Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tiểu luận phương thức kiện dân sự để bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản theo quy định của bộ luật dân sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.61 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU................................................................................1
B. NỘI DUNG.............................................................................2
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG....................................2
1. Tài sản..................................................................2
2. Quyền sở hữu.........................................................2
3. Bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản..............3
4. Bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản thông
qua Tịa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo các
phương thức kiện dân sự.......................................................4
II. CÁC PHƯƠNG THỨC KIỆN DÂN SỰ.................................5
1. Phương thức kiện đòi lại tài sản (kiện vật quyền)..............5
2. Phương thức kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành
vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản...................................................14
3. Phương thức kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại (kiện trái
quyền)................................................................................. 16
III. ĐÁNH GIÁ PHƯƠNG THỨC KIỆN DÂN SỰ....................17
1. Ưu điểm...........................................................................17
2. Hạn chế........................................................................... 18
3. Kiến nghị hoàn thiện phương thức kiện dân sự để bảo vệ
quyền với tài sản.................................................................20
C. KẾT LUẬN........................................................................... 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................21

1


PHƯƠNG THỨC KIỆN DÂN SỰ ĐỂ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU
VÀ CÁC QUYỀN KHÁC ĐỐI VỚI TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015


A. MỞ ĐẦU
Từ lâu, sở hữu đã luôn là vấn đề nền tảng của mọi quan hệ
xã hội cũng như đóng vai trị quan trọng trong đời sống pháp lý.
Do đó, việc bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản của
các cá nhân, tổ chức là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của
mọi quốc gia. Trên thực tế, bên cạnh việc ban hành văn bản
quy phạm pháp luật thì Nhà nước còn quy định các biện pháp
để bảo vệ các quyền của chủ sở hữu tài sản và bảo vệ các
quyền khác đối với tài sản. Để quyền sở hữu và các quyền khác
đối với tài sản của mình khơng bị xâm phạm (đặc biệt trong
trường hợp chủ sở hữu mất khả năng kiểm sốt thực tế với vật),
thì họ được pháp luật cho phép truy địi đến cùng thơng qua các
cách thức khác nhau. Bên cạnh phương thức tự bảo vệ, kiện dân
sự là một phương thức hiệu quả để cá nhân, tổ chức có thể bảo
vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản cho mình. Để hiểu
rõ hơn về phương thức này, em xin chọn đề tài: “Phương thức
kiện dân sự để bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác
đối với tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự năm
2015” để làm bài tiểu luận cho mình. Bài tiểu luận khơng tránh
khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự góp ý của thầy cơ
để bài viết được hồn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
B. NỘI DUNG
2


I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1. Tài sản
Trong đời sống kinh tế xã hội, tài sản được coi là điều kiện
vật chất để duy trì các hoạt động của con người. Theo Điều 105
Bộ luật dân sự năm 2015:

“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động
sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản có thể là tài
sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”
2. Quyền sở hữu
Điều 158 Bộ luật dân sự 2015 quy định về quyền sở hữu
như sau: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử
dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định
của pháp luật”. Như vậy, quyền sở hữu gồm ba quyền năng cơ
bản: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt.
2.1. Quyền chiếm hữu
Quyền chiếm hữu là một quyền trong sở hữu tài sản. Đó là
quyền được nắm giữ, quản lý tài sản nhưng không được sử
dụng, định đoạt tài sản, không được hưởng hoa lợi, lợi tức, bán
tài sản… Điều 186 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Chủ sở hữu
được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, chi
phối tài sản của mình nhưng khơng được trái pháp luật, đạo đức
xã hội”.
2.2 Quyền sử dụng
Quyền sử dụng là quyền khai thác cơng dụng và những lợi
ích vật chất của tài sản, nhưng khơng phải chỉ thực hiện theo ý
chí của chủ sở hữu, mà bị giới hạn trong một phạm vi nhất định.
Tùy thuộc vào tính chất, cơng dụng và giá trị của tài sản mà
3


“giới hạn” của pháp luật về việc sử dụng đối với mỗi loại tài sản
có thể khác nhau. Điều 189 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi,
lợi tức từ tài sản”.

2.3. Quyền định đoạt
Định đoạt tài sản là một trong ba quyền của chủ sở hữu
đối với tài sản, được thể hiện ở chỗ người chủ sở hữu có quyền
chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình cho người khác
hoặc từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản ấy bằng cách tự mình
bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, cho mượn, để thừa kế, từ bỏ
hoặc bằng các hình thức định đoạt khác. Điều 192 Bộ luật Dân
sự năm 2015 quy định: “Quyền định đoạt tài sản là quyền
chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu đó, tiêu
dùng hoặc tiêu hủy tài sản”.
3. Bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
3.1. Khái niệm bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối
với tài sản
Dù đã quy định về bảo vệ quyền sở hữu tại mục 2 chương
XI với tổng số 8 điều (từ Điều 163 đến Điều 170), nhưng Bộ luật
dân sự 2015 lại không quy định một điều luật cụ thể về định
nghĩa quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản. Chúng ta có thể
khái quát quan niệm này trên tinh thần được thể hiện tại các
điều luật như sau: “Bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài
sản là những cách thức, biện pháp mà các chủ thể quyền sở
hữu, quyền khác đối vơi tài sản áp dụng để phòng ngừa những
hành vi xâm phạm sở hữu sẽ xảy ra hoặc yêu cầu cơ quan có
thẩm quyền xử lý những hành vi xâm phạm đối với quyền sở
hữu, quyền khác đối với tài sản đã xảy ra.” Khái niệm trên đã

4


cho thấy các yếu tố thuộc về đặc trưng của các biện pháp bảo
vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản.

3.2. Đặc điểm của việc bảo vệ quyền sở hữu, quyền
khác đối với tài sản
Thứ nhất, các chủ thể sau được quyền yêu cầu áp dụng
các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản:
Một là, chủ sở hữu của tài sản là những người có đủ ba quyền
năng đối với tài sản. Hai là, người có quyền khác đối với tài sản
là chủ thể có quyền với bất động sản liền kề, quyền hưởng dụng
và quyền bề mặt.
Thứ hai, các biện pháp được áp dụng để bảo vệ quyền sở
hữu, quyền khác đối với tài sản liên quan đến nhiều ngành luật
khác nhau và có thể đồng thời áp dụng để xử lý một hành vi
xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản.
Thứ ba, bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
bằng biện pháp dân sự tạo điều kiện cho người bị xâm phạm
chủ động trong việc bảo vệ quyền lợi của mình khi các quyền
năng của mình bị xâm phạm. Đây là biện pháp thể hiện sự chủ
động của chủ thể quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản gặp
trực tiếp người có hành vi xâm phạm, tiết kiệm được thời gian
và chi nếu hai bên thỏa thuận được với nhau. Khi các bên không
đạt được sự đồng thuận trong quá trình giải quyết về hậu quả
pháp lý của hành vi xâm phạm quyền sở hữu, chủ thể quyền có
thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm
phạm quyền sở hữu theo quy định của pháp luật về sở hữu; khởi
kiện ra Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ tư, bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
theo phương thức dân sự được coi là biện pháp tối ưu nhất, tạo

5



khả năng khơi phục lợi ích vật chất cho người bị xâm phạm cao
nhất so với việc áp dụng biện pháp hành chính và hình sự.
4. Bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản thơng
qua Tịa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo các
phương thức kiện dân sự
4.1. Khái niệm
Phương thức kiện dân sự là phương thức mà chủ sở hữu
yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có
hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại
tài sản cho mình, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc
thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi
thường thiệt hại.
4.2 Đặc điểm
Thứ nhất, phương thức kiện dân sự phải được tiến hành
theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Trình tự, thủ
tục kiện dân sự được quy định tại Điều 186, Khoản 2 Điều 189
và Điều 190 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Thứ hai, bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
theo phương thức kiện dân sự mang lại hiệu quả tương đối cao
so với phương thức tự bảo vệ.
Thứ ba, phương thức kiện dân sự có rất nhiều loại khác
nhau, áp dụng cho từng trường hợp cụ thể bởi nó xuất phát từ
tính chất đa dạng trong bản thân sự xâm phạm tới quyền sở
hữu. Đó là: kiện địi lại tài sản; kiện u cầu bồi thường thiệt
hại; kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái
pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối
với tài sản.

6



II. CÁC PHƯƠNG THỨC KIỆN DÂN SỰ
1. Phương thức kiện đòi lại tài sản (kiện vật quyền)
Kiện đòi lại tài sản là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp
pháp u cầu tịa án buộc người có hành vi chiếm hữu bất hợp
pháp trả lại tài sản cho mình. Địi lại tài sản là một trong những
phương thức bảo vệ quyền của chủ sở hữu, người chiếm hữu
hợp pháp. Điều 166 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định quyền
đòi lại tài sản như sau: “Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối
với tài sản có quyền địi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử
dụng tài sản, người được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp
luật”. Tuy nhiên, đối với những tài sản đang được chiếm hữu bởi
chủ thể có quyền khác đối với tài sản thì chủ sở hữu khơng có
quyền địi lại tài sản (khoản 2 Điều 166).
1.1. Đặc điểm của phương thức kiện đòi lại tài sản
Một là, kiện đòi lại tài sản là biện pháp áp dụng trong
trường hợp chủ sở hữu, người có quyền khác đối với tài sản bị
mất quyền chiếm hữu đối với tài sản của mình, nghĩa là tài sản
đó đang nằm trong sự chiếm hữu của người khác.
Hai là, người bị kiện phải là người đang thực tế chiếm hữu
khơng có căn cứ pháp luật đối với tài sản. Đây là yếu tố rất
quan trọng vì tài sản chỉ có thể được trả lại khi người chiếm hữu
tài sản đó đang kiểm sốt tài sản mà mình khơng có thực
quyền.
Ba là, đối tượng của kiện địi lại tài sản phải là vật đang có
thực, đang cịn tồn tại trên thực tế.
1.2 Chủ thể của phương thức kiện đòi lại tài sản
Trong quan hệ kiện đòi tài sản, chủ thể bao gồm chủ thể
có quyền khởi kiện (nguyên đơn) và chủ thể bị khởi kiện (bị
đơn).

7


 Đối với nguyên đơn: Người kiện đòi lại tài sản phải là chủ
sở hữu và chủ thể có quyền khác đối với tài sản theo quy
định tại Điều 166 Bộ luật dân sự năm 2015.
- Chủ sở hữu tài sản: Để được coi là chủ sở hữu tài sản, tài
sản phải được xác lập trên các căn cứ do pháp luật quy định.
Tuy nhiên trên thực tế không phải chủ thể nào cũng có quyền
sở hữu đối với một số loại tài sản nhất định.
- Chủ thể có quyền khác đối với tài sản: Quyền khác đối với
tài sản được quy định tại Điều 159 Bộ luật dân sự 2015:
“1. Quyền khác đối với tài sản là quyền của chủ thể trực
tiếp nắm giữ, chi phối tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể
khác.
2. Quyền khác đối với tài sản bao gồm:
a) Quyền đối với bất động sản liền kề;
b) Quyền hưởng dụng;
c) Quyền bề mặt”.
Trong phương thức kiện này, về ngun tắc, người chiếm
hữu khơng có căn cứ pháp luật và khơng ngay tình phải trả lại
tài sản cho chủ sở hữu hoặc người có quyền khác với tài sản.
Khi lấy lại tài sản, chủ sở hữu, người có quyền khác với tài sản
khơng phải bồi thường một khoản tiền nào, trừ trường hợp người
chiếm hữu không ngay tình phải bỏ ra chi phí hợp lí để sửa chữa
tài sản, làm tăng giá trị tài sản.

 Đối với bị đơn: Theo quy định tại khoản 1 Điều 166 Bộ luật
dân sự năm 2015, người bị kiện có thể là một trong các chủ
thể: người chiếm hữu, sử dụng tài sản khơng có căn cứ pháp

luật, người được hưởng lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp
luật. Bị đơn trong vụ kiện đòi lại tài sản là người chiếm hữu
khơng có căn cứ pháp luật đối với tài sản, có thể là người đã
8


có hành vi trộm cắp tài sản hoặc nhặt được tài sản bị đánh
rơi, bỏ quên mà không khai báo, khơng giao nộp cho cơ quan
nhà nước có thẩm quyền theo luật định,…
1.3. Đối tượng của kiện đòi lại tài sản
Theo khoản 1 Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
“Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Tuy nhiên,
không phải tất cả những tài sản trên đều là đối tượng của kiện
đòi lại tài sản do phương thức này có những đặc thù riêng.
Vật: được coi là đối tượng của kiện đòi lại tài sản phải là
vật hữu hình, có thể cảm nhận bởi các giác quan trên thực tế.
Vật trong kiện địi tài sản chỉ bao gồm vật có thực và đang cịn
tồn tại trên thực tế (có thể là vẫn còn nguyên ở trạng thái ban
đầu hoặc về cơ bản vẫn còn nhưng đã bị giảm sút hoặc gia tăng
về giá trị). Nếu vật khơng cịn tồn tại thì khơng thể áp dụng biện
pháp kiện đòi tài sản.
Tiền: là đối tượng của kiện đòi lại tài sản khi chủ sở hữu
biết rõ số sêri của những tờ tiền đó mà hiện đang bị người khác
chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật. Đối với trường hợp tiền
đã được bao gói niêm phong mà bị người khác chiếm hữu trái
pháp luật và hiện số tiền đó vẫn cịn ngun bao gói thì việc
kiện địi lại tài sản ở đây là kiện địi lại tài sản là vật chứ khơng
phải kiện địi lại tiền.
Giấy tờ có giá chính là giấy tờ minh chứng cho quyền tài
sản vô danh, giá trị của giấy tờ chính là giá trị của quyền tài sản

mà nó minh chứng. Giấy tờ có giá là loại tài sản hữu hình, có
thể là đối tượng của quyền địi lại tài sản.
Quyền tài sản là loại tài sản vơ hình, do vậy không thể
thực hiện quyền chiếm hữu đối với loại tài sản này. Căn cứ vào

9


đặc điểm của phương thức kiện đòi lại tài sản thì quyền tài sản
khơng phải là đối tượng của phương thức này.
1.4. Các trường hợp kiện đòi lại tài sản
Thứ nhất, kiện địi tài sản là động sản khơng phải
đăng kí quyền sở hữu.
Do xuất phát từ sự đa dạng và phong phú của tài sản nên
rất cần có sự phân loại sao cho phù hợp. Khoản 2 Điều 105 Bộ
luật dân sự 2015 chia tài sản thành động sản và bất động sản
theo cách liệt kê. Tùy thuộc vào tính chất, giá trị tài sản cũng
như cơ chế pháp lý điều chỉnh mà động sản được chia thành
động sản phải đăng ký quyền sở hữu và động sản không phải
đăng ký quyền sở hữu.
Đối với tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì rất
khó để xác định tài sản đó thuộc về ai, nếu chúng khơng có các
dấu hiệu đặc biệt mà chỉ riêng chủ sở hữu vật đó mới có. Do đó,
khi tham gia các giao dịch dân sự, người thứ ba có thể nhận
được tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ
người khơng phải là chủ sở hữu đích thực, hoặc từ người khơng
có quyền định đoạt đối với tài sản mà khơng biết. Vì thế, việc
chiếm hữu của người thứ ba trong trường hợp này có thể là
chiếm hữu ngay tình hoặc khơng ngay tình.
Điều 167 Bộ luật dân sự năm 2015 điều chỉnh một cách hài

hòa quyền lợi của chủ sở hữu và người chiếm hữu ngay tình quy
định:“Chủ sở hữu có quyền địi lại động sản khơng phải đăng ký
quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp
người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thơng qua
hợp đồng khơng có đền bù với người khơng có quyền định đoạt
tài sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ
sở hữu có quyền địi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị
10


mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở
hữu”. Như vậy, trong các trường hợp tài sản do người lấy cắp,
lừa đảo,... chiếm giữ, hoặc do người chiếm hữu, sử dụng tài sản
theo ý chí của chủ sở hữu thì chủ sở hữu có quyền đòi lại là
đương nhiên. Tuy nhiên, đối với các trường hợp tài sản bị
chuyển giao cho người thứ ba mà người này khơng biết người
chuyển giao tài sản đó cho mình là người khơng có quyền định
đoạt tài sản, ở mức độ nhất định, họ được pháp luật bảo vệ.
Theo đó, chủ sở hữu có quyền kiện địi lại tài sản động sản
không phải đăng ký quyền sở hữu nếu đáp ứng được một trong
các điều kiện sau:
Một là, tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở
hữu rời khỏi chủ sở hữu ngồi ý chí của chủ sở hữu như tài sản
bị chiếm đoạt trái pháp luật như bị trộm cắp, cướp giật, lừa đảo,
tài sản bị đánh rơi, bỏ quên. Cho dù người thứ ba chiếm hữu
ngay tình và có được tài sản thơng qua hợp đồng có đền bù mà
tài sản đó rời khỏi chủ sở hữu trái với ý chí của họ thì chủ sở hữu
vẫn có quyền địi lại tài sản. Ví dụ, B trộm cắp xe máy của A, C
mua chiếc xe máy đó từ B. Trong trường hợp này, khi A kiện địi
lại tài sản thì C vẫn phải trả lại chiếc xe máy đó cho A mặc dù C

chiếm hữu ngay tình.
Hai là, người đang chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật có
được tài sản thơng qua một giao dịch khơng có đền bù. Hợp
đồng khơng có đền bù là hợp đồng mà chỉ một bên nhận được
lợi ích vật chất từ bên kia và khơng phải thanh tốn lại một lợi
ích vật chất tương ứng. Khi chủ sở hữu chuyển giao tài sản cho
người chiếm hữu hợp pháp thông qua một hợp đồng cho thuê,
mượn, cầm cố,.. sau đó người chiếm hữu hợp pháp định đoạt tài
sản đó cho người thứ ba ngay tình thơng qua hợp đồng không
11


có đền bù thì chủ sở hữu có quyền địi lại tài sản. Ví dụ, A cho B
mượn máy tính. B cho C máy tính đó. Trường hợp này, A có
quyền địi C trả lại máy tính, vì C có xe thông qua hợp đồng
tặng cho tài sản (không đền bù) từ B (người khơng có quyền
định đoạt tài sản).
Thứ hai, tài sản là động sản không phải

đăng ký

quyền sở hữu rời khỏi chủ sở hữu theo ý chí của chủ sở
hữu, người thứ ba chiếm hữu ngay tình thơng qua hợp
đồng có đền bù với người khơng có quyền định đoạt tài
sản.
Trường hợp này được hiểu là chủ sở hữu chuyển giao tài
sản cho người chiếm hữu hợp pháp thông qua hợp đồng cho
thuê, mượn, cầm cố, đặt cọc…Sau đó người này lại định đoạt tài
sản đó cho người thứ ba thơng qua hợp đồng có đền bù như hợp
đồng mua bán, trao đổi tài sản….mà không được sự đồng ý của

chủ sở hữu. Pháp luật quy định trong trường hợp này chủ sở hữu
khơng được quyền kiện địi lại tài sản, nhưng chủ sở hữu có
quyền kiện yêu cầu người đã giao kết hợp đồng với mình phải
bồi thường thiệt hại vì đây là trách nhiệm theo hợp đồng. Hay
nói cách khác, tranh chấp giữa chủ sở hữu với người đã giao kết
hợp đồng với chủ sở hữu sẽ được giải quyết theo quy định về
hợp đồng dân sự.
Người chiếm hữu được coi là ngay tình khi khơng biết và
khơng thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là khơng có căn cứ
pháp luật. Nếu người thứ ba chiếm hữu mà khơng ngay tình thì
chủ sở hữu vẫn được quyền kiện địi lại tài sản. Có hai cơ sở sau
đây để người chiếm hữu chứng minh được hành vi chiếm hữu
của mình là ngay tình: Một là, đây là loại tài sản mà pháp luật
không bắt buộc phải biết hành vi chiếm hữu của một người là
12


hợp pháp hay không. Hai là, việc chuyển giao tài sản được thực
hiện một cách công khai, minh bạch, tài sản được chuyển giao
đúng giá trị thực tế. Khi người thứ ba chứng minh được sự ngay
tình của mình và tài sản rời khỏi chủ sở hữu theo ý chí của chủ
sở hữu thì chủ sở hữu khơng địi lại tài sản đó được nữa.
Quy định này nhằm yêu cầu các chủ thể khi tham gia giao
dịch phải thận trọng hơn khi xác lập giao dịch. Do việc chiếm
hữu của người thứ ba là ngay tình và thơng qua hợp đồng có đề
bù nên họ được pháp luật bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, từ
đó tránh được sự thông đồng giữa chủ sở hữu và người chiếm
hữu hợp pháp để gây thiệt hại cho người thứ ba, góp phần bảo
đảm tính ổn định, thúc đẩy sự phát triển của các giao lưu dân
sự.

Thứ ba, kiện đòi lại tài sản là động sản phải đăng ký
quyền sở hữu và bất động sản.
Động sản phải đăng ký quyền sở hữu là các tài sản là động
sản mà Nhà nước quy định phải đăng ký quyền sở hữu. Các tài
sản này thường là các tài sản có ảnh hưởng đến trật tự an tồn
xã hội cần có sự quản lý của Nhà nước, hoặc những tài sản hạn
chế chủ thể có quyền sở hữu, hoặc những tài sản mà việc bảo
đảm quyền sở hữu sẽ gặp nhiều khó khăn nếu khơng thực hiện
việc đăng ký quyền sở hữu.
Theo khoản 1 Điều 107 Bộ luật dân sự năm 2015, bất động
sản bao gồm: “đất đai; nhà, cơng trình xây dựng gắn liền với
đất đai; tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, cơng trình xây
dựng; tài sản khác theo quy định của pháp luật”.
Đối với tài sản là động sản phải đăng ký quyền sở hữu và
bất động sản thì việc xác định ai là chủ sở hữu tương đối dễ
13


dàng vì về nguyên tắc, ai là người đứng tên trong giấy chứng
nhận quyền sở hữu thì người đó là chủ sở hữu. Vì vậy, khi tham
gia các giao dịch dân sự có tính chất chuyển dịch tài sản mà tài
sản được chuyển dịch là động sản phải đăng ký quyền sở hữu
hoặc bất động sản thì người nhận chuyển dịch cần kiểm tra
người chuyển dịch tài sản cho mình có phải là chủ sở hữu hay
người được chủ sở hữu ủy quyền hợp pháp khơng. Ngồi ra khi
hồn tất giao dịch, người nhận chuyển dịch còn phải tiến hành
các thủ tục sang tên theo quy định tại các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thì quyền sở hữu (hoặc quyền sử dụng) của họ mới
được nhà nước công nhận và bảo vệ.
Điều 168 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Chủ sở hữu

được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động
sản từ người chiếm hữu ngay tình, trừ trượng hợp được quy định
tại Khoản 2 Điều 133 Bộ luật này”. Trên thực tế, việc xác định
chiếm hữu ngay tình hay khơng ngay tình thực chất chỉ có giá
trị trong việc xác định nghĩa vụ hoàn trả hoa lợi, lợi tức phát
sinh trong quá trình chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật và
quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại của người chiếm
hữu ngay tình đối với người đã chuyển giao tài sản cho mình.
Thứ tư, tài sản là đối tượng của vụ kiện đã được xác
lập quyền sở hữu cho người chiếm hữu khơng có căn cứ
pháp luật nhưng ngay tình theo thời hiệu.
Điều 149 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định như sau:
“Thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn
đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện
do luật quy định.” Điều 236 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định
về thời hiệu hưởng quyền dân sự mà cụ thể là quyền được xác
lập quyền sở hữu đối với một tài sản khi đáp ứng được những
14


điều kiện nhất định: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản
khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, cơng khai
trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất
động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm
bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên
quan quy định khác”.
Khi quyền sở hữu của người chiếm hữu đã được xác lập thì
cũng đồng nghĩa với việc chấm dứt quyền sở hữu đối với người
có tài sản bị chiếm hữu. Do vậy, đối với trường hợp người chiếm
hữu, người được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật đã

được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu thì chủ sở hữu mất
quyền kiện địi lại tài sản. Hay nói cách khác, khi tài sản là đối
tượng của vụ kiện đòi lại tài sản đã được xác lập quyền sở hữu
theo thời hiệu thì chủ sở hữu khơng cịn quyền kiện địi lại tài
sản.
Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản chỉ được xác lập
quyền sở hữu theo thời hiệu khi thỏa mãn các điều kiện sau:
một là, việc chiếm hữu phải ngay tình (tức là người chiếm hữu
tài sản khơng biết hoặc khơng thể biết việc chiếm hữu tài sản
đó là khơng có căn cứ pháp luật; hai là, việc chiếm hữu tài sản
phải liên tục; ba là, việc chiếm hữu phải công khai; bốn là, việc
chiếm hữu phải được thực hiện trong khoảng thời gian là 10
năm kể từ ngày bắt đầu chiếm hữu đối với tài sản là động sản
và 30 năm kể từ này chiếm hữu đối với tài sản là bất động sản.
1.5. Thời hiệu kiện đòi lại tài sản
Khoản 3 Điều 150 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
“Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi
kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì
15


mất quyền khởi kiện”. Tuy nhiên, Bộ luật dân sự năm 2015 lại
khơng có quy định riêng về thời hiệu kiện đòi lại tài sản mà thời
hiệu kiện đòi lại tài sản được áp dụng theo quy định tại Bộ luật
Tố tụng dân sự. Cụ thể là tranh chấp về quyền sở hữu tài sản;
tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu
và tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp
luật về đất đai thì khơng áp dụng thời hiệu khởi kiện. Như vậy,
theo quy định trên thì kiện địi lại tài sản là trường hợp không áp

dụng thời hiệu khởi kiện. Do vậy, khi quyền sở hữu bị xâm
phạm, chủ sở hữu bị mất quyền chiếm hữu đối với tài sản của
mình thì chủ sở hữu có quyền kiện địi lại tài sản bất cứ lúc nào
mà không bị giới hạn về mặt thời gian, trừ trường hợp người
chiếm hữu đó đã được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản theo
thời hiệu.
1.6. Trường hợp khơng được kiện địi tài sản
Thứ nhất, tài sản là động sản phải đăng kí quyền sở
hữu hoặc bất động sản mà người chiếm hữu nhận được
thông qua bán đấu giá.
Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản cơng khai theo
phương thức trả giá lên, có từ hai người trở lên tham gia đấu giá
theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục được quy định tại Nghị định số
17/2010/NĐ/CP ngày 4 – 6 – 2010 của Chính phủ và Thơng tư số
23/2010/TT-BTP ngày 6 – 12 – 2010. Người thứ ba chiếm hữu
ngay tình nhận được tài sản thơng qua bán đấu giá là người đã
mua được tài sản bán đấu giá từ một cuộc bán đấu giá do tổ
chức bán đấu giá thực hiện mà không biết và không thể biết
được về nguồn gốc, tình trạng pháp lý của tài sản bán đấu giá
thì người mua được coi là chiếm hữu ngay tình.

16


Theo quy định này, người thứ ba ngay tình sẽ trở thành
chủ sở hữu của tài sản đã mua ngay cả trong trường hợp “có
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc sửa
đổi một phần hoặc hủy bỏ toàn bộ các quyết định liên quan đến
tài sản bán đấu giá do có vi phạm pháp luật trước khi tài sản
được đưa ra bán đấu giá” nhưng “trình tự, thủ tục bán đấu giá

tài sản đó bảo đảm tuân theo đầy đủ quy định của pháp luật”.
Ví dụ, A lấy cắp xe máy của B. A làm giấy tờ đăng ký xe giả rất
tinh vi mang tên A và đem xe đi bán đấu giá. Cuộc bán đấu giá
được tổ chức đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, C
mua được xe. B khơng có quyền kiện đòi xe từ C trong trường
hợp này.
Mặt khác, “trong trường hợp có quyết định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền về việc sửa đổi một phần hoặc hủy bỏ
toàn bộ các quyết định liên quan đến tài sản bán đấu giá do có
vi phạm pháp luật trước khi tài sản được đưa ra bán đấu giá” và
trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản đó có sự vi phạm thì người
thứ ba ngay tình sẽ khơng được xác lập quyền sở hữu đối với tài
sản đã mua dù khơng biết sự vi phạm về trình tự, thủ tục của tổ
chức bán đấu giá. Ví dụ, A lấy cắp xe ô tô của B. A làm giấy tờ
đăng ký xe giả rất tinh vi mang tên A và đem xe đi bán đấu giá.
Cuộc bán đấu giá vi phạm trình tự, thủ tục do pháp luật quy
định. C mua được xe. C không biết việc vi phạm trình tự, thủ tục
bán đấu giá. Như vậy, C khơng được xác lập quyền sở hữu đối
với tài sản đã mua và buộc phải trả lại tài sản cho tổ chức bán
đấu giá. Cịn B có thể kiện tổ chức bán đấu giá để đòi lại tài sản
theo quy định tại Khoản 2 Điều 48 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP
(đã được sửa đổi bởi Nghị định số 29/2014/NĐ-CP).

17


Thứ hai, tài sản là động sản phải đăng kí quyền sở
hữu hoặc bất động sản mà người chiếm hữu nhận được
thông qua giao dịch với người mà theo bản án, quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu

tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu
tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa.
Hủy bản án, quyết định dân sự là việc Tịa án khơng cơng
nhận giá trị pháp lý của bản án, quyết định dân sự, được tiến
hành khi Tòa án xét xử lại vụ án dân sự theo quy định của pháp
luật tố tụng dân sự. Sửa bản án, quyết định dân sự là việc Tòa
án thay đổi nội dung của bản án, quyết định dân sự nhằm bảo
đảm tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định.
Trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì bản án, quyết định
dân sự bị hủy, sửa trong các trường hợp quy định tại Điều 309,
310, 311, còn Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (sửa đổi, bổ sung
năm 2011) thì quy định tại Điều 299, 300, 309.
Điều kiện để người thứ ba chiếm hữu ngay tình khơng phải
trả lại tài sản cho chủ sở hữu được quy định tại Điều 168 Bộ luật
dân sự năm 2015 như sau: Người thiết lập giao dịch với người là
chủ sở hữu tài sản theo bản án, quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phải là người chiếm hữu ngay tình. Người
này khơng biết và khơng thể biết người thiết lập giao dịch với
mình khơng phải là chủ sở hữu tài sản. Giao dịch được thiết lập
giữa người thứ ba chiếm hữu ngay tình với người mà theo bản
án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở
hữu tài sản. Do bản án, quyết định bị hủy, sửa nên người thiết
lập giao dịch với người thứ ba ngay tình khơng cịn là chủ sở
hữu tài sản nữa. Trong các trường hợp này, lỗi thuộc về cơ quan
nhà nước có thẩm quyền trừ những trường hợp hủy bản án,
18


quyết định đã có hiệu lực pháp luật cịn hai bên thiết lập giao
dịch khơng có lỗi. Do vậy, cơ quan có lỗi phải chịu trách nhiệm

theo Điều 598 Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Phương thức kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt
hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện
quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản.
Chủ sở hữu có tồn quyền chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt tài sản của mình, có quyền khai thác lợi ích vật chất của
tài sản. Nói cách khác, “chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi
theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được trái với
quy định của luật, gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích
quốc gia, dân tộc, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác” (theo Điều 160 Bộ luật dân sự năm 2015). Như
vậy, Bộ luật dân sự đã tạo điều kiện để các chủ sở hữu, người
chiếm hữu hợp pháp được thực hiện quyền của mình, bảo vệ
các quyền lợi hợp pháp đó và cấm mọi hành vi cản trở trái pháp
luật.
Người khơng phải là chủ sở hữu cũng có quyền chiếm hữu,
sử dụng và định đoạt tài sản không thuộc quyền sở hữu của
mình theo thỏa thuận với chủ sở hữu tài sản đó hoặc theo quy
định của pháp luật. Để thực hiện các quyền năng hợp pháp này,
Bộ luật dân sự năm 2015 cho phép chủ sở hữu, người chiếm hữu
hợp pháp có quyền tự do bảo vệ, yêu cầu người có hành vi cản
trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó. Ngồi việc cơng
nhận các quyền nêu trên, Điều 169 Bộ luật dân sự năm 2015
còn quy định như sau: “Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền
chiếm hữu của mình, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có
quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải
chấm dứt hành vi đó; nếu khơng có sự chấm dứt tự nguyện thì
19



có quyền u cầu Tịa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác
buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm”.
Các điều kiện áp dụng kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm
dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền
sở hữu, quyền chiếm hữu:
Thứ nhất, chủ thể có quyền kiện phải là chủ sở hữu, chủ
thể có quyền khác đối với tài sản đang kiểm sốt tài sản và
đang bị người khác gây khó khăn, cản trở cho việc thực hiện các
quyền năng cụ thể.
Thứ hai, chủ thể bị kiện phải là người có hành vi trái pháp
luật, xâm phạm vào các quyền năng của chủ sở hữu, chủ thể có
quyền khác đối với tài sản.
Thứ ba, yêu cầu khởi kiện là ngăn chặn hoặc chấm dứt
hành vi trái pháp luật đang cản trở sở hữu hay chủ thể có quyền
khác đối với tài sản thực hiện các quyền năng cụ thể.
Phương thức kiện này nhằn bảo đảm để chủ sở hữu hoặc
người chiếm hữu hợp pháp được sử dụng và khai thác công
dụng của tài sản một cách bình thường.
3. Phương thức kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại (kiện
trái quyền)
Kiện đòi bồi thường thiệt hại về tài sản (kiện trái quyền) là
việc chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu Tịa án
buộc người có hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu phải bồi
thường thiệt hại cho mình. Điều 170 Bộ luật dân sự năm 2015
quy định: “Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có
quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản bồi thường thiệt hại”.

20




×