trong toàn bộ quá trình lịch sử
của chủ nghĩa tư bản, nói lên mức độ cao nhất trình độ phát triển của nó.
Hai là, sự tăng cường xu hướng quá độ từ phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa sang phương thức sản xuất tập thể trong chủ nghĩa xã hội. Biện chứng


khách quan của sự phát triển là ở chỗ: trong khi phát triển đầy đủ nhất tiềm năng
của mình, chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn tồn cầu hóa lại tạo ra những tiền đề
đầy đủ nhất cho sự diệt vong tất yếu của nó, cho sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng
chủ nghĩa xã hội. Điều đó diễn ra một cách khách quan không phụ thuộc vào ý
muốn của giai cấp tư sản.
ở thế kỷ XIX, C.Mác đã thấy ở các công ty cổ phần tư bản một "hình thái
quá độ từ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sang phương thức sản xuất tập
thể"; ông xem "đó là sự thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu tư nhân ở trong những
giới hạn của bản thân phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa" 3. Đó cũng là cách
nhìn biện chứng của Lênin khi cho rằng: "Ngày nay thì chủ nghĩa xã hội nhìn sang
chúng ta từ tất cả các khung cửa của chủ nghĩa tư bản hiện đại, chủ nghĩa xã hội
đang hiện ra trực tiếp, trên thực tiễn, trong mỗi biện pháp quan trọng tạo thành một
bước tiến trên cơ sở của chủ nghĩa tư bản hiện đại ấy"4. Ngày nay, những tiền đề
cho chủ nghĩa xã hội được tạo ra trong lòng chủ nghĩa tư bản đầy đủ hơn và lớn

hơn nhiều so với nhận thức trước đây của chúng ta.
Ba là, sự biến đổi của chủ nghĩa tư bản đã đặt các Đảng Cộng sản trước
những khó khăn, thách thức mới đối với con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
những nước tư bản phát triển.
- Việc phân tích những hình thái biểu hiện mới của những mâu thuẫn của chủ
nghĩa tư bản, cho phép đi tới kết luận rằng, dù có bước phát triển mới, chủ nghĩa tư
bản khơng thể khắc phục được những mâu thuẫn vốn có của nó; chúng vẫn tồn tại và
cịn trở nên sâu sắc hơn trong hình thái biểu hiện mới của mình.
Những cải cách theo hướng "nhà nước phúc lợi", "cổ phần hóa"... đã có tác
dụng làm dịu mâu thuẫn giai cấp, tạo động lực phát triển kinh tế. Nhưng trong việc
giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và xã hội, chủ nghĩa tư bản gặp nhiều mâu
C.Mác - Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.25, phần I, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.673,
667.
4
V.I.Lênin. Toàn tập, t.34, tr.258.
3


thuẫn nan giải. Nếu tăng quỹ an sinh xã hội, cải thiện phần nào đời sống của người
lao động để giảm sức ép của đấu tranh giai cấp thì đến một lúc nào đó sẽ ảnh
hưởng đến lợi nhuận của tư bản và giảm sức cạnh tranh của kinh tế. Ngược lại,
giảm quỹ an sinh xã hội thì những hậu quả cũng rất nghiêm trọng: đấu tranh giai
cấp sẽ bùng phát dẫn đến mất ổn định xã hội, quỹ tiêu dùng của dân chúng giảm
sút thì thị trường sẽ tiêu điều, ảnh hưởng trở lại đến tăng trưởng kinh tế. Sau khi
khơng cịn phải tranh đua với hệ thống xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa tư bản hiện đại
có xu hướng cắt xén, thậm chí chấm dứt những chính sách xã hội có lợi cho người
lao động, áp dụng các biện pháp kinh tế, chính trị, xã hội phục vụ cho sự hoạt động
tự do của tư bản độc quyền, tăng cường quyền lực của các công ty xuyên quốc gia.
Chủ nghĩa tự do mới, chính sách cơng khai phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền,
đặc biệt là lợi ích của các cơng ty xun quốc gia, tấn cơng vào quyền lợi chính trị

và kinh tế của cơng nhân, lao động, đã thắng thế.
Với việc đẩy mạnh áp dụng chủ nghĩa tự do mới (bảo thủ mới), chủ nghĩa tư
bản đã tự thừa nhận thất bại trong việc điều hịa mâu thuẫn xã hội. Chủ nghĩa tư
bản khơng có cách nào khác là làm cho mâu thuẫn đó sâu sắc thêm, bộc lộ công
khai hơn. Sự thất bại của chủ nghĩa tự do thể hiện trong việc T.Blair và B.Clinton
đưa ra "con đường thứ ba", toan làm giảm sự khác biệt giữa chủ nghĩa bảo thủ và
"nhà nước phúc lợi". Thực chất "con đường thứ ba" cũng chỉ là chủ nghĩa tự do
mới có điều chỉnh mà thơi.
Rõ ràng là, khả năng điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản khơng phải là vơ giới
hạn, bởi nó khơng thể vượt qua chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, thậm
chí khơng thể đụng chạm đến lợi ích của tư bản độc quyền.
Chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn diễn ra các cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ;
diễn biến của khủng hoảng hiện nay lại phức tạp hơn trước đây, ranh giới giữa giai
đoạn tiêu điều và phục hồi không thật rõ rệt, vật giá leo thang ngay cả trong giai
đoạn tiêu điều và trong giai đoạn hưng thịnh mức tăng trưởng cũng tương đối thấp,


tình trạng ngưng trệ hầu như kéo dài. Nạn thất nghiệp trong xã hội trở nên thường
xuyên hơn, sự bần cùng hóa tuyệt đối ln diễn ra với một bộ phận đáng kể giai
cấp cơng nhân. Ngồi khủng hoảng kinh tế chu kỳ còn thường xuyên diễn ra khủng
hoảng cơ cấu, là kết quả của những mất cân đối cơ bản giữa sản xuất và tiêu dùng,
giữa cung và cầu. Chủ nghĩa tư bản cịn phải đối phó với các cuộc khủng hoảng
khơng kém phần phức tạp, đó là khủng hoảng chức năng liên quan đến những đổ
vỡ, bất ổn định trong lĩnh vực tiền tệ, tài chính, tín dụng.
Trong 40 năm sau chiến tranh, Mỹ có 9 cuộc khủng hoảng kinh tế, Anh có 8,
Nhật có 7, Cộng hịa Liên bang Đức và Pháp có 5. Nhật bản, một nền kinh tế phát
triển "thần kỳ" trước đây, lâm vào trì trệ kéo dài, hàng chục năm liền tăng trưởng
GDP bằng 0 hoặc âm. Cuộc khủng hoảng tài chính châu á (1997) chỉ là lời cảnh
báo. Cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu 2008 lại bùng phát từ nền kinh tế tư bản
mạnh nhất thế giới là Mỹ. Không ai đảm bảo rằng đại khủng hoảng kinh tế toàn

cầu sẽ khơng xảy ra và khơng ai có thể hình dung được hậu quả sẽ như thế nào.
Ngoài các cuộc khủng hoảng kinh tế, ở các nước tư bản phát triển còn diễn
ra khủng hoảng hoặc mâu thuẫn gay gắt về các mặt khác của đời sống chính trị, xã
hội, văn hóa tinh thần. Brêdinxky trong cuốn "Ngồi vịng kiểm sốt" đã nêu lên
"20 khuyết tật căn bản của xã hội Mỹ" trong đó có (thứ tự theo cuốn sách trên):
(9) "Một giai cấp giàu có tham lam".
(11) "Vấn đề chủng tộc và nghèo đói ngày càng sâu sắc".
(13) "Sự lan tràn của nền văn minh ma túy... với khoản lãi từ ma túy ước
tính 100 tỷ đơla một năm".
(14) "Tình trạng lan tràn tâm lý tuyệt vọng xã hội".
(15) "Quá nhiều giấy phép mại dâm".
(16) "Sự truyền bá ồ ạt về đồi trụy tinh thần".
(19) "Cử tri cảm thấy rằng chính quyền của mình rất xa xơi, thiếu trách
nhiệm và tham nhũng, đặc quyền đặc lợi và giai cấp tinh hoa chính trị được hưởng


những cơ hội không công bằng, được ngồi vĩnh viễn trong chức vụ của mình".
(20) "Cảm giác trống rỗng về tinh thần ngày càng phổ biến".
Tóm lại, sự biến đổi mới của chủ nghĩa tư bản làm tăng cường xu thế khách
quan của sự phát triển xã hội là quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội;
nhưng, mặt khác, lại đặt ra cho các lực lượng cách mạng những khó khăn và thách
thức mới.
b- Phong trào cộng sản và công nhân với triển vọng của chủ nghĩa xã hội
- Phong trào cộng sản và công nhân trong các nước tư bản phát triển
Cùng với chủ nghĩa xã hội hiện thực, phong trào cộng sản và công nhân
trong các nước tư bản phát triển là một trong hai dịng chủ lưu của cách mạng xã
hội chủ nghĩa.
Có thể đi tới một vài nhận định như sau:
Các Đảng Cộng sản ở các nước tư bản phát triển đã vượt qua được nguy cơ
tan rã do sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu gây nên, đang

từng bước củng cố đảng về tổ chức và tư tưởng. Những chuyển biến tích cực về
xây dựng đảng đang từng bước khôi phục ảnh hưởng của đảng trong đời sống xã
hội.
Đã có những dấu hiệu phục hồi nhưng cịn mang tính cục bộ và chưa thật
vững chắc, nên nhìn chung phong trào chưa ra khỏi khủng hoảng.
Quá trình phục hồi phong trào diễn ra trong sự tác động, thúc đẩy lẫn nhau
với công cuộc đổi mới, cải cách ở các nước xã hội chủ nghĩa.
- Các nhân tố xã hội chủ nghĩa ở một số nước xã hội chủ nghĩa thuộc Liên
Xô và Đông Âu trước đây không chỉ là các lực lượng cộng sản mà còn cả những
thành quả cách mạng đang được nhân dân đấu tranh để giữ lấy. Phong trào cộng
sản và công nhân ở đây có một số nét đặc thù đáng chú ý như sau:
Một là, đây là địa bàn đã diễn ra sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Vì thế, tình trạng khủng hoảng của các Đảng Cộng sản ở đây là nghiêm trọng nhất.
Hai là, chính sức sống của chủ nghĩa xã hội, của học thuyết Mác - Lênin đã



×