Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Một số vấn đề về quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.54 KB, 29 trang )

1
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1
A.Đặt vấn đề......................................................................................................................................................1
B. Nội dung........................................................................................................................................................1
I. Một số vấn đề về quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu.........................................................................1
A. Đặt vấn đề
Quyền sở hữu là một trong những loại quyền dân sự cơ bản được pháp luật
ghi nhận và bảo vệ. Bên cạnh việc ghi nhận các quyền của chủ sở hữu và người
chiếm hữu hợp pháp tài sản, pháp luật sở hữu còn ghi nhận các biện pháp pháp lý
để bảo vệ quyền sở hữu chống lại các hành vi xâm phạm. Bảo vệ quyền sở hữu là
biện pháp Nhà nước tác động bằng pháp luật tới hành vi xử sự của con người nhằm
thông qua đó bảo đảm cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp thực hiện quyền
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt của mình.
Ở Việt Nam, quyền sở hữu được bảo vệ thông qua nhiều biện pháp khác
nhau, do nhiều ngành luật điều chỉnh. Trong các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu,
biện pháp dân sự có ý nghĩa thực tế nhất vì nó khôi phục lại tình trạng ban đầu về
mặt vật chất cho chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp. Bảo vệ quyền sở hữu
bằng biện pháp dân sự là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp, Tòa án hoặc
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm
quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản
trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi
thường thiệt hại.
B. Nội dung
I. Một số vấn đề về quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu
1. Quyền sở hữu:
Điều 164 BLDS quy định:
1
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1
“ Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài
sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.
Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền chiếm


hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản”.
Như vậy, BLDS đã đưa ra một định nghĩa về quyền sở hữu bằng cách liệt kê
những nội dung của quyền sở hữu và chủ thể của quyền này. Đây có thể xem là
một phương pháp lập pháp rất riêng của Việt Nam, vì luật dân sự của các nước trên
thế giới, họ không đưa ra khái niệm về quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự, mà khái
niệm này chỉ tồn tại trong khoa học luật.
 Quyền chiếm hữu:
Theo cách hiểu thông thường nhất thì chiếm hữu là sự nắm giữ, chi phối vật
về mặt thực tế. Điều 182 BLDS quy định: “ Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ,
quản lý tài sản”.
Như vậy, BLDS đã coi chiếm hữu là một quyền năng, là một trong ba bộ
phận cấu thành quyền sở hữu. Liên quan đến vấn đề này, ở Việt Nam hiện nay
đang còn nhiều tranh luận. Tựu trung lại có hai quan điểm phổ biến sau:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng quyền sở hữu chỉ bao gồm hai nội dung:
quyền sử dụng và quyền định đoạt. Còn chiếm hữu thực ra là một tình trạng chứ
không phải là một quyền năng. Chiếm hữu là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của
quyền sở hữu. Đây cũng là quan điểm trong luật dân sự của đa số các nước trên thế
giới như Đức, Pháp, Nhật Bản…
- Quan điểm thứ hai cho rằng cách quy định như Điều 173 BLDS hiện nay là
hoàn toàn hợp lý. Những người theo quan điểm này lý giải chiếm hữu là sự nắm
giữ vật, tuy nhiên do sự phát triển của khoa học kỹ thuật mà hiện nay có những vật
1
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1
không thể nắm giữ được (như năng lượng, sóng truyền hình…). Vấn đề chiếm hữu
đã có từ thời nguyên thuỷ, từ khi chưa có pháp luật thì loài người đã chiếm hữu
những vật sẵn có trong thiên nhiên. Khi có pháp luật rồi thì mới phát sinh khái
niệm quyền chiếm hữu. Muốn chứng minh mình là chủ sở hữu thì tuỳ từng trường
hợp: đối với bất động sản phải dựa vào việc đăng ký tài sản, còn đối với động sản
thì bản thân sự chiếm hữu cũng là một cách thức để chứng minh. Không nên để
‘‘tình trạng chiếm hữu’’ như là khi xã hội chưa có luật pháp.

Tranh luận chiếm hữu là một tình trạng hay là một quyền sẽ có nguy cơ sa
vào tranh luận về mặt học thuật. Vấn đề có ý nghĩa đặt ra là: cách quy định chiếm
hữu là một bộ phận của quyền sở hữu như BLDS có ích lợi gì không? Dù chiếm
hữu là một tình trạng hay một quyền thì vẫn cần phải có những quy định để bảo vệ
sự chiếm hữu đó. Có nghĩa là để đảm bảo sự ổn định của các quan hệ pháp luật dân
sự thì nên công nhận tình trạng chiếm hữu thực tế. Nếu không ta sẽ phải chứng
minh tình trạng sở hữu tuyệt đối – một điều rất khó thực hiện và nhiều khi làm đảo
lộn, thậm chí làm đảo lộn các quan hệ pháp luật dân sự. Qua tìm hiểu pháp luật của
các nước trên thế giới (Pháp, Đức, Nhật Bản, Trung Quốc…) chúng ta thấy các
nước đều quy định theo hướng đó và do vậy, các quy định về chiếm hữu là một chế
định riêng so tách khỏi chế định sở hữu.
 Quyền sử dụng:
Điều 192 BLDS quy định: “Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng,
hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản”.
Nói một cách dễ hiểu thì quyền sử dụng là quyền khai thác những lợi ích mang
lại từ tài sản.
 Quyền định đoạt:
1
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1
Điều 195 BLDS quy định: “Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở
hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó”.
Quyền định đoạt có thể thực hiện bằng hai cách: quyết định về mặt thực tế
hoặc quyết định về mặt pháp lý của tài sản.
2. Bảo vệ quyền sở hữu:
Quyền sở hữu là một trong các quyền cơ bản, quan trọng nhất của công dân,
nên pháp luật của bất kỳ quốc gia nào cũng đều có những quy định để bảo vệ
quyền sở hữu. Điều 58 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế
của công dân”.
Theo lý luận truyền thống của luật dân sự thì bảo vệ quyền sở hữu được hiểu

là những biện pháp trong khuôn khổ pháp luật tác động đến hành vi xử sự của con
người, nhằm phòng ngừa, ngăn chặn những hành vi xâm hại đến quyền sở hữu,
khắc phục những thiệt hại vật chất cho chủ sở hữu. Còn phương thức bảo vệ quyền
sở hữu là cách thức mà Nhà nước và chủ sở hữu sử dụng để bảo vệ chủ sở hữu
khỏi những hành vi xâm hại đến quyền sở hữu, khắc phục những thiệt hại vật chất
cho chủ sở hữu. Quyền sở hữu được bảo vệ bằng các biện pháp hình sự, hành
chính hay dân sự.
BLDS năm 2005 đã dành hẳn Chương XV (Phần thứ hai), bao gồm 7 điều từ
Điều 255 đến Điều 261 để quy định về bảo vệ quyền sở hữu. Ngoài ra, quy định về
bảo vệ quyền sở hữu còn nằm rải rác ở một số điều khác, theo đó, chủ sở hữu có
quyền bảo vệ quyền sở hữu thông qua các phương thức sau :
- Tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu;
1
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1
- Yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở
hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp phải chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường thiệt
hại;
- Yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi
xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi
cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi
thường thiệt hại.
II. Các phương thức bảo vệ quyền sở hữu trong Bộ luật Dân sự
1.Chủ sở hữu tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu, quyền
chiếm hữu hợp pháp
Tự bảo vệ quyền sở hữu là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp tài
sản tự mình tiến hành các biện pháp trong khuôn khổ pháp luật nhằm bảo vệ quyền
sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình.
Biện pháp tự bảo vệ cho phép chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp được
áp dụng các biện pháp nhất định để ngăn cản bất kỳ người nào có hành vi xâm
phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp, truy tìm, đòi lại tài sản bị người

khác chiếm hữu, sử dụng không có căn cứ pháp luật, bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của họ. Hành vi xâm phạm trước tiên làm phát sinh quan hệ giữa chủ thể quyền và
người xâm phạm. Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp hơn ai hết là người biết
rõ mức độ và hậu quả của hành vi xâm phạm. Việc tự bảo vệ gắn liền với quyền lợi
thiết thân của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp. Vì vậy, tự bảo vệ cũng chính
1
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1
là việc thực hiện hành vi bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, người
chiếm hữu hợp pháp.
Như chúng ta đã biết, đặc trưng lớn nhất của quyền dân sự là nguyên tắc tự
định đoạt. Cũng chính vì lý do này mà luật dân sự được xếp vào luật tư ở những
nước có sự phân biệt hệ thống pháp luật thành luật công và luật tư. Theo BLDS thì
chủ sở hữu có quyền tự thực hiện các biện pháp để bảo vệ quyền sở hữu, quyền
chiếm hữu hợp pháp của chính mình. Ví dụ: chủ sở hữu nhà ở xây tường bao xung
quanh nhà của mình để bảo vệ nhà của mình khỏi bị xâm phạm từ bên ngoài, chủ
vườn cây ăn quả rào vườn và thuê người bảo vệ, trông nom vườn cây của mình…
Quyền của chủ sở hữu tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu,
quyền chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản của mình không phải là tuyệt đối, mà có
giới hạn của nó. Giới hạn đó chính là “ không được xâm phạm đến lợi ích công
cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác ”. Các hành vi như: giăng dây điện
quanh ao cá, vườn cây để chống trộm, làm hố chông quanh gốc cây ăn quả … dẫn
đến làm người khác bị chết (kể cả kẻ trộm), đều bị coi là hành vi trái pháp luật,
phải bồi thường thiệt hại và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu đủ các yếu
tố cấu thành tội phạm.
Việc tự bảo vệ là một yêu cầu cần thiết trong mọi phương thức bảo vệ quyền
sở hữu. Dù tự bảo vệ hay yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ, chủ sở
hữu, người chiếm hữu hợp pháp luôn đóng vai trò quan trọng trong quá trình bảo
vệ. Khi yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ, chủ sở hữu, người chiếm
hữu hợp pháp phải cung cấp các chứng cứ, tài liệu là cơ sở để giải quyết. Các biện
pháp bảo vệ quyền sở hữu chỉ được thực hiện có hiệu quả nếu chủ thể thực sự tự

bảo vệ một cách tích cực. Nói một cách khác, chủ sở hữu, người chiếm hữu không
1
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1
chỉ thể hiện vai trò chủ động của mình trong việc tự bảo vệ mà ngay cả khi có sự
hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Việc tự bảo vệ là biện pháp thể hiện tính định đoạt cao độ của chủ thể: Khi
phát hiện ra hành vi xâm phạm quyền, lợi ích chính đáng của mình, chủ sở hữu,
người chiếm hữu hợp pháp có quyền chủ động lựa chọn cách thức bảo vệ phù hợp
như: yêu cầu người xâm phạm chấm dứt hành vi xâm phạm, yêu cầu người chiếm
hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản hoặc bồi thường thiệt hại. Chủ thể có quyền
chủ động thương lượng, hòa giải bất cứ lúc nào trong quá trình giải quyết tranh
chấp.
Về cách thức : Biện pháp tự bảo vệ có thể tiến hành dưới bất kỳ cách thức
nào, miễn là không trái pháp luật và đạo đức xã hội, trong khi việc khởi kiện hoặc
yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết phải tuân thủ theo những điều
kiện, trình tự, thủ tục nhất định như: điều kiện về chủ thể khởi kiện, thẩm quyền
giải quyết, hình thức tiến hành…
Về tính kinh tế : Biện pháp tự bảo vệ là biện pháp có tính kinh tế cao nhất do
tiết kiệm được thời gian, chi phí tốn kém cho việc giải quyết tranh chấp. Trong khi
việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp khởi kiện không chỉ tốn kém về thời
gian cho việc giải quyết theo trình tự tố tụng mà còn tốn kém chi phí cho việc tham
gia tố tụng, chi phí giám định.
Hiệu quả bảo vệ : Biện pháp tự bảo vệ là biện pháp mang tính kịp thời, tạo
khả năng ngăn chặn hành vi xâm phạm ngay từ đầu. Ngay khi phát hiện ra có hành
vi xâm phạm hoặc khả năng xâm phạm, chủ thể có thể áp dụng ngay lập tức mà
không cần chờ bất kỳ một thủ tục nào. Đặc điểm này cũng phần nào tránh được vụ
việc xâm phạm trở nên nghiêm trọng hơn. Biện pháp tự bảo vệ bên cạnh những ưu
điểm về hiệu quả bảo vệ như: nhanh chóng, kịp thời, một hạn chế lớn nhất của biện
1
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1

pháp này là hiệu quả bảo vệ không cao do không được bảo đảm bằng tính cưỡng
chế nhà nước. Yêu cầu của chủ thể không được bảo đảm bằng cơ chế mang tính
quyền lực Nhà nước mà hoàn toàn trông chờ, phụ thuộc vào sự tự nguyện và thiện
chí của bên xâm phạm. Do vậy, nếu bên xâm phạm không tự nguyện, thiện chí
chấm dứt hành vi xâm phạm, khắc phục hậu quả đã gây ra thì biện pháp này không
mang lại hiệu quả.
Các hành vi tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp trong thực
tế rất đa dạng. Hiệu quả của các biện pháp này đến đâu phụ thuộc vào chính khả
năng của bản thân chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp. Vấn đề đặt ra là khi chủ
sở hữu không có năng lực hành vi dân sự để có thể tự mình bảo vệ quyền sở hữu,
quyền chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản, thì pháp luật dự liệu như thế nào ?
BLDS Việt Nam đã có một cơ chế để xử lý vấn đề này, đó chính là chế định giám
hộ. Theo Điều 65 BLDS, người giám hộ có nghĩa vụ:
“1. Chăm sóc, giáo dục người được giám hộ;
2. Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp
pháp luật quy định người chưa đủ mười lăm tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự;
3. Quản lý tài sản của người được giám hộ;
4. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ”.
Tất nhiên, bù lại, người giám hộ sẽ được thanh toán các chi phí cần thiết cho
việc quản lý, bảo vệ tài sản của người được giám. Nếu người giám hộ có hành vi vi
phạm pháp luật (như lợi dụng việc giám hộ để chiếm đoạt tài sản của người được
giám hộ), thì phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Trong trường hợp này,
1
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1
việc giám hộ bị chấm dứt để thay thế bằng một quan hệ giám hộ mới, với mục đích
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
Một biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu rất có hiệu quả của chủ sở hữu là biện
pháp đăng ký quyền sở hữu. Cơ sở pháp lý của quyền này là Điều 167 - BLDS.
Tuy nhiên, để xác định những loại tài sản nào phải đăng ký thì không chỉ dựa vào

Bộ luật dân sự mà còn dựa vào các văn bản pháp luật chuyên ngành (Bộ luật Hàng
hải, Luật Đất đai, Luật Hàng không dân dụng…). Thông thường, tài sản đó là nhà
ở, quyền sử dụng đất, ô tô, xe máy, tàu thuỷ, thuyền, máy bay… Việc đăng ký tài
sản rất có ý nghĩa, vì trong các hợp đồng dân sự đòi hỏi phải đăng ký, nó là thời
điểm hoàn tất việc chuyển giao quyền sở hữu, đồng thời là cũng là thời điểm để
chủ sở hữu có thực hiện quyền của mình với người thứ ba khi tài sản có tranh chấp.
Tuy nhiên, cũng phải nói rằng việc đăng ký tài sản ở Việt Nam hiện nay được thực
hiện chưa nghiêm túc. Nguyên nhân là do thủ tục hành chính còn rườm rà, lệ phí
cao so với mức sống trung bình của người dân, song nguyên nhân chủ yếu là do ý
thức chấp hành pháp luật của người dân còn chưa tốt. Đây là một thực tế gây rất
nhiều khó khăn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi có
tranh chấp xảy ra.
Trên thực tế, biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp
của mình là biện pháp diễn ra phổ biến nhất và cũng có hiệu quả nhất. Người Việt
Nam có truyền thống “ dĩ hòa vi quý ”, kiện nhau ra Toà cũng chỉ là trường hợp bất
đắc dĩ. Tuy nhiên, với sự phát triển của cơ chế thị trường, trong những năm gần
đây, các hành vi vi phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp bắt đầu có xu
hướng tăng. Trong những trường hợp này, biện pháp tự bảo vệ xem ra không còn
phát huy tác dụng, và chủ sở hữu phải sử dụng đến các biện pháp khác để có thể
bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
1
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1
2. Chủ sở hữu yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực
hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp phải chấm dứt hành vi vi phạm,
bồi thường thiệt hại:
Ví dụ 1: A là chủ sở hữu của một căn nhà. B là hàng xóm của A, trong khi
đào móng làm nhà, đã đào sát tường nhà A, làm sụt và nứt tường của nhà A.
Ví dụ 2: C là chủ sở hữu một căn nhà. D là hàng xóm của C đã để ống thoát
nước mưa của nhà mình chảy dội sang nhà C, làm ngấm tường của nhà C. Trong
một lần mưa to, lượng nước mưa chảy xuống nhiều đã làm hư hỏng bức tranh quý

của nhà C treo trên tường.
Các ví dụ trên xảy ra rất phổ biến trong thực tế. Trong các trường hợp trên,
A và C với tư cách là chủ sở hữu có quyền gì đối với B và D không? Theo các quy
định của BLDS Việt Nam, thì A và C, với tư cách là chủ sở hữu có quyền và lợi
ích hợp pháp bị xâm phạm, có quyền yêu cầu B và D – những người có hành vi cản
trở việc thực hiện quyền sở hữu của mình – phải chấm dứt hành vi vi phạm. Tức là
A có quyền yêu cầu B phải ngừng việc đào móng sát tường nhà của mình để tìm
biện pháp khác; C có quyền yêu cầu D phải dẫn nước thoát theo đường ống khác
để nước không chảy và ngấm sang tường nhà mình.
Tuy nhiên, tường nhà của A đã bị sụt và nứt, bức tranh quý của nhà C đã bị
hư hỏng. A và C có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo cách thức và mức do
hai bên thoả thuận.
Đây chính là cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trên thực tế thường thông qua con
đường các bên tự thỏa thuận. Như đã nói ở trên, xuất phát từ nguyên tắc tự định
đoạt, nên các bên hoàn toàn có quyền tự bàn bạc, thu xếp với nhau mà không cần
thông qua các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Cơ chế này tỏ ra rất hữu hiệu
trong rất nhiều trường hợp, vì nó có những lợi ích cơ bản sau đây:
1
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1
- Thứ nhất, các bên không phải mất thời gian, chi phí để khởi kiện tại Toà án
hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền;
- Thứ hai, xét về mặt tình cảm, như đã nói ở trên, với truyền thống “ dĩ hòa
vi quý ” của người Việt Nam, thì phương thức tự dàn xếp này nếu thành công sẽ
giữ gìn được mối quan hệ tình cảm tốt đẹp giữa các bên, duy trì được tình làng
nghĩa xóm;
- Thứ ba, nếu dàn xếp được, thì thông thường là các bên sẽ tự nguyện chấm
dứt hành vi vi phạm, khắc phục và bồi thường thiệt hại, khỏi phải thông qua cơ chế
thi hành bản án, quyết định dân sự - một vấn đề rất nhức nhối hiện nay khi các bản
án, quyết định dân sự còn tồn đọng, không được thi hành trên thực tế còn đang
chiếm một tỷ lệ rất lớn;

- Thứ tư, có một thực tế ở Việt Nam hiện nay là nhiều vụ án hình sự ( giết
người, cố ý gây thương tích, cố ý huỷ hoại tài sản…) có nguồn gốc từ các tranh
chấp dân sự. Nếu hoà giải thành thì có thể tránh được những trường hợp đau lòng,
gây thiệt hại cho các bên và cho xã hội.
Rõ ràng, cơ chế trên vừa đem lại lợi ích cho các bên cũng như cho Nhà
nước. Nhận thức được những lợi ích này, Nhà nước ta đã thiết lập cả một thể chế,
thiết chế về hoà giải. Về thể chế, đó là Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải
ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn thi hành. Về thiết chế, đó là các Tổ hoà giải ở cơ
sở ( xóm, thôn, tổ dân phố ) dưới sự quản lý và hướng dẫn về chuyên môn nghiệp
vụ của Ban Tư pháp xã phường và Uỷ ban mặt trận Tổ quốc cùng cấp. Đây chính
là một trong những điểm ưu việt của pháp luật Việt Nam, được quốc tế đánh giá
cao.
Cũng giống như biện pháp chủ sở hữu tự mình thực hiện hành vi bảo vệ
quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp, biện pháp tự dàn xếp này cũng có giới

×