Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Chương 8 một số giải pháp cơ bản và cấp bách nhằm đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.42 KB, 18 trang )

Chương 8
Một số giải pháp cơ bản và cấp bách nhằm đẩy mạnh phát triển nông
nghiệp, nông dân, nông thôn trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa

1. Phát triển nền nơng nghiệp hàng hóa tồn diện, ngày càng hiện
đại gắn kết chặt chẽ với thị trường và sự phát triển mạnh mẽ công
nghiệp, dịch vụ trên địa bàn nông thôn
Trong hơn 20 năm đổi mới đã qua, nông nghiệp nước ta phát triển với
tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng hóa, năng suất, chất lượng, hiệu quả
đều ngày càng được nâng cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc
gia và tạo được một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chiếm vị thế cao trên thị
trường thế giới; kinh tế nông thôn đã có bước chuyển dịch theo hướng tăng tỷ
trọng cơng nghiệp, dịch vụ và các ngành nghề phi nông nghiệp khác, đời sống
vật chất và tinh thần của dân cư nông thơn nói chung; nơng dân nói riêng ở
hầu khắp các vùng, miền trên cả nước ngày càng được cải thiện; các hình thức
tổ chức sản xuất, kinh doanh tiếp tục được đổi mới; cơ sở kết cấu hạ tầng kinh
tế - kỹ thuật và kinh tế - xã hội ở nơng thơn được tăng cường; các chương
trình xóa đói giảm nghèo và an sinh xã hội được triển khai có kết quả tốt. Tuy
vậy, những kết quả đạt được như đã nêu chưa tương xứng với tiềm năng, lợi
thế, thiếu tồn diện và chưa đều giữa các vùng, miền. Nơng nghiệp phát triển
chưa bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, chưa phát huy tốt
các nguồn lực và sức cạnh tranh thấp; chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới
cách thức sản xuất trong nông nghiệp, nơng thơn cịn chậm, phổ biến vẫn cịn
là sản xuất nhỏ phân tán. Các hình thức tổ chức, sản xuất chậm đổi mới, mối
liên kết giữa nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ còn nhiều hạn chế chưa đáp
ứng yêu cầu sản xuất hàng hóa; đời sống vật chất và tinh thần của dân cư
nơng thơn nói chung, nơng dân nói riêng cịn thấp. Nơng nghiệp nơng thơn
phát triển thiếu quy hoạch; cơ sở kết cấu hạ tầng còn nhiều hạn chế, nhất là
vùng sâu, vùng xa.
1




Vì thế, cần phải phát triển nền nơng nghiệp tồn diện, ngày càng hiện
đại, gắn kết chặt chẽ với phát triển mạnh mẽ công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn
nông thôn.
Để thực hiện giải pháp này trước hết phải sớm hoàn thành việc xây
dựng, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chiến lược và quy hoạch phát triển sản
xuất nông nghiệp gắn kết chặt chẽ với nhu cầu thị trường, tiềm năng lợi thế
của từng vùng, miền đảm bảo sử dụng đất nơng nghiệp tiết kiệm, có hiệu quả,
duy trì diện tích đất lúa đủ đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả
trước mắt và lâu dài. Cơ cấu lại ngành nông nghiệp, gắn phát triển sản xuất
nông nghiệp với phát triển công nghiệp chế biến, bảo quản và công nghiệp
phục vụ nông nghiệp như: công nghiệp cơ khí, cơng nghiệp sau thu hoạch...
và các hoạt động dịch vụ "đầu vào, đầu ra" cho nông nghiệp kinh tế nông
thôn. Phát triển sản xuất với quy mô hợp lý các loại nơng sản hàng hóa xuất
khẩu có tiềm năng, lợi thế, nông sản thay thế nhập khẩu. Tăng cường đầu tư
cơ sở vật chất - kỹ thuật, đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học – công nghệ
hiện đại, cơng nghệ sinh học, thủy lợi hóa, cơ giới hóa, thơng tin hóa; thay thế
lao động thủ cơng và tập quán canh tác lạc hậu bằng công cụ và phương thức
canh tác tiên tiến, hiện đại để sử dụng có hiệu quả đất đai, tài nguyên, lao
động, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản.
Phát triển ngành trồng trọt theo hướng hình thành vùng sản xuất hàng
hóa tập trung, thực hiện đầu tư thâm canh, áp dụng các giống và quy trình sản
xuất mới có năng suất, chất lượng cao; hoàn thiện hệ thống tưới tiêu; đẩy
nhanh cơ giới hóa đồng bộ các khâu sản xuất; hiện đại hóa cơng nghiệp bảo
quản, chế biến, nâng cao chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm và giá trị gia
tăng của nơng sản hàng hóa. Bố trí lại cơ cấu cây trồng, mùa vụ và giống phù
hợp với điều kiện tự nhiên, khí hậu, thời tiết của từng vùng để giảm thiệt hại
do thiên tai, dịch bệnh. Tiếp tục đẩy mạnh thâm canh sản xuất lúa, nhất là ở
đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, đảm bảo vững chắc an

ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Có chính sách nhằm bảo
đảm một mức thu nhập hợp pháp ổn định cho người trồng lúa và vùng trồng
2


lúa. Xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa tập trung với sự đảm bảo bằng hợp
đồng kinh tế và chế tài thực hiện được pháp luật bảo hộ giữa người sản xuất
và người tiêu thụ ở các vùng sản xuất nguyên liệu cho công nghiệp chế biến
và rau, hoa, quả cho các công ty xuất khẩu.
Đổi mới và phát triển nhanh, bền vững ngành chăn nuôi theo phương
thức công nghiệp, bán cơng nghiệp, đảm bảo an tồn dịch bệnh và vệ sinh
môi trường, phù hợp với lợi thế của từng vùng, miền sinh thái; đẩy mạnh phát
triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ ở trung du, miền núi; chú trọng cải tạo, nâng cao
chất lượng giống và áp dụng quy trình chăn ni tiên tiến để tăng năng suất,
chất lượng, hiệu quả; tăng cường cơng tác thú y, phịng chống dịch bệnh; phát
triển sản xuất thức ăn chăn nuôi cơng nghiệp; tổ chức lại và hiện đại hóa cơ
sở giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm.
Phát triển lâm nghiệp toàn diện từ quản lý, bảo vệ, trồng, cải tạo, làm
giàu rừng đến khai thác, chế biến lâm sản, bảo vệ mơi trường cho du lịch sinh
thái. Có cơ chế, chính sách phù hợp, tạo điều kiện, khuyến khích các tổ chức,
cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia bảo vệ, phát triển rừng. Cho
phép khai thác lợi ích kinh tế từ rừng sản xuất là rừng tự nhiên theo nguyên
tắc bền vững, lấy nguồn thu từ rừng để bảo vệ, phát triển rừng và làm giàu từ
rừng. Khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức, cá nhân trồng rừng thâm canh, hiện
đại hóa cơng nghệ khai thác, chế biến nhằm nâng cao giá trị lâm sản, chú trọng
phát triển lâm sản ngoài gỗ, nhất là mở rộng việc bảo tồn, khoanh nuôi các
động vật hoang dã để làm giàu tài nguyên rừng và phát triển du lịch sinh thái.
Thực hiện có chất lượng và hiệu quả cao theo yêu cầu phát triển bền
vững chương trình khai thác hải sản, trong chiến lược phát triển kinh tế biển,
gắn nhiệm vụ phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh, quốc phòng. Cơ cấu lại

lực lượng đánh bắt gần bờ và thực hiện đồng bộ các giải pháp hỗ trợ ngư dân
chuyển đổi nghề, tạo việc làm mới, tăng thu nhập, cải thiện đời sống của ngư
dân ven biển. Phát triển mạnh lực lượng khai thác hải sản xa bờ và kéo dài
thời gian của mỗi chuyến đi theo hướng khuyến khích ngư dân đầu tư trang bị
phương tiện và công nghệ hiện đại, đồng thời Nhà nước hỗ trợ đầu tư phát
3


triển đồng bộ cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần nghề cá từ việc cung ứng
lương thực, thực phẩm, nhiên liệu đến mua gom hải sản của ngư dân từ ngoài
khơi xa theo hợp đồng kinh tế; xây dựng các khu neo đậu tàu thuyền theo quy
hoạch; đảm bảo hệ thống thông tin liên lạc thông suốt và tìm kiếm cứu nạn
kịp thời, có hiệu quả. Phát triển mạnh nuôi trồng thủy sản đa dạng, theo quy
hoạch, phát huy lợi thế của từng vùng gắn với thị trường; xây dựng đồng bộ
kết cấu hạ tầng vùng nuôi, trồng, trước hết là thủy lợi; áp dụng rộng rãi các
quy trình cơng nghệ sinh sản nhân tạo; xây dựng hệ thống thú y thủy sản;
kiểm soát chặt chẽ chất lượng giống, thức ăn, mơi trường ni; hiện đại hóa
các cơ sở chế biến, đảm bảo các tiêu chuẩn về vệ sinh an tồn thực phẩm và
vệ sinh cơng nghiệp.
Đẩy mạnh việc phát triển, đồng thời tiến hành phân bố hợp lý các
ngành công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn các vùng nông thôn, gắn chặt với yêu
cầu phát triển nông nghiệp và thị trường theo quy hoạch. Khuyến khích các
thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp chế biến tinh, chế biến sâu
gắn với vùng nguyên liệu và thị trường; phát triển mạnh các làng nghề truyền
thống và sản xuất tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn các vùng nông thôn theo
phương châm "tiểu công nghiệp hiện đại, thủ cơng nghiệp tinh xảo" nhằm góp
phần đảm bảo "li nông bất li hương". Phát triển nhanh và nâng cao chất lượng
các loại dịch vụ phục vụ sản xuất, đời sống của dân cư nơng thơn nói chung,
nơng dân nói riêng.
2. Tăng mạnh nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho phát triển

nông nghiệp, nông dân, nông thôn theo u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
Nông nghiệp là lĩnh vực thiết yếu đối với đời sống con người và sự
phát triển của xã hội, nơng thơn là địa bàn cịn rất rộng lớn với hơn 3 triệu
trên tổng số 44 triệu lao động của cả nước và 65 triệu trên tổng số 86 triệu dân
Việt Nam đang lao động, sinh sống ở nơi đó, nên rất trọng yếu đối với q
trình cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa của nước ta; nơng dân là lực lượng hùng hậu
với 24 triệu lao động trong 11 triệu hộ, đóng vai trị chủ thể trong phát triển
4


sản xuất nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn, tạo nên những sản phẩm
thiết yếu cho xã hội, chiếm trên 20% GDP của nước ta. Nhưng ngân sách nhà
nước đầu tư cho nơng nghiệp cịn thấp, chỉ khoảng 8% chi ngân sách nhà
nước trong suốt 20 năm qua. Trong khi đó sản xuất nơng nghiệp, kinh tế nông
thôn, đời sống nông dân là lĩnh vực rất nhạy cảm với những tác động của tự
nhiên và dễ bị tổn thương hơn các lĩnh vực khác nếu gặp phải thiên tai và biến
động bất lợi trong mở cửa thị trường, cắt giảm thuế nhập khẩu nông sản theo
cam kết gia nhập WTO. Do đó, Nhà nước cần tăng thêm nguồn đầu tư cho
nông nghiệp, kinh tế nông thôn, hỗ trợ nơng dân trong q trình đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế bằng những biện
pháp sau:
Trên cơ sở xác định phương án tối ưu và giành quỹ đất cùng sự đầu tư
thỏa đáng để bảo đảm vững chắc an ninh lương thực cả trước mắt và lâu dài,
phải đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nhất là cơ cấu
cây trồng, vật nuôi đảm bảo khai thác, phát huy tốt tiềm năng, lợi thế so sánh
của nền nông nghiệp nhiệt đới trên cả nước và từng vùng, để tạo ra các sản
phẩm nơng nghiệp có giá trị xuất khẩu cao hơn, có khả năng cạnh tranh trên
thị trường trong và ngoài nước. Hạn chế phát triển, tiến tới loại bỏ các sản
phẩm có giá trị thấp, khơng cạnh tranh được với các sản phẩm cùng loại khi

mở cửa thị trường và cắt giảm thuế nhập khẩu.
Đẩy mạnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp trên
địa bàn nơng thơn; sử dụng các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh khác
nhau từ thấp đến cao phù hợp với ngành, nghề để xác lập các mối liên kết giữa
các hộ nông dân sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng, đánh bắt thủy, hải sản; liên
kết giữa nông dân với các cơ sở chế biến, doanh nghiệp thương mại v.v...
nhằm hình thành những vùng sản xuất hàng hóa lớn, tạo thuận lợi cho việc
quản lý quá trình tăng trưởng, quản lý chất lượng và cung cấp thông tin thị
trường cho các chủ thể sản xuất, kinh doanh.
Ban hành cơ chế khuyến khích nơng dân sản xuất nơng nghiệp, ni
trồng và đánh bắt thủy, hải sản mua cổ phần trong các nhà máy chế biến, tạo
5


ra mối qua hệ đồng sở hữu của những người cung cấp nguyên liệu và những
nhà chế biến, bảo đảm việc cung cấp nguyên liệu ổn định, bền vững cả về số
lượng và chất lượng.
Tập trung nguyên cứu để sớm ban hành cơ chế thúc đẩy q trình tích
tụ ruộng đất gắn với việc chuyển dịch lao động nông nghiệp sang làm các
ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn. Nếu có đất bị thu hồi để phát triển
khu cơng nghiệp hay phát triển đơ thị thì được sử dụng tiền đền bù để góp cổ
phần, để học nghề và được vào làm cơng nhân trong cơng ty, xí nghiệp hoặc
hoạt động dịch vụ.
Ban hành chính sách khuyến khích phát triển mạnh các doanh nghiệp,
các hợp tác xã cổ phần sản xuất công nghiệp, sản xuất và chế biến nông sản,
kinh doanh dịch vụ ở nông thôn và cơ chế phân phối lợi nhuận đảm bảo hài
hịa lợi ích kinh tế giữa người sản xuất nguyên liệu, người chế biến, người
tiêu thụ, người có đóng góp vâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả quá
trình sản xuất kinh doanh những sản phẩm đó; phát triển các làng nghề, các
cụm cơng nghiệp và dịch vụ; hình thành các thị trấn, thị tứ mới ở nông thôn.

Ban hành cơ chế ưu đãi để khuyến khích các doanh nghiệp đưa các cơ
sở sản xuất công nghiệp sử dụng nhiều lao động không yêu cầu cao về trình
độ được đào tạo và kỹ năng lao động đến các vùng nông thôn để thu hút một
phần lao động từ nông nghiệp chuyển sang làm công nghiệp, dịch vụ nhằm
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân công lại lao động ngay trên từng
địa bàn, góp phần giảm bớt áp lực lao động nhập cư vào các thành thị, nhất là
ở các thành phố lớn, đồng thời cùng góp phần sử dụng nguồn lao động của đất
nước có hiệu quả hơn.
Cùng với những việc trên, Nhà nước cần tăng mạnh nguồn đầu tư từ
ngân sách để đẩy nhanh quá trình xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật và kinh tế - xã hội cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn theo u
cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Mặc dù trong hơn 20 năm đổi mới đã qua Đảng và Nhà nước ta đã
quan tâm đầu tư phát triển hệ thống này cho nông nghiệp, nông thôn thông
6


qua hàng loạt các chương trình mục tiêu như: Phát triển giao thơng nơng thơn;
chương trình cứng hóa kênh mương; kiên cố hóa trường học; chương trình
nước sạch; chương trình phát triển mạng lưới điện nơng thơn; chương trình
xây dựng mạng lưới y tế tuyến xã và tuyến huyện; chương trình phát triển hệ
thống chợ nơng thơn v.v… theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng
làm đã giúp cho kinh tế - xã hội nơng thơn có thêm nhiều điều kiện để chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy vậy,
những cơ sở kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật và kinh tế - xã hội của nơng
thơn nước ta cịn yếu kém, thiếu đồng bộ, bị xuống cấp nghiêm trọng, nhất là
hệ thống thủy lợi, tưới tiêu, phòng chống thiên tai, hệ thống giao thông... phục
vụ cho các vùng sản xuất hàng hóa và bảo vệ mơi trường ở các khu, cụm cơng
nghiệp, các làng nghề, hệ thống chăm sóc y tế và giáo dục, đào tạo còn nhiều
bất cập với u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn.
Chính vì những hạn chế, yếu kém nêu trên mà phải đẩy nhanh quá

trình xây dựng hệ thống này, đảm bảo sao cho việc phát triển các cơ sở
kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn đi trước
một bước:
Trước mắt cần tiếp tục thực hiện tốt phương châm Nhà nước và nhân
dân cùng làm, nhưng phải tăng mạnh các khoản đầu tư của ngân sách nhà
nước để xây dựng nhanh các công trình thủy lợi, nâng cao năng lực tưới và
tiêu nước một cách chủ động cho các loại cây trồng, nhất là cây lúa, nuôi
trồng thủy sản và các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao; đảm bảo cấp đủ
nước sinh hoạt cho dân cư và các hoạt động công nghiệp, dịch vụ ở nông
thôn. Xây dựng các hồ chứa nước ở những vùng thường xuyên bị khô hạn.
Đặc biệt chú trọng phát triển mạnh thủy lợi kết hợp với thủy điện nhỏ ở vùng
miền núi có nhiều tiềm năng và lưới điện quốc gia khó đi qua. Đẩy mạnh xây
dựng và kiên cố hóa hệ thống đê sơng, đê biển, hệ thống ngăn lũ, thốt lũ.
Hồn thiện hệ thống tổ chức quản lý và nâng cao hiệu suất sử dụng các cơng
trình thủy lợi đảm bảo đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp và
kinh tế - xã hội nông thôn đạt hiệu quả cao.
7


Đẩy mạnh phát triển và nâng cấp hệ thống giao thông nông thôn gắn
kết với mạng lưới giao thông quốc gia, bảo đảm thông suốt bốn mùa tới các
xã và có đường ơ tơ từ trung tâm xã đến trung tâm làng, bản.
Cần quy hoạch và đầu tư phát triển hệ thống giao thông đến các vùng
trung du, miền núi, ven biển đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp và đô thị.
Ưu tiên phát triển giao thông ở các vùng khó khăn để có điều kiện phát triển
kinh tế - xã hội nhanh hơn. Từng bước nâng cao chất lượng đường nơng thơn;
có cơ chế, chính sách để khơi dậy và phát huy được tính tích cực, chủ động và
sức mạnh cộng đồng trong việc đảm bảo duy tu, bảo dưỡng thường xuyên hệ
thống kết cấu hạ tầng ở nông thôn. Phát triển giao thông thủy, xây dựng các
cảng sông, nạo vét luồng lạch và các phương tiện vận tải sơng, biển đảm bảo

an tồn và thuận lợi.
Tiến hành xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả các chương
trình, dự án có sự tham gia đóng góp tích cực của cộng đồng dân cư, việc phát
triển đồng bộ hệ thống lưới điện nhằm bảo đảm đủ điện phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp; nâng cao chất lượng điện phục vụ sinh hoạt của dân cư nông
thôn. Phát triển hệ thống bưu chính - viễn thơng, nâng cao khả năng tiếp cận
thông tin cho dân cư trên mọi vùng nông thôn, đặc biệt là miền núi, vùng sâu,
vùng xa, hải đảo. Rà soát lại quy hoạch và đẩy mạnh việc xây dựng phù hợp
với từng vùng hệ thống chợ nông sản.
Nhà nước hỗ trợ việc xây dựng hệ thống kho tàng, các cơ sở bảo quản,
phơi sấy nhằm giảm hao hụt, bảo đảm chất lượng sản phẩm sau thu hoạch. Hỗ
trợ xây dựng các chợ mua bán nông, lâm, thủy hải sản ở các tụ điểm dân cư
có sản xuất hàng hóa lớn, tạo điều kiện điều tiết lượng hàng hóa lưu thơng
trên thị trường và phát triển hoạt động thương mại ở nông thôn.
Đầu tư nguồn lực để phát triển mạnh hệ thống khuyến nông, khuyến
lâm, khuyến ngư trên tất cả các cấp: Trung ương, tỉnh, huyện, xã và hợp tác
xã để giúp nông dân áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp,

8


làm kinh tế đồi, rừng, nuôi trồng thủy, hải sản nhằm tạo ra khối lượng nơng
sản có giá trị xuất khẩu cao. Thực hiện các chương trình khuyến nơng,
khuyến lâm, khuyến ngư theo mục tiêu, gắn với việc cung cấp thông tin thị
trường, những cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực nông
nghiệp và phát triển tư duy kinh tế hàng hóa trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế ngày càng sâu rộng cho các bộ khuyến nơng cùng tồn thể nơng dân.
Đối với những vùng duyên hải có tiềm năng phát triển nghề muối, cần có
chính sách, cơ chế đặc thù, hỗ trợ diêm dân phát triển mạnh nghề này nhằm
đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống trong nước và vươn lên có xuất

khẩu.
Tiến hành tổng kết việc thực hiện chủ trương liên kết 4 nhà, mua bán
theo hợp đồng với nông dân, rút ra những bài học thành công và chưa thành
công. Đặc biệt là phải xác định rõ những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả
của việc thực hiện các chủ trương đó để có sự điều chỉnh, xử lý nhằm triển
khai thực hiện rộng rãi, thiết thực, đạt hiệu quả cao chủ trương này trong
thực tế.
Xây dựng và thực hiện đồng bộ các chương trình phát triển kinh tế xã hội ở những vùng khó khăn, vùng núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Hỗ trợ lương thực và những điều kiện thiết yếu khác cho người dân ở các
vùng này phát triển sản xuất nông – lâm - thủy sản theo thế mạnh của từng
vùng, cải thiện điều kiện ăn, ở, đi lại, cung cấp nước sạch, phịng chữa bệnh,
học tập, nâng mức hưởng thụ văn hóa, điều kiện cập nhật và cung cấp thông
tin cho đồng bào nhằm hạn chế, tiến tới thu hẹp bớt khoảng cách về trình độ
phát triển và mức sống so với các vùng khác.
3. Đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực và
nghiên cứu, chuyển giao khoa học, công nghệ cho nông nghiệp, nông dân,
nông thôn theo yêu cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

9


Nguồn lực to lớn nhất, cơ bản nhất để phát triển nông nghiệp, kinh tế xã hội nông thôn và nâng cao đời sống nông dân một cách nhanh, mạnh, bền
vững là nguồn nhân lực chất lượng cao và năng lực khoa học – công nghệ của
nông nghiệp, nông dân, nơng thơn. Do đó, cần phải tạo được bước tiến mới
mang tính đột phát trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và đẩy
mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học – công nghệ hiện đại
trong nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Trong nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta hiện nay nguồn nhân
lực còn rất dồi dào, lao động trẻ chiếm tỷ lệ rất cao, cần cù, chịu khó lao
động, có khả năng tiếp thu nhanh. Nhưng, do hệ thống giáo dục – đào tạo ở

nhiều vùng nơng thơn cịn kém phát triển, nên trình độ học vấn của dân cư
nơng thơn nói chung, lao động nơng nghiệp nói riêng cịn thấp, trên 70%
thanh niên nơng thơn chưa được đào tạo nghề, thiếu kỹ năng lao động, gây trở
ngại cho việc thu hút đầu tư vào lĩnh vực này và chuyển dịch cơ cấu lao động
theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì trong những năm qua chúng ta
đã khai thác gần tối hạn những ngành nghề sử dụng nhiều lao động, khơng địi
hỏi phải có kỹ năng lao động cao để giải quyết việc làm cho khoảng 8 triệu
lao động. Nhưng với những ngành, lĩnh vực có giá trị gia tăng lớn, địi hỏi
trình độ và kỹ năng lao động cao thì chất lượng nguồn nhân lực trong nông
nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay cịn nhiều bất cập. Do đó gây nhiều trở
ngại cho việc thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào lĩnh vực
này, nhất là các ngành nông nghiệp, công nghệ cao và các ngành công nghiệp
sản xuất các sản phẩm có hàm lượng chất xám và giá trị gia tăng cao trong
tiến trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung; cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn nói riêng. Những hạn chế,
bất cập này được biểu hiện cụ thể như sau:
- Về trình độ học vấn và số năm đi học của nguồn nhân lực nước ta,
nhất là ở khu vực nơng thơn cịn thấp. Tuy tỉ lệ số người trong độ tuổi lao động
biết chữ cao hơn nhiều nước đang phát triển khác, nhưng trong suốt 10 năm
10


qua không tăng và số người chưa tốt nghiệp tiểu học vào năm 2005 còn chiếm
tới 42,31%, số người tốt nghiệp phổ thơng trung học mới chiếm 21,21%.
Bảng 8.1: Trình độ học vấn của nguồn nhân lực nước ta
Đơn vị: %
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Biết chữ

94,2


94,9

96,2

96

96,42 96,18 96,26 95,96 95,00 96,00

Chưa biết chữ

5,8

5,1

3,8

4

3,58

Tốt nghiệp tiểu học 27,8

28,1

29,4

29

30,02 32,29 31,83 31,41 32,20


Chưa tốt nghiệp 20,9
Tiểu học

20,3

18,5

18

16,11 16,68 15,96 15,80 12,10 42,31

Tốt nghiệp THCS

32,1

32,4

32,3

32

32,7 29,95 30,06 30,17 32,80 32,36

Tốt nghiệp THPT

13,5

14,1


16,0

17

17,58 17,27 18,42 18,27 19,70 21,21

3,82

3,74

4,35

5,00

4,00
57

Nguồn: Tổng hợp từ Kết quả điều tra lao động - việc làm ở Việt Nam
1996-2005
Số năm đi học trung bình của 01 người lao động Việt Nam mới đạt
7,43 năm, thấp hơn Philíppin, Inđơnêxia và nhiều nước khác; so với Nhật Bản
thì Việt Nam mới bằng khoản 55%.
- Việc đào tạo nâng cao kỹ năng lao động và trình độ chuyên môn
nghề nghiệp của nguồn nhân lực Việt Nam chuyển biến rất chậm chạp. Suốt
hơn 10 năm qua (1996-2007) trong bối cảnh đất nước đã chuyển sang thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước phát triển kinh tế tri thức,
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và giáo dục – đào tạo, khoa học – công
nghệ được coi là quốc sách hàng đầu, nhưng việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
kỹ năng, trình độ chun mơn, kỹ thuật cho nguồn nhân lực vẫn diễn ra một
cách tiệm tiến, chậm chạp. Do đó, đến năm 2007 số lao động qua đào tạo và

có chun mơn kỹ thuật của Việt Nam mới đạt 31,55% so với tổng lao động
xã hội, trong đó cơng nhân kỹ thuật và đào tạo nghề chiếm 21,3%, trung học
chuyên nghiệp 4, 53%, Đại học và Cao đẳng: 5,72%.

11


- Về cơ cấu trình độ đào tạo, theo kinh nghiệp quốc tế và yêu cầu
khách quan của quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước
ta, cơ cấu trình độ nguồn nhân lực cần thiết phải có là: 01 đại học, cao đẳng,
04 trung học chuyên nghiệp, 10 công nhân kỹ thuật. Nhưng thực trạng cơ cấu
đào tạo nguồn nhân lực của Việt Nam đã và đang diễn ra rất bất cập so với
yêu cầu khách quan đã nêu trên, thậm chí về mặt này, có sự thụt lùi so với
mấy thập niên trước đây. Bảng cơ cấu nguồn nhân lực đã được đào tạo của
Việt Nam từ 1979 đến 2005:
Bảng 8.2:
Đơn vị: lần
Nhu cầu khách quan về cơ cấu ĐH, CĐ
nguồn nhân lực

THCN

CNKT

Năm
Năm 1979

1

2,2


7,1

Năm 1989

1

1,7

2,3

Năm 1999

1

1,2

1,8

Năm 2000

1

1,24

1,74

Năm 2001

1


0,98

2,66

Năm 2002

1

0,93

2,79

Năm 2003

1

1,31

4,8

Năm 2004

1

0,91

2,77

Năm 2005


1

0,81

2,86

Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám thống kê và Điều tra lao động - việc làm
- Về chất lượng đào tạo, bồi dưỡng: Cùng với q trình đổi mới tồn
diện đất nước, nội dung và phương thức đào tạo đã từng bước được đổi mới
gắn với thực tế hơn, do đó kết quả đào tạo, bồi dưỡng có một số mặt được
nâng cao. Nhưng nhìn chung chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực
của Việt Nam còn nhiều yếu kém, chỉ đạt 3,79 điểm theo thang điểm 10. Trong
khi đó các nước: Hàn Quốc: 6,91; Ấn Độ: 5,76; Trung Quốc: 5,73; Malaixia:
5,59. Do chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực của Việt Nam còn nhiều
12


hạn chế như vậy, nên sức cạnh tranh của lao động Việt Nam còn thấp. Theo tổ
chức Beri, chấm theo thang điểm 100 thì sức cạnh tranh của lao động Việt Nam
chỉ đạo 16 điểm về kỹ năng, 32 điểm về chất lượng, 20 điểm về năng suất lao
động, 40 điểm về thái độ lao động, 45 điểm về khung pháp lý.
- Biểu hiện tổng hợp của những yếu kém về đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực của Việt Nam xét theo các tiêu chí: Mức độ sẵn có cán bộ hành
chính chất lượng cao chỉ đạo 3,5 điểm trên 10 điểm; mức độ sẵn có lao động
sản xuất chất lượng cao chỉ đạo 3,25 điểm trên 10 điểm; mức độ sẵn có cán
bộ quản lý chất lượng cao chỉ đạt 2,5 điểm trên 10 điểm; mức độ thành thạo
tiếng Anh chỉ đạo 2,62 điểm trên 10 điểm.
Với những đánh giá tổng hợp theo tiêu chí trên, Việt Nam xếp thứ 11
trên 12 nước Đông và Nam Á được xem xét. Điều đó cũng cho thấy rõ việc đào

tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng, trình độ cho nguồn nhân lực Việt Nam nói
chung, lĩnh vực nơng nghiệp, nơng thơn nói riêng cịn rất bất cập so với u cầu
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Bảng 8.3: so sánh chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam
với một số nước Đông và Nam Á

TT

Tên nước,
lãnh thổ

Mức độ sẵn Mức độ
Mức độ
Mức độ
có các cán sẵn có lao sẵn có cán
Mức độ
thành thạo
bộ hành
động sản bộ quản lý
thành thạo
cơng nghệ
chính chất xuất chất chất lượng
tiếng Anh
cao
lượng cao lượng cao
cao

1

Hàn Quốc


8,00

7,00

7,50

7,00

4,00

2

Singapo

5,67

6,83

6,33

7,83

8,33

3

Nhật Bản

7,50


8,00

7,00

7,50

3,50

4

Đài Loan

5,62

5,37

5,00

7,62

3,86

5

Ấn Độ

5,50

5,25


5,62

6,50

6,62

6

Trung Quốc

6,19

7,12

4,12

4,37

3,62

7

Malaixia

7,00

4,50

4,50


5,50

4,00

8

Hồng Kơng

5,24

4,23

4,24

5,43

4,50

9

Philíppin

6,20

5,80

5,60

5,00


5,40

13


10 Thái Lan

3,37

4,00

2,36

3,27

2,82

11 Việt Nam

3,50

3,25

2,75

2,50

2,62


12 Inđônêxia

3,00

2,0

1,50

2,50

3,00

Ghi chú: Các nước được xếp hạng theo thang điểm 10 là cao nhất và
điểm 0 là thấp nhất.
Chính vì thực trạng nguồn nhân lực của nước ta còn hạn chế, yếu kém
như vậy, nhất là trong lĩnh vực nơng nghiệp, nơng thơn. Do đó, phải đẩy
mạnh giáo dục – đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông
thôn. Thế nhưng, hệ thống giáo dục – đào tạo ở nông thôn nước ta hiện nay
nhìn chung cịn nhiều hạn chế, bất cập nhất là miền núi, vùng sâu, vùng xa và
những vùng còn nhiều khó khăn. Cho nên chất lượng giáo dục – đào tạo
nguồn nhân lực nói chung, nâng cao kỹ năng, trình độ cho người lao động nói
riêng cịn yếu kém về nhiều mặt, làm cho nguồn nhân lực dồi dào ở nông thôn
nước ta chưa thực sự phát huy được vai trò là nhân tố cơ bản trong phát huy
nội lực để tranh thủ ngoại lực cho phát triển nông nghiệp, nơng thơn và nâng
cao đời sống nơng dân. Vì thế cần phải tạo được sự đột phá trong phát triển
nền giáo dục – đào tạo trong nông nghiệp, nông thơn tương xứng với vị trí
của vấn đề nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn hiện nay và vị trí quốc sách
hàng đầu của giáo dục - đào tạo nhằm góp phần to lớn vào đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn; đưa nơng nghiệp, nơng dân,
nơng thôn chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

- Phát triển rộng khắp ở các tụ điểm dân cư trên địa bàn nông thôn hệ
thống trường, lớp…… các lớp học phổ thông phù hợp và sắp xếp, phân bố
hợp lý hệ thống đào tạo từ sơ cấp đến cao đẳng, đại học gắn với địa bàn nông
thôn, hướng vào các yêu cầu sau:
+ Nâng cao học vấn và dân trí cho cư dân nơng thơn nói chung, nơng
dân nói riêng nhằm phổ cập học vấn phổ thơng theo lộ trình từ thấp đến cao.

14


+ Đào tạo nâng cao trình độ và kỹ năng lao động cho nguồn nhân lực
ở nông thôn đáp ứng các yêu cầu của sản xuất nông nghiệp và các hoạt động
phi nông nghiệp.
+ Đào tạo đội ngũ lao động trình độ cao nhằm trí thức hóa một bộ hóa con
em nông dân để đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
- Đổi mới mạnh mẽ cơ chế tuyển sinh, chính sách học phí, học bổng,
chế độ đãi ngộ và nội dung, chương trình, phương thức đào tạo, cách dạy,
cách học phù hợp với nhu cầu thực tiễn phát triển sản xuất nông nghiệp và
kinh tế nông thôn trên từng vùng, miền để sớm đào tạo cung cấp cho lĩnh
vực nông nghiệp, nông thôn một đội ngũ lao động có chất lượng, trình độ
cao, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu gắn bó mật thiết với đồng ruộng,
quê hương.
- Tăng cường các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cho nông dân kiến
thức khoa học, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại về sản xuất nông – lâm – ngư –
diêm nghiệp; đào tạo nghề cho con em nông dân để chuyển nghề. Đồng thời
phải tập trung đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức và năng lực quản lý kinh
tế, quản lý xã hội cho đội ngũ cán bộ cơ sở, đảm bảo hằng năm đào tạo 1 triệu
lao động nông thôn.
- Phải luật hóa và có cơ chế kiểm định về số lượng, chất lượng đối với
các doanh nghiệp đóng trên từng địa bàn nông thôn phải tiến hành đào tạo,

bồi dưỡng miễn phí nâng cao kỹ năng, trình độ chun mơn, nghề nghiệp cho
con em nông dân và tuyển dụng họ vào làm công nhân trong các doanh
nghiệp theo chế độ hợp đồng trách nhiệm thỏa thuận từ hai phái. Đồng thời
phải thực hiện sự đóng góp kinh phí cho các cơ sở đào tạo theo hợp đồng
trong quan hệ cung - cầu về nguồn lực lao động được đào tạo có chất lượng.
- Nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học – công nghệ trong
nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã có những chuyển biến quan trọng, tác
động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp,

15


nhất là cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi, gia súc, gia
cầm, nuôi trồng thủy, hải sản. Do đó đã làm xuất hiện những ngành, nghề mới
trong nơng nghiệp, nơng thơn. Nhiều giống mới có năng suất cao, chất lượng
tốt, có khả năng chống sâu, bệnh đã thay thế phần lớn giống cổ truyền. Nhiều
thành tựu khoa học công nghệ khác trực tiếp và gián tiếp phục vụ sản xuất
nông nghiệp, kinh tế nông thôn như thủy lợi, công nghệ thu hoạch, chế biến,
bảo quản v.v..đang được triển khai nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng
trong phát triển sản xuất nơng nghiệp, kinh tế nơng thơn.
Có được những thành tựu đó là nhờ sự gia tăng kinh phí để duy trì,
phát triển các cơ sở nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học – công
nghệ. Đồng thời có chính sách khuyến khích các cơ sở này tiếp cận và làm
dịch vụ khoa học – công nghệ trực tiếp cho các doanh nghiệp sản xuất nông
nghiệp, liên kết với các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp để nghiên cứu,
chuyển giao cơng nghệ và có nguồn thu nhập từ nguồn vốn khuyến khích hoạt
động này để phát triển.
Trong những năm gần đây đã có nhiều chương trình quốc gia nghiên
cứu khoa học – công nghệ về nông – lâm nghiệp - thủy sản đã được triển khai
nhằm tập trung sự cố gắng để giải quyết những vấn đề trọng yếu đang đặt ra

trong lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Tuy vậy, hoạt động nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học –
công nghệ trong nông nghiệp, nông dân, nơng thơn cịn nhiều hạn chế và bất
cập: Hệ thống nghiên cứu, triển khai vừa cồng kềnh, vừa phân tán và có
những nhiệm vụ triển khai nghiên cứu trùng lặp nhau gây lãng phí cơng sức
và tiền bạc. Đầu tư cho hoạt động nghiên cứu, triển khai bình quân trên một
cán bộ khoa học – công nghệ của nước cịn thấp, chỉ bằng ¼ của Thái Lan,
1/7 của Trung Quốc, 1/26 của Singapore; cả về cán bộ và trang thiết bị chưa
gắn kết nghiên cứu với ứng dụng; cơ sở vật chất - kỹ thuật của một số cơ quan
nghiên cứu nhìn chung cịn nghèo nàn, lạc hậu, phần lớn thiết bị trong nhiều
phịng thí nghiệm phổ biến là những thiết bị của những thập niên 1960-1970;

16


thiếu chính sách khuyến khích và hỗ trợ thỏa đáng cho những nghiên cứu,
sáng chế rất thiết thực của những "Kỹ sư nơng dân".
Để tạo được bước tiến mang tính đột phá trong phát triển nghiên cứu,
chuyển giao, ứng dụng khoa học – công nghệ trong phát triển sản xuất nông
nghiệp, kinh tế nông thôn cần đổi mới mạnh mẽ chính sách, cơ chế đầu tư cho
các hoạt động này. Cụ thể là:
- Tăng đầu tư cho nghiên cứu, triển khai và chuyển giao, ứng dụng
khoa học cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn từ ngân sách nhà nước để
cho nơng nghiệp nước ta sớm đạt trình độ tương đương với các nước tiên tiến
trong khu vực. Đặc biệt là phải ưu tiên đầu tư nghiên cứu, triển khai ứng dụng
công nghệ sinh học vào việc tuyển chọn, lai tạo để sớm cung cấp cho nông
nghiệp, kinh tế nông thôn nhiều loại giống mới về cây trồng, vật nuôi và quy
trình ni, trồng, bảo quản, chế biến nhằm tạo được sự đột phát về năng suất,
chất lượng, hiệu quả sản xuất, nhất là vật nuôi và một số loại cây trồng mà
năng suất, chất lượng của nước ta còn thấp xa so với nhiều nước trong khu

vực như bò, đậu tương, dứa v.v..
- Đầu tư kinh phí theo cơ chế hướng tới thị trường có sự hỗ trợ và
quản lý của nhà nước đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Theo hướng
này, căn cứ vào nhu cầu thực tiễn cả trước mắt và trong trung, dài hạn về
những yếu tố đầu vào và xử lý có hiệu quả đầu ra của sản xuất nông nghiệp,
kinh tế nông thôn và đời sống nông dân để nhà nước đặt hàng, ứng vốn theo
hợp đồng kinh tế cho các cơ quan nghiên cứu, triển khai, chuyển giao ứng
dụng khoa học – công nghệ vào phát triển sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông
thôn, cải thiện đời sống nông dân. Các đơn đặt hàng theo hợp đồng này chỉ
được quyết toán và thanh lý sau khi đã được nghiệm thu kết quả ứng dụng
trong thực tế.
- Kịp thời có chính sách, cơ chế đãi ngộ thỏa đáng để sử dụng có hiệu
quả, khai thác, phát huy tốt nguồn nhân lực khoa học – cơng nghệ hiện có và
sẽ có đáp ứng u cầu đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn,

17


nâng cao đời sống nhân dân theo những mục tiêu đã hoạch định. Đồng thời
phải có chính sách, cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế tham gia nghiên cứu, chuyển giao khoa học – công nghệ phục vụ
nơng nghiệp, nơng thơn, khuyến khích những nghiên cứu cải tiến kỹ thuật,
phát minh, sáng chế đáp ứng nhu cầu thực tiễn của những "Kỹ sư nơng dân";
có chính sách ưu đãi để thu hút nhiều trí thức trẻ về công tác và lập nghiệp ở
nông thôn, nhất là những trí thức trẻ thuộc các ngành nơng – lâm nghiệp, thủy
hải sản, nghề muối, giáo dục, y tế, văn hóa và các vùng sâu, vùng xã, các
vùng có nhiều khó khăn.
- Tăng cường năng lực, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động
của hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công và các hoạt
động dịch vụ ở nông thôn như thương mại, thú y, bảo vệ thực vật v.v..ở nông

thôn để tư vấn hỗ trợ và phổ biến kiến thức khoa học, kỹ thuật – cơng nghệ
cho dân cư nơng thơn.
- Có chính sách và có chế huy động sự đóng góp vào việc phát triển
khoa học – công nghiệp trong nhà nước của các doanh nghiệp chế biến nông
sản như là một sự đầu tư trở lại của công nghiệp trong lĩnh vực này đối với
nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

18



×