Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Thành đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (618 KB, 101 trang )

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của
nền kinh tế hàng hóa để giải quyết nhu cầu phân phối vốn, nhu cầu thanh
toán,… phục vụ cho sự phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh của các tổ
chức kinh tế, cá nhân với đặc thù kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Vì vậy mà
hoạt động kinh doanh của ngân hàng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất,
điều đó đòi hỏi hệ thống các NHTM phải có những cải cách mạnh mẽ để nâng
cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng.
Rủi ro là một điều rất phổ biến và gần như mang tính tất yếu đối với
mọi hiện tượng cả trong tự nhiên lẫn trong đời sống kinh tế, xã hội của con
người. Vì vậy việc chấp nhận và đối đầu với rủi ro là một điều tất yếu, không
thể tránh khỏi, nhưng vấn đề đặt ra ở đây không phải có hay không có rủi ro
mà ở chỗ phải phòng ngừa để giảm thiểu rủi ro ở mức chấp nhận được. Thực
tiễn hoạt động kinh doanh của các NHTM cho thấy rủi ro đối với NHTM
trong điều kiện kinh tế thị trường gồm nhiều loại rủi ro như rủi ro tín dụng,
rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái… trong đó rủi ro tín dụng
chiếm tỷ trọng lớn nhất và quan trọng nhất vì nó liên quan đến các loại rủi ro
khác.
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Hà Thành cung cấp
các sản phẩm tín dụng phục vụ cho các ngành nghề nên việc xử lý rủi ro và đề
ra những biện pháp phòng ngừa RRTD luôn là mục tiêu quan trọng hàng đầu
của chi nhánh nhằm vừa đảm bảo an toàn nguồn vốn, có lãi, vừa tạo điều kiện
thúc đẩy kinh tế phát triển.
Bên cạnh đó, chi nhánh Hà Thành nhận thức được tầm quan trọng trong
việc mở rộng quan hệ tín dụng đối với các DNVVN nên chi nhánh thường
xuyên chú trọng cho vay đối với đối tượng khách hàng này. Ở Việt Nam trong
1
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh
tế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước, các DNVVN đang trở thành lực


lượng kinh tế đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình CNH – HĐH
đất nước. Trong cuộc gặp gỡ các doanh nghiệp ngày 14/09/2001 tại Hà Nội,
Thủ tướng Phan Văn Khải đã nhấn mạnh: “Cần thấy rằng DNVVN là loại
hình rất phù hợp để phát huy mọi tiềm năng cho việc phát triển kinh tế, kể cả
ở những nước phát triển. Đối với nước ta, phát triển thật nhiều DNVVN lại
càng phù hợp với bước đầu thực hiện CNH – HĐH đất nước. Vì vậy phải
quan tâm và tạo mọi điều kiện cho DNVVN phát triển. Đây là một quan điểm
hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với thực tế điều kiện kinh tế nước ta”. Chính vì
đường lối đổi mới của Đảng và Nhà Nước nên chi nhánh Hà Thành đã tạo
mọi điều kiện cho các loại hình doanh nghiệp phát triển nói chung và các
DNVVN nói riêng. Tuy nhiên, các DNVVN có tính ổn định trong sản xuất
không cao, không có định hướng lâu dài trong hoạt động kinh doanh, vì vậy
việc quản lý rủi ro tín dụng của chi nhánh đối với DNVVN là rất quan trọng.
Đây cũng chính là lý do em lựa chọn đề tài: “Quản trị rủi ro tín dụng
trong hoạt động cho vay của chi nhánh NHĐT&PT Hà Thành đối với các
DNVVN trên địa bàn thành phố Hà Nội” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp
của mình với mong muốn đóng góp chút công sức trong việc quản lý để hạn
chế rủi ro tín dụng của chi nhánh.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu của chuyên đề tốt nghiệp gồm
ba chương :
- Chương I : Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro
tín dụng trong hoạt động cho vay của NHTM đối với các DNVVN.
- Chuơng II : Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động cho
vay của chi nhánh NHĐT&PT Hà Thành đối với các DNVVN trên địa bàn
thành phố Hà Nội qua 3 năm 2005 – 2007.
2
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
- Chương III : Giải pháp hoàn thiện quản trị RRTD trong hoạt động cho
vay của chi nhánh Hà Thành đối với các DNVVN trên địa bàn thành phố Hà
Nội.

Phạm vi đề tài: chủ yếu là tìm hiểu tình hình, kinh nghiệm thực tế, thực
trạng còn tồn tại trong công tác quản lý RRTD của chi nhánh trong hoạt động
cho vay đối với các DNVVN trên địa bàn Hà Nội. Từ thực tế đó em xin nêu
ra một vài ý kiến đóng góp nhằm hạn chế và phòng ngừa rủi ro tín dụng tại
chi nhánh Hà Thành nói riêng và các NHTM nói chung.
Hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này, em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân
thành tới thầy giáo PGS.TS Hoàng Minh Đường đã tận tình chỉ bảo cho em
trong suốt quá trình thực hiện chuyên đề; gửi lời cảm ơn tới các anh chị
phòng quản lý tín dụng của chi nhánh Hà Thành đã tạo điều kiện và hướng
dẫn em trong thời gian thực tập tại phòng. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các
thầy cô giáo trong khoa Thương Mại - Truờng Đại học Kinh tế quốc dân đã
dạy dỗ và giúp đỡ em trong những năm học vừa qua.
3
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG
VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG
CHO VAY TẠI NHTM ĐỐI VỚI CÁC DNVVN.
1.1. Khái quát về tín dụng ngân hàng.
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm tín dụng ngân hàng :
1.1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng:
Tín dụng, theo tiếng Latinh gọi là creditium, tiếng anh gọi là credit, có
nghĩa là tin tưởng và tín nhiệm. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam thì tín
dụng có nghĩa là sự vay mượn.
Tín dụng tồn tại song song và phát triển cùng với nền sản xuất hàng
hóa. Các chủ thể tham gia vào tín dụng ngân hàng rất phong phú và đa dạng
với một bên là ngân hàng, một bên là các tổ chức kinh tế, cá nhân, hợp tác xã,
các quan hệ tín dụng giữa các chủ thể tín dụng được thực hiện trên cơ sở tự
nguyện, bình đẳng và có lợi cho hai bên, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đó là
quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng cho khách hàng

trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định.
Sự tin tưởng đóng vai trò quan trọng đến sự tồn tại và phát triển của
quan hệ tín dụng ngân hàng. Yêu cầu đảm bảo cho mỗi khoản tín dụng ngân
hàng là điều kiện bắt buộc, nó được cán bộ ngân hàng thực hiện ngay từ trước
khi cho vay thông qua đánh giá, thẩm định tính khả thi của dự án xin vay, cho
đến yêu cầu thế chấp, cầm cố, bảo lãnh khi vay và theo dõi, đánh giá hiệu quả
sử dụng vốn vay.
1.1.1.2. Nội dung của tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng chứa đựng ba nội dung cơ bản sau:
4
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
- Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho
người sử dụng.
- Sự chuyển nhượng này có thời hạn hay mang tính tạm thời.
- Sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí.
1.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng :
Sự vận động của tín dụng có những tác động nhất định đối với các hoạt
động kinh tế. Tuy nhiên, vai trò của tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào nhận thức
và vận dụng của con người vào thực tiễn quản lý kinh tế. Trong nền kinh tế
thị trường, tín dụng có các vai trò như sau:
- Tín dụng là công cụ tích tụ, tập trung và tài trợ vốn cho các ngành
kinh tế, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, là cầu nối giữa tiết
kiệm và đầu tư, giữa giao lưu vốn trong nước và ngoài nước. Tín dụng tham
gia thu hút vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng nằm rải rác phân tán trong dân
chúng, trong các tổ chức kinh tế và vốn nước ngoài để tập trung hình thành
nguồn vốn cho vay. Để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, các doanh
nghiệp và các tổ chức kinh tế có thể huy động từ nhiều nguồn vốn khác nhau
nhưng nguồn vốn tài trợ của tín dụng là đặc biệt quan trọng. Nhờ nguồn vốn
của tín dụng, các doanh nghiệp không những đảm bảo quá trình sản xuất diễn
ra bình thường mà còn mở rộng được sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ

thuật mới, đảm bảo thắng lợi trong công cuộc cạnh tranh hiện nay. Quá trình
tích tụ và tập trung vốn tín dụng tạo ra động lực to lớn thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển, giúp các doanh nghiệp đầu tư vào các ngành có tỷ suất lợi
nhuận cao, kích thích khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó,
trong điều kiện nguồn thu ngân sách Nhà Nước có hạn, bằng công cụ tín dụng
Nhà Nước có thể huy động mọi nguồn vốn để tập trung đầu tư xây dựng cơ sở
5
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
hạ tầng cho nền kinh tế như đường sá, cầu cống, bến cảng, sân bay, điện
nước… những công trình đòi hỏi vốn lớn, thời gian thu hồi vốn dài.
- Tín dụng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển, các
ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước.Hiện
nay, sự phát triển của các ngành kinh tế trong cơ chế thị trường là không đồng
đều, các doanh nghiệp thường tập trung dồn vào những ngành có điều kiện
thuận lợi, có lợi nhuận cao, ít rủi ro. Bên cạnh đó, chiến lược phát triển kinh
tế đòi hỏi phải có sự cân đối hài hòa giữa các ngành kinh tế, đòi hỏi phải có
những ngành kinh tế mũi nhọn để tạo động lực phát triển và lôi cuốn các
ngành kinh tế khác. Mâu thuẫn đó đòi hỏi Nhà Nước phải sử dụng công cụ tín
dụng để tài trợ cho những ngành kinh tế yếu kém, đồng thời khuyến khích
phát triển nguồn lực cho những ngành kinh tế mũi nhọn.
- Tín dụng là công cụ góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả và kiềm
chế lạm phát. Thông qua tín dụng, bằng các biện pháp huy động vốn và cho
vay, thực hiện nghiệp vụ điều hòa vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, tín dụng đã
góp phần làm cho tốc độ luân chuyển hàng hóa và tiền vốn tăng lên. Các hoạt
động tín dụng phát triển còn tạo điều kiện mở rộng công tác thanh toán không
dùng tiền mặt. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển như hiện nay,
hệ thống ngân hàng phát triển mạnh mẽ với công nghệ tiên tiến thì đại bộ
phận chu chuyển tiền tệ trong xã hội được thực hiện bằng phương thức thanh
toán không dùng tiền mặt thông qua hệ thống ngân hàng. Điều này cho phép

tiết giảm sử dụng tiền mặt, tiết kiệm được chi phí lưu thông xã hội và thúc
đẩy tốc độ luân chuyển vốn.
- Tín dụng là một trong những phương tiện nối liền kinh tế quốc gia với
nền kinh tế của cộng đồng thế giới, góp phần phát triển quan hệ kinh tế đối
ngoại trên thị trường tài chính tiền tệ quốc tế. Tham gia vào mối quan hệ tín
dụng gồm có Chính phủ các nước với nhau, các Chính phủ với các tổ chức
6
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
tiền tệ thế giới và các tổ chức kinh tế với nhau. Đặc biệt trong bối cảnh nền
kinh tế thế giới đang trong tiến trình hội nhập cao, mỗi quốc gia đã trở thành
một bộ phận của thị trường thế giới, các nước đều thực hiện chính sách kinh
tế mở thì tín dụng ngày càng trở nên cần thiết. Tín dụng quốc tế đã tạo điều
kiện cho quá trình chuyển giao công nghệ giữa các nước thực hiện nhanh hơn,
góp phần giúp các nước chậm phát triển trong một thời gian ngắn có thể có
được một nền sản xuất với kỹ thuật công nghệ cao mà các nước phát triển
trước đây phải mất hàng trăm năm mới có được.
1.1.3. Nguyên tắc tín dụng ngân hàng :
- Nguyên tắc 1: Vốn vay phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi đầy đủ, đúng hạn
như đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Đây là nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động cho vay của ngân
hàng. Điều này xuất phát từ tính chất tạm thời nhàn rỗi của nguồn vốn mà
ngân hàng sử dụng cho vay là vốn huy động từ khách hàng gửi tiền, vì vậy
sau khi cho vay trong một thời hạn nhất định, khách hàng vay tiền phải hoàn
trả lại ngân hàng để ngân hàng hoàn trả lại cho khách hàng gửi tiền. Bên cạnh
đó, bản chất của quan hệ tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền
sử dụng vốn vay nên sau một thời gian nhất định vốn vay phải được hoàn trả
cả gốc lẫn lãi.
- Nguyên tắc 2: Tiền vay phải được sử dụng đúng mục đích.
Khi khách hàng vay tiền thì phải sử dụng vốn vay đúng mục đích đã
thỏa thuận trong hợp đồng. Việc sử dụng vốn vay vào mục đích gì là do hai

bên ngân hàng và khách hàng thỏa thuận và ghi trong hợp đồng tín dụng.
Đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích thỏa thuận nhằm đảm bảo hiệu quả
sử dụng vốn vay và khả năng thu hồi nợ vay sau này. Do vậy, về phía ngân
hàng cần chú ý tìm hiểu rõ mục đích vay vốn của khách hàng, đồng thời phải
kiểm tra và giám sát xem khách hàng có sử dụng vốn vay đúng như mục đích
7
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
đã cam kết trong hợp đồng tín dụng hay không. Điều này rất quan trọng vì
việc sử dụng vốn vay đúng mục đích hay không có ảnh hưởng rất lớn đến khả
năng thu hồi nợ sau này của ngân hàng.
Về phía khách hàng, việc sử dụng vốn vay đúng mục đích góp phần
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay, đồng thời giúp doanh nghiệp đảm bảo
khả năng hoàn trả nợ cho ngân hàng. Từ đó nâng cao được uy tín của khách
hàng đối với ngân hàng và củng cố được quan hệ vay vốn giữa khách hàng và
ngân hàng sau này.
1.1.4. Phân loại tín dụng ngân hàng :
Tín dụng ngân hàng được phân loại theo từng nhóm dựa trên một số
tiêu thức nhất định như: thời hạn cho vay, mục đích cho vay, mức độ tín
nhiệm với khách hàng, phương pháp hoàn trả, xuất xứ của tín dụng.
1.1.4.1. Căn cứ thời hạn tín dụng:
Theo quy định của NHNNVN thì các loại cho vay theo thời hạn tín
dụng bao gồm:
- Cho vay ngắn hạn: là các khoản vay có thời hạn cho vay đến 12
tháng, được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh
nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Cho vay trung hạn: là các khoản vay có thời hạn trên 12 tháng đến 5
năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định,
cải tiến hoặc đổi mới các thiết bị công nghệ, máy móc, mở rộng sản xuất kinh
doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn
nhanh.

- Cho vay dài hạn: là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 5 năm
và thời hạn tối đa có thể lên đến 20-30 năm. Loại tín dụng này được sử dụng
để thực hiện quá trình tái sản xuất theo chiều rộng hoặc chiều sâu, kết quả làm
tăng mức sản xuất và của cải xã hội.
8
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
1.1.4.2. Căn cứ vào mục đích tín dụng:
- Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp: loại cho
vay này cung cấp cho các doanh nghiệp thương mại và công nghiệp nguồn
vốn để bổ sung vốn lưu động.
- Cho vay sản xuất nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí
sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, lao động…
- Cho vay tiêu dùng cá nhân: là loại cho vay đáp ứng nhu cầu tiêu dùng,
các chi phí của đời sống thường nhật chủ yếu qua thẻ tín dụng.
- Cho vay mua bán bất động sản: là loại cho vay liên quan đến mua sắm
và xây dựng bất động sản như nhà ở, đất đai…
- Cho vay các định chế tài chính: bao gồm cấp tín dụng cho các ngân
hàng, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định
chế tài chính khác.
- Cho thuê: cho thuê của các định chế tài chính bao gồm hai loại là cho
thuê vận hành và cho thuê tài chính. Tài sản cho thuê bao gồm bất động sản
và động sản, trong đó chủ yếu là máy móc, thiết bị.
1.1.4.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng:
- Cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay mà uy tín của người đi
vay được đặt lên hàng đầu, người đi vay không cần có tài sản thế chấp, cầm
cố hay có sự bảo lãnh của người thứ ba. Theo hình thức này, ngân hàng chỉ
dựa vào mức độ uy tín của bản thân khách hàng vay vốn để quyết định cho
vay hay không.
- Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay mà người đi vay phải có tài sản
thế chấp, cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đây là loại hình tín

dụng áp dụng với những khách hàng không có độ uy tín cao với ngân hàng
nên vay vốn cần có sự đảm bảo.
9
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
1.1.4.4. Căn cứ vào phương thức cho vay:
- Cho vay theo món vay: nghĩa là mỗi lần vay vốn thì khách hàng và
NHTM thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng. Nếu
trong một quý khách hàng có bao nhiêu món vay thì khách hàng phải làm bấy
nhiêu hồ sơ xin vay.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Ngân hàng và khách hàng xác định
và thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một thời hạn nhất định hoặc
theo chu kỳ sản xuất kinh doanh. Loại cho vay này thường áp dụng với những
khách hàng vay có nhu cần vay vốn thường xuyên.
- Cho vay theo hạn mức thấu chi: là việc cho vay mà tổ chức kinh
doanh thỏa thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán
của khách hàng, phù hợp với các quy định của Chính phủ và NHNNVN về
hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
1.1.4.5. Căn cứ vào phương thức hoàn trả nợ vay:
- Cho vay có thời hạn: là loại cho vay thanh toán một lần theo như thời
hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, bao gồm ba hình thức:
 Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ: là loại cho vay mà khách hàng
vay phải thanh toán một lần khi đáo hạn.
 Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ (còn gọi là cho vay trả góp): là
loại cho vay mà khách hàng vay phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi theo
định kỳ.
 Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể, việc
trả nợ phụ thuộc vào khả năng tài chính của người đi vay hoặc áp
dụng theo kỹ thuật thấu chi.
- Cho vay không có thời hạn cụ thể: Đối với loại cho vay này thì ngân
hàng có thể yêu cầu hoặc người đi vay tự nguyện trả góp bất cứ lúc nào,

10
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý, thời gian này có thể được thỏa
thuận trong hợp đồng.
1.2. Rủi ro tín dụng và nội dung quản trị rủi ro tín dụng
trong hoạt động cho vay của ngân hàng :
1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng :
Rủi ro (credit risk) là loại rủi ro phát sinh do khách hàng nợ không còn
khả năng chi trả. RRTD phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu hồi
được đầy đủ cả tiền gốc và tiền lãi của các khoản vay, hoặc là việc thanh toán
nợ gốc và lãi vay không đúng kỳ hạn. RRTD không chỉ giới hạn ở hoạt động
cho vay mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của
ngân hàng như: bảo lãnh, cam kết, chấp thuận tài trợ thương mại, cho vay ở
thị trường liên ngân hàng, tín dụng thuê mua, đồng tài trợ…
1.2.2. Tác động của rủi ro tín dụng:
- Đối với nền kinh tế: Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động
của các doanh nghiệp, các ngành và các cá nhân, vì vậy khi một ngân hàng
gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở các ngân hàng
khác sẽ hoang mang, lo sợ và ồ ạt kéo đến các ngân hàng để rút tiền. Điều này
sẽ làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng rơi vào trạng thái khủng hoảng. Ngân
hàng phá sản sẽ gây ảnh hưởng đến tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp, không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân
gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn
đến toàn bộ nền kinh tế, nó sẽ làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng
cao, sức mua giảm, tình trạng thất nghiệp gia tăng mạnh, xã hội rơi vào trạng
thái mất ổn định.
Bên cạnh đó, hiện nay nền kinh tế của mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào
nền kinh tế khu vực và thế giới, vì vậy RRTD cũng ảnh hưởng đến nền kinh
tế thế giới. Ví dụ thực tế là cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á (1997) và gần
11

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
đây là cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-2002) đã làm rung chuyển
toàn cầu. Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các quốc gia phát triển
rất nhanh nên RRTD tại một nước sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế các
nước có liên quan.
- Đối với ngân hàng: Khi gặp RRTD, ngân hàng không thu được vốn
tín dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản
tiền huy động khi đến hạn, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc
thu chi. Khi không thu được nợ thì vòng quay vốn tín dụng giảm làm ngân
hàng kinh doanh không hiệu quả. Khi gặp phải rủi ro tín dụng, ngân hàng
thường rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, làm mất lòng tin người gửi
tiền, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Trong tình trạng đó, ngân hàng sẽ
không đủ tiền trả lương cho nhân viên vì thế những người có năng lực sẽ
thuyên chuyển công tác, ngân hàng sẽ gặp khó khăn chồng chất.
RRTD ở mỗi ngân hàng xảy ra ở những mức độ khác nhau. Mức độ
nhẹ nhất là khi ngân hàng không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất là khi
ngân hàng không thu được vốn và lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân
hàng bị thua lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài và ngân hàng không
khắc phục được thì sẽ dẫn đến phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền
kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy, các nhà
quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp
nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động cho vay.
Khi xảy ra rủi ro tín dụng thì có thể sẽ kéo theo hàng loạt rủi ro khác.
Ví dụ, khi xảy ra RRTD thì ngân hàng sẽ thiếu tiền chi trả cho khách hàng
dẫn đến cả rủi ro về thanh khoản, lợi nhuận ngân hàng giảm thấp và tùy theo
mức độ nặng hay nhẹ mà ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng nhiều hay ít. Mặt khác,
khi khả năng thanh khoản của ngân hàng có biểu hiện không tốt sẽ ảnh hưởng
đến tâm lý khách hàng, có thể dẫn đến hiện tượng rút tiền hàng loạt. Hậu quả
12
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

là xuất hiện tình trạng không có sự ăn khớp giữa lượng vốn huy động với
lượng vốn cho vay và đây chính là một trong những nguyên nhân làm xuất
hiện rủi ro lãi suất. Như vậy, có thể thấy rằng RRTD là loại rủi ro phổ biến và
có ảnh hưởng lớn nhất, gây ra tổn thất nhiều nhất cho hoạt động kinh doanh
của ngân hàng.
1.2.3. Chỉ tiêu đánh giá RRTD :
Hiện nay, để đo lường RRTD các ngân hàng thường sử dụng bốn chỉ
tiêu sau đây:
- Tỷ số giữa giá trị các khoản nợ quá hạn so với tổng dư nợ cho vay.
- Tỷ số giữa các khoản nợ xóa ròng so với tổng cho vay (khoản nợ xóa
ròng là khoản cho vay được ngân hàng tuyên bố là không còn giá trị và được
xóa khỏi danh sách).
- Tỷ số giữa phân bổ dự phòng tổn thất tín dụng hàng năm so với tổng
cho vay hay với tổng vốn chủ sở hữu.
- Tỷ số giữa dự phòng tổn thất tín dụng so với tổng cho vay và cho thuê
hay với tổng vốn chủ sở hữu.
Chỉ tiêu nợ quá hạn so với tổng dư nợ cho vay biểu hiện chất lượng tín
dụng. Theo quy định của NHNN hiện nay, các ngân hàng mà có chỉ tiêu này
trên 7% thì xem là ngân hàng yếu kém. Nếu ngân hàng luôn duy trì chỉ số này
ở mức dưới 5% thì ngân hàng đó sẽ được đánh giá là ngân hàng có nghiệp vụ
tín dụng tốt và chất lượng cho vay cao.
Khi hai chỉ tiêu đầu tăng thì RRTD của ngân hàng tăng lên, lúc đó ngân
hàng sẽ ở bên bờ vực phá sản. Hai chỉ tiêu cuối nói lên sự chuẩn bị trước của
ngân hàng cho các khoản tổn thất tín dụng thông qua việc trích lập quỹ dự
phòng tổn thất tín dụng hàng năm từ thu nhập hiện tại.
13
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
1.2.4. Dấu hiệu nhận biết RRTD :
Nhận diện RRTD là khâu rất quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh
doanh của ngân hàng, qua đó các chuyên viên xử lý rủi ro sẽ đề xuất những

giải pháp tối ưu để ngăn ngừa và xử lý các tín dụng có rủi ro. Sau khi khoản
vay phát sinh và được phân loại, các cán bộ tín dụng luôn phải theo dõi, giám
sát khoản vay để nhận diện rủi ro thông qua các dấu hiệu cảnh báo sau:
1.2.4.1. Nhóm các dấu hiệu phát sinh rủi ro từ phía khách hàng:

Đối với mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng thì có nhóm các
dấu hiệu cụ thể sau đây:
- Khi ngân hàng yêu cầu gửi các báo cáo tài chính thì phía khách hàng
chậm trễ, lấy lý do trì hoãn mà không có sự giải thích thuyết phục.
- Khách hàng có dấu hiệu không thực hiện đầy đủ các quy định, vi
phạm pháp luật trong quá trình quan hệ tín dụng.
- Có những yêu cầu về gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn nợ nhiều lần mà
không nêu rõ lý do hoặc lý do thiếu căn cứ thuyết phục.
- Thanh toán các khoản nợ gốc không đầy đủ, đúng hạn.
- Có dấu hiệu sử dụng nhiều tài khoản tài trợ ngắn hạn cho các hoạt
động đầu tư dài hạn.
- Chấp nhận sử dụng các nguồn vốn với giá cao và với mọi điều kiện.
- Khách hàng trông chờ vào nguồn thu bất thường để trả nợ mà không
phải từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính hoặc từ hoạt động mà họ đã đề
xuất trong phương án vay vốn, ví dụ bán máy nhà xưởng hay máy móc thiết
bị.
- Có thái độ trì hoãn hoặc gây trở ngại đối với ngân hàng trong quá
trình kiểm tra theo định kỳ hoặc đột xuất về tình hình sử dụng vốn vay, tình
hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh mà không có sự giải thích minh
bạch, thuyết phục.
14
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
- Khách hàng chậm thanh toán các khoản lãi khi đến hạn.
- Mức vay thường xuyên gia tăng, yêu cầu về các khoản vay vượt quá
nhu cầu dự kiến.

- Khi khách hàng có dấu hiệu tìm kiếm sự tài trợ nguồn vốn lưu động
từ nhiều nguồn khác, đặc biệt từ đối thủ cạnh tranh của ngân hàng.
- Không có các báo cáo hay dự đoán về lưu chuyển tiền tệ.
- Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị giảm sút đi so
với định giá khi cho vay. Hay có dấu hiệu tài sản đã cho người khác thuê, bán
hoặc trao đổi, hoặc không còn tồn tại.
- Xuất hiện nợ quá hạn do khách hàng không có khả năng hoàn trả hoặc
khách hàng không muốn trả nợ.

Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý, tình hình tài
chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng:
Nhóm dấu hiệu này có tác động trực tiếp tới chất lượng của khoản tín
dụng nhưng với tốc độ chậm hơn. Các dấu hiệu này xuất phát từ chính hoạt
động kinh doanh của khách hàng, vì vậy nếu các cán bộ tín dụng của ngân
hàng mà không có sự quản lý, giám sát chặt chẽ thì sẽ khó có thể nhận diện
được các dấu hiệu rủi ro này. Một số biểu hiện cụ thể như sau:
- Thay đổi thường xuyên cơ cấu tổ chức của ban điều hành.
- Xuất hiện dấu hiệu hội chứng sản phẩm đẹp, nghĩa là mải mê theo
đuổi một sản phẩm hoàn toàn không thích hợp về mặt thời gian và năng lực
hiện tại mà không chú ý đến các yếu tố khác.
- Xuất hiện những mâu thuẫn trong quá trình quản trị điều hành, có sự
tranh chấp trong quản lý.
- Xuất hiện hội chứng hợp đồng lớn, sẵn sàng ký kết hợp đồng giá trị
lớn với bạn hàng có tên tuổi mặc dù lợi nhuận thu về không cao mà bỏ qua
hợp đồng có giá trị nhỏ nhưng có khả năng thu được tỷ suất lợi nhuận cao.
15
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
- Có những thay đổi bất thường trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh khoản hay
mức độ hoạt động của khách hàng.
- Có chênh lệch lớn giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế so với mức dự

kiến khi khách hàng đề nghị cấp tín dụng.
- Ngày càng xuất hiện nhiều khoản chi phí bất hợp lý như sự gia tăng
đột biến trong chi phí tiếp khách, chi phí quảng cáo, tập trung quá mức chi phí
cho thiết bị, văn phòng hiện đại để gây ấn tượng.
- Khó khăn trong phát triển sản phẩm, dịch vụ mới.
- Vì áp lực nội bộ dẫn tới tung ra thị trường các sản phẩm dịch vụ quá
sớm khi chưa hội đủ các điều kiện chín muồi hoặc đặt ra các hạn mức thời
gian kinh doanh, doanh số không thực tế, tạo mong đợi trên thị trường không
đúng lúc.
- Đối với khách hàng là tư nhân cá thể thì có dấu hiệu người vay bị
bệnh kéo dài hoặc chết.
- Thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh xẩy ra.
1.2.4.2. Nhóm dấu hiệu xuất phát từ chính sách tín dụng của ngân
hàng:
- Cán bộ tín dụng đưa ra sự đánh giá và phân loại không chính xác về
mức độ rủi ro của khách hàng. Khi đánh giá năng lực tài chính của khách
hàng, không nên chỉ dựa vào các thông tin “tĩnh” từ phía khách hàng cung cấp
mà bỏ qua thông tin “động” hay những thông tin nhạy cảm từ phía thị trường.
- Hồ sơ tín dụng không đầy đủ hoặc thiếu sự tuân thủ các quy định hiện
hành về phê duyệt tín dụng.
- Chính sách tín dụng quá cứng nhắc hoặc lỏng lẻo, tạo kẽ hở cho
khách hàng lợi dụng.
16
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
- Đồng ý cấp tín dụng mà thiếu sự chắc chắn trong cam kết và tính bảo
đảm của khách hàng về vấn đề duy trì một khoản tiền gửi lớn hay các lợi ích
do khách hàng đem lại từ khoản tín dụng được cấp.
- Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt quá khả năng và năng
lực kiểm soát cũng như nguồn vốn của ngân hàng.
- Soạn thảo các điều kiện trong hợp đồng tín dụng không rõ ràng, mạch

lạc, không xác định rõ lịch hoàn trả đối với từng khoản vay, cố ý thỏa hiệp
các nguyên tắc tín dụng với khách hàng mặc dù biết có tiềm ẩn rủi ro.
- Chấp nhận cung cấp tín dụng với khối lượng lớn cho các khách hàng
không thuộc phân đoạn thị trường tối ưu của ngân hàng.
- Bị cuốn vào khuynh hướng cạnh tranh thái quá như: giảm thấp lãi suất
cho vay, phí dịch vụ hay thực hiện thực hiện chiến lược “giữ chân” khách
hàng bằng các khoản tín dụng mới để họ không quan hệ với các tổ chức tín
dụng khác mặc dù biết rõ các khoản tín dụng đã cấp tiềm ẩn nguy cơ rủi ro
cao.
1.2.5. Nguyên nhân của RRTD :
1.2.5.1. Nguyên nhân khách quan:
a) Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định:
 Thứ nhất, do sự biến động quá nhanh và không thể dự đoán trước
được của thị trường thế giới.
Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông
nghiệp và công nghiệp phục vụ cho nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực
phẩm và nguyên liệu), dầu thô, may gia công,… vốn rất nhạy cảm với rủi ro
thời tiết và giá cả thế giới nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến
động xấu.
Vấn đề xuất khẩu và nhập khẩu trong những năm gần đây cũng gặp
không ít khó khăn. Một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phải ngừng hoạt
17
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
động trong một thời gian dài do chi phí giá thành tăng rất cao trong khi không
tiêu thụ được sản phẩm. Điều này gây tổn thất nặng nề cho các doanh nghiệp,
và cũng dẫn đến tình trạng doanh nghiệp không trả được nợ cho ngân hàng,
làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
 Thứ hai, do sự tấn công của hàng nhập lậu:
Nước Việt Nam trải dài với hàng trăm km biên giới trên bộ và trên
biển, giao thông thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta. Nhưng

bên cạnh đó hàng nhập lậu cũng tràn lan tại các thành phố lớn khiến cho các
doanh nghiệp trong nước phải điêu đứng và các ngân hàng cho các doanh
nghiệp này vay vốn cũng rơi vào tình trạng khó khăn.
 Thứ ba, rủi ro từ quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế:
Hiện nay, sự phát triển của thế giới diễn ra song song với quá trình tự
do hóa tài chính, hội nhập quốc tế, điều này tất yếu sẽ tạo ra một môi trường
cạnh tranh gay gắt khiến hầu hết các doanh nghiệp – là những khách hàng
thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và có thể bị
đào thải bất cứ lúc nào.
Không chỉ các doanh nghiệp cạnh tranh gay gắt với nhau, bản thân sự
cạnh tranh của các NHTM trong nước và quốc tế trong môi trường hội nhập
kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng trong nước với hệ thống quản lý lỏng
lẻo, yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên, vì hầu hết các khách
hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút.
 Thứ tư, do thiếu sự quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý đã
dẫn đến khủng hoảng thừa về đầu tư một số ngành.
Trong nền kinh tế thị trường luôn diễn ra sự cạnh tranh, vì thế mà các
nhà kinh doanh luôn tìm kiếm ngành nào có lợi nhất để đầu tư và sẽ rời bỏ
những ngành không đem lại lợi nhuận cho họ. Ở Việt Nam thời gian qua, sự
cạnh tranh đã phát triển một cách tự phát, hoàn toàn không có sự qui hoạch
18
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
hợp lý, không có sự phân công lao động, chuyên môn hóa lao động. Các hiệp
hội nghề nghiệp và Nhà Nước cũng tỏ ra bất lực trước tình hình này, dẫn đến
sự khủng hoảng thừa, lãng phí tài nguyên quốc gia.
b) Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi:
 Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là do sự kém hiệu quả của cơ quan
pháp luật cấp địa phương.
Những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính
phủ, NHNNVN và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản

dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân
hàng. Tuy luật và các văn bản đã được chuyển xuống các ngân hàng, nhưng
việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì diễn ra hết sức chậm chạp và còn
gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu
hồi nợ. Những văn bản này đều có quy định: “Trong những trường hợp khách
hàng không trả được nợ, NHTM có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay”.
Trên thực tế, các NHTM không thể thực hiện được điều này vì ngân hàng là
một tổ chức kinh tế, không phải là một cơ quan quyền lực Nhà Nước, vì thế
ngân hàng không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng bàn giao tài sản
đảm bảo cho ngân hàng để xử lý hoặc chuyển tài sản đảm bảo nợ vay để tòa
án xử lý thông qua con đường tố tụng. Vì vậy mà ngân hàng không thể giải
quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng.
 Nguyên nhân thứ hai là do sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu
quả của NHNN.
Hiện nay, nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát ngân hàng còn
lạc hậu, chậm đổi mới. Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả
năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu kém.
Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một
số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới thanh tra ngân hàng còn chưa theo
19
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
kịp, vai trò kiểm toán chưa được phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ
chức một cách hữu hiệu. Thanh tra ngân hàng còn hoạt động một cách thụ
động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh chứ ít có khả năng ngăn chặn và
phòng ngừa rủi ro hay vi phạm. Mô hình tổ chức của thanh tra ngân hàng còn
nhiều bất cập, do vậy có những sai phạm của NHTM không được thanh tra
NHNN cảnh báo để có biện pháp ngăn chặn từ đầu, đến khi xảy ra hậu quả
nặng nề thì mới can thiệp. Trên thực tế đã có hàng loạt sai phạm về cho vay,
bảo lãnh tín dụng ở một số NHTM dẫn đến những rủi ro rất lớn, có nguy cơ
đe dọa sự an toàn của cả hệ thống mà đáng lẽ ra đã có thể được ngăn chặn

ngay từ đầu nếu bộ máy thanh tra phát hiện và đề ra cách xử lý sớm hơn.
 Nguyên nhân thứ ba là do hệ thống thông tin quản lý còn bất cập.
Ở Việt Nam, trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng CIC của NHNN
đã đạt được kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin
kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, trung tâm này cung cấp
thông tin còn đơn điệu, thiếu cập nhật, vì vậy đây chưa phải là cơ quan định
mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả.
Đây cũng là một thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng
và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống
thông tin tương xứng. Nếu các ngân hàng cố gắng chạy theo thành tích, mở
rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì sẽ gia
tăng nguy cơ nợ xấu cho ngân hàng.
1.2.5.2. Nguyên nhân chủ quan :
a) Rủi ro từ phía khách hàng vay :
 Thứ nhất, do khách hàng vay sử dụng vốn sai mục đích và không có
thiện chí trong việc trả nợ vay.
Thông thường các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều phải có các
phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Ngân hàng sẽ xét duyệt sau đó quyết
20
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
định có cho doanh nghiệp vay vốn hay không và nếu cho vay thì tối đa là bao
nhiêu. Trên thực tế, số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố
ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ
việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm
ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác, gây thiệt hại lớn cho ngân hàng.
 Thứ hai, nguyên nhân là do khả năng quản lý kinh doanh của doanh
nghiệp còn hạn chế.
Các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng với mục đích chung là để mở
rộng qui mô kinh doanh. Tuy nhiên, đa số các doanh nghiệp lại chủ yếu tập
trung vốn đầu tư vào cơ sở vật chất chứ ít có doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi

mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế
toán theo đúng chuẩn mực. Khi đó, quy mô kinh doanh quá lớn so với tư duy
quản lý, điều này dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả
thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
 Thứ ba, do tình hình tài chính của doanh nghiệp vẫn còn yếu kém và
thiếu minh bạch.
Trên thực tế, các doanh nghiệp lập sổ sách kế toán để ngân hàng xét
duyệt cho vay vốn nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất.
Khi các cán bộ ngân hàng lập các bảng phân tích tài chính của doanh nghiệp
dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cấp thường thiếu tính thực tế và xác
thực. Đây cũng là lý do vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế
chấp như là một chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng. Cho nên
trách nhiệm của các cán bộ thẩm định tín dụng là khá nặng nề, chỉ một chút
sai sót có thể gây thiệt hại cho ngân hàng.
b) Rủi ro do các nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay:
 Nguyên nhân thứ nhất là do sự lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội
bộ các ngân hàng.
21
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Việc kiểm tra nội bộ được thực hiện thường xuyên cùng với công việc
kinh doanh của ngân hàng. Công việc này có ưu điểm hơn thanh tra NHNN vì
sự nhanh chóng, kịp thời giải quyết vấn đề ngay khi vừa phát sinh. Tuy vậy,
trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ của các ngân hàng hầu
như chỉ tồn tại trên hình thức, vì vậy mà công tác phòng ngừa rủi ro vẫn chưa
thực sự đạt hiệu quả.
 Nguyên nhân thứ hai là do sự bố trí các cán bộ tín dụng thiếu đạo
đức nhưng giỏi về trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Đạo đức cán bộ là một trong những yếu tố rất quan trọng trong việc hạn
chế rủi ro tín dụng. Trong thời gian vừa qua đã xảy ra một số vụ án kinh tế
lớn đều có sự tiếp tay của các cán bộ ngân hàng cùng với khách hàng vay lập

hồ sơ giả vay, hoặc nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên cao so với thực tế để
rút tiền của ngân hàng.
Như vậy, đạo đức của các cán bộ tín dụng rất quan trọng vì họ là những
người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng và tư vấn cho khách hàng về các thủ
tục cần thiết. Do vậy, một cán bộ có đạo đức tốt nhưng kém về năng lực có
thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi nghiệp
vụ thì thật nguy hiểm khi được bố trí vào công tác tín dụng.
 Nguyên nhân thứ ba là do ngân hàng thiếu sự giám sát và quản lý sau
khi cho vay.
Việc theo dõi nợ vay là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất
của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Hiện nay, các ngân
hàng thường tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay
mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, giám sát đồng vốn sau khi cho vay. Công việc
theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra
trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng, đồng thời tìm ra
những cơ hội mới để phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng
22
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Trên thực tế, trong thời gian qua các ngân hàng chưa thực hiện tốt công
tác này là do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng vay, thêm nữa là
do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá
lạc hậu, không cung cấp được kịp thời và đầy đủ các thông tin mà NHTM yêu
cầu.
 Nguyên nhân thứ tư là do sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo,
vai trò của trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng CIC chưa thực sự hiệu quả.
Thực chất kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để
cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể tránh
khỏi. Các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro
từ phía khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng cùng một
lúc. Khả năng trả nợ của mỗi khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối

đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin mà dẫn đến việc nhiều ngân
hàng cùng cho một khách hàng vay đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì
rủi ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một ngân hàng nào.
Hiện nay, sự cạnh tranh giữa các NHTM diễn ra rất gay gắt, vì vậy vai
trò của CIC là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác
cho các ngân hàng để họ có thể đưa ra quyết định cho vay hợp lý, đúng đắn.
Tuy nhiên việc này vẫn rất khó khăn vì ngân hàng dữ liệu của CIC chưa đầy
đủ thông tin và còn quá đơn điệu, chưa được cập nhật và xử lý kịp thời.
1.2.6. Nội dung quản trị rủi ro tín dụng đối với ngân hàng :
1.2.6.1. Những giai doạn trong quy trình cấp tín dụng có thể xảy ra
rủi ro:
Trên thực tế, RRTD có thể xảy ra ở tất cả các giai đoạn trong quy trình
cấp tín dụng, cụ thể là:
23
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
- Đơn đề nghị vay vốn: Dễ xảy ra rủi ro ngay từ bước đầu này nếu đơn
đề nghị của khách hàng vay vốn không đầy đủ, không hợp lệ mà lại được xét
duyệt.
- Xét duyệt cho vay: Trong quá trình xét duyệt không phát hiện ra được
các vấn đề không tốt để đảm bảo “khách hàng vay được tin cậy” và “khoản
vay tốt”. Đây là giai đoạn quan trọng nhất.
- Quản lý khoản vay: Giai đoạn này xảy ra rủi ro nguyên nhân chủ yếu
do trình độ và đạo đức của cán bộ ngân hàng. Có thể họ không thực hiện
nhiệm vụ giám sát khoản vay, hoặc có giám sát nhưng không phát hiện “vấn
đề” hoặc có phát hiện “vấn đề” nhưng không phản ứng kịp thời.
- Giải ngân: Giai đoạn này xảy ra rủi ro là do ngân hàng thực hiện quá
trình giải ngân khi không đầy đủ hồ sơ hoặc không theo lịch, không đúng mức
tiền được rút từng lần.
- Thu lãi, thu nợ: Rủi ro xảy ra ở giai đoạn này là do cán bộ ngân hàng
không phát hiện việc trả lãi, trả nợ chậm trễ hoặc không đủ theo kỳ hạn đã

cam kết từ phía khách hàng vay.
1.2.6.2. Quản lý rủi ro tín dụng – Theo Basel I:
Theo BASEL I - Ủy ban về giám sát nghiệp vụ ngân hàng, thì quản lý
rủi ro tín dụng dựa trên bốn chuẩn mực sau:
Chuẩn mực 7: Tiêu chuẩn cấp tín dụng và quy trình giám sát tín dụng.
Một phần công việc thiết yếu của hệ thống thanh tra là đánh giá chính
sách, thông lệ và quy trình liên quan đến việc cấp tín dụng, thực hiện đầu tư
cũng như công tác quản lý tín dụng và danh mục đầu tư hiện tại.
Chức năng tín dụng và đầu tư ở các ngân hàng là khách quan và dựa
trên các nguyên tắc lành mạnh. Duy trì chính sách cho vay, mục đích vay và
thủ tục cho vay thận trọng với các văn bản cho vay hợp lý là cần thiết đối với
quản lý chức năng cho vay của ngân hàng. Ngân hàng cần phải có một quá
24
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
trình giám sát quan hệ tín dụng hiện tại của khách hàng. Cơ sở dữ liệu là nhân
tố quan trọng của hệ thống thông tin quản lý, cần phải được chi tiết danh mục
cho vay.
Chuẩn mực 8: Đánh giá chất lượng tài sản và dự phòng rủi ro mất vốn
tín dụng.
Ngân hàng phải thiết lập và duy trì các chính sách, thói quen và thủ tục
phù hợp với việc đánh giá chất lượng tài sản, dự phòng rủi ro mất vốn tín
dụng.
Ngân hàng phải xây dựng một quy trình quan sát các khoản nợ có vấn
đề và chọn lọc các món nợ quá hạn.
Khi thực hiện bảo lãnh hoặc nhận vật thế chấp, ngân hàng phải có
phương pháp đánh giá uy tín của người bảo lãnh và định giá vật thế chấp.
Khi có các khoản nợ có vấn đề thì ngân hàng tăng cường hoạt động cho
vay trên cơ sở đảm bảo cấp tín dụng và sức mạnh tài chính tổng thể.
Chuẩn mực 9: Sự tập trung rủi ro và các rủi ro lớn.
Ngân hàng phải có hệ thống thông tin quản lý cho phép xác định những

điểm đáng chú ý trong danh mục đầu tư và phải thiết lập giới hạn an toàn để
hạn chế xu hướng ngân hàng tập trung vào các khách hàng đơn lẻ hoặc các
nhóm khách hàng có quan hệ.
Chuẩn mực 10: Cho vay khách hàng có mối quan hệ.
Để ngăn ngừa sự lạm dụng phát sinh từ việc cho vay khách hàng có
mối quan hệ, quan hệ vay vốn phải dựa trên nguyên tắc “trong tầm kiểm
soát”, như vậy, việc mở rộng tín dụng được giám sát một cách có hiệu quả,
kiểm soát và giảm thiểu rủi ro.
Giao dịch cho vay khách hàng có mối quan hệ thường gây ra những rủi
ro đặc biệt cho ngân hàng, vì thế nên có sự chấp thuận của Hội đồng quản trị.
25

×