Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Luận văn thạc sĩ đảng lãnh đạo xây dựng tổ chức và hoạt động của hội liên hiệp phụ nữ việt nam từ năm 1986 đến năm 1996

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 125 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

---*---

TRƯƠNG THỊ THỦY

ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM
TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 1996

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI – 2012

z


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

---*---

TRƯƠNG THỊ THỦY

ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM
TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 1996

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số:



60 22 56

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Vũ Quang Hiển

Hà Nội - 2012

2

z


LỜI CAM ĐOAN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, dưới sự hướng dẫn của PGS.
TS.Vũ Quang Hiển, tôi đã hoàn thành luận văn thạc sĩ với đề tài “Đảng lãnh đạo
xây dựng tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam từ năm 1986
đến năm 1996”.
Tôi xin cam đoan luận văn là kết quả nghiên cứu nghiêm túc và khoa học của
bản thân tôi; được dựa trên cơ sở nguồn tài liệu đáng tin cậy là các văn kiện của
Đảng Cộng sản Việt Nam, các báo cáo hằng năm, báo cáo sơ kết, tổng kết của Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và có tham khảo nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học
có liên quan.
Tôi cũng xin cam đoan luận văn thạc sĩ này chưa được cơng bố, khơng trùng
lắp với cơng trình khoa học nào.
Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2012
Học viên

Trương Thị Thủy


3

z


BẢNG VIẾT TẮT

AIDS

: Acquired Immune Deficiency Syndrome;
Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải

ASEAN

: Association of Southeast Asian Nations;
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á

CEDAW

: Convention on the Elimination of all Forms of Discrimination
against Women;
Công ước loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ

LHPN

: Liên hiệp Phụ nữ

UNFPA


: United Nations Population Fund;
Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc

UNICEF

: United Nations Children's Fund;
Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc

UNIFEM

: United Nations Development Fund for Women;
Quỹ Phát triển Phụ nữ của Liên Hiệp Quốc

VAC

: Vườn - Ao - Chuồng

4

z


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………………..............................

2

Chương 1. LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI
10
TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 1991…………………………………………………….

1.1. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng ………………………......................

10

1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử………………………………………………………………………

10

1.1.2. Chủ trương của Đảng…………………………………………………………………

13

1.2. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam hiện thực hóa chủ trương của
22
Đảng…..………………………………………………………………………………..
1.2.1. Xây dựng tổ chức Hội ………………………………………………………………….

22

1.2.2. Hoạt động của Hội ……………………………………………………………………..

30

Chương 2. TĂNG CƯỜNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT
43
ĐỘNG CỦA HỘI TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 1996………………..………………
2.1. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trương mới của Đảng………………………………….

43


2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử………………………………………………………………………. 43
2.1.2. Chủ trương mới của Đảng……………………………………………………………..

45

2.2. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thực hiện chủ trương mới của
56
Đảng….………………………………………………………………………………...
2.2.1. Xây dựng tổ chức Hội …………………………………………………………………

56

2.2.2. Hoạt động của Hội ……………………………………………………………………

63

Chương 3. NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM………………………......................

77

3.1. Nhận xét…………………………………………………………………………..

77

3.1.1. Ưu điểm…………………………………………………………………………………..

77

3.1.2. Hạn chế ………………………………………………………………………………….


83

3.2. Một số kinh nghiệm….…………………………………………….......................

87

KẾT LUẬN……………………………………………………………......................

91

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………

94

PHỤ LỤC………………………………………………………..................................

100

5

z


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phụ nữ Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước và cách mạng, đã có những
đóng góp to lớn trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc;
ngày nay đang tiếp tục phát huy vai trị, vị trí quan trọng trong cơng cuộc đổi mới,
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Chiếm trên 50% dân số và hơn 48% lực lượng lao động xã hội, có mặt trong

mọi ngành nghề, trên mọi địa bàn, các tầng lớp phụ nữ Việt Nam với đức tính cần
cù, sáng tạo, chịu thương, chịu khó, đã và đang vượt qua mọi khó khăn, nỗ lực trong
học tập, lao động và cơng tác, tham gia tích cực vào quá trình hoạch định và thực
hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đạt
nhiều thành tích xuất sắc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Những đóng góp bền bỉ, thầm lặng của các thế hệ phụ nữ ngày càng tô đậm
thêm truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam anh hùng, bất khuất, trung hậu,
đảm đang, và tiếp tục khẳng định lời dạy của Bác Hồ "Non sông gấm vóc Việt Nam,
do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ".
Khi bước vào công cuộc đổi mới, bằng sự nỗ lực lớn lao, phụ nữ Việt Nam
đã có những đóng góp vẻ vang cùng toàn Đảng, toàn dân giữ vững ổn định chính
trị, phát triển kinh tế - xã hội, tạo tiền đề vững chắc đưa đất nước chuyển sang thời
kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam ngay từ khi ra đời đã thấu hiểu nguyện vọng
của người phụ nữ. Các chương trình hoạt động của Hội luôn xuất phát từ yêu cầu
của Đất nước, từ nguyện vọng của phụ nữ. Tấm lịng vì sự nghiệp chung của hệ
thống cán bộ phụ nữ được truyền nối từ nhiều thế hệ, đã tạo một sức mạnh to lớn.
Trong 10 năm đổi mới (1986-1996), dưới sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Hội LHPN Việt Nam đã luôn luôn tự đổi mới về nội dung và phương thức hoạt

6

z


động, trung thành với sứ mệnh cao cả là người bạn gần gũi với các tầng lớp phụ nữ,
thu hút đại bộ phận phụ nữ Việt Nam đứng trong tổ chức. Hội đã chăm lo quyền lợi
mọi mặt của phụ nữ Việt Nam, nâng cao vai trị và vị trí của phụ nữ trong xã hội và
gia đình; đồng thời liên kết các tầng lớp phụ nữ Việt Nam thành một sức mạnh, góp

phần đưa xã hội Việt Nam tiến lên theo định hướng của Đảng. Sự chuyển động
chung của giới phụ nữ Việt Nam trong 10 năm đổi mới là một lực lượng thống nhất,
trong đó Hội LHPN Việt Nam ln đứng ở vị trí chủ đạo.
Hội LHPN Việt Nam đã và đang đóng vai trị ngày càng quan trọng trong xã
hội. Hội tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ vào tổ chức, thực hiện tốt quyền tự do
hội họp, góp phần thực hiện khối đại đồn kết dân tộc, đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của giới nữ tham gia vào giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra. Tổ chức Hội phụ
nữ là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và phụ nữ, nơi thể hiện quyền làm chủ của giới
phụ nữ, là nơi truyền đạt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; đồng thời
là kênh phản ánh tiếng nói, là diễn đàn của chị em bày tỏ suy nghĩ, quan điểm trong
khuôn khổ pháp luật với Đảng và Nhà nước để các cơ chế, chính sách sát với thực
tế cũng như nâng cao phẩm chất của cán bộ, công chức của Nhà nước trong thực thi
công việc và tổ chức bộ máy cho phù hợp. Tổ chức Hội phụ nữ là lực lượng đối ngoại
nhân dân quan trọng trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, thơng qua đó làm cho các
nước hiểu Việt Nam hơn để tăng cường sự hiểu biết, hợp tác cũng như tranh thủ nguồn
lực phát triển đất nước. Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng
với nền kinh tế thế giới, Hội phụ nữ ngày càng có vai trị quan trọng trong việc đấu tranh
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của hội viên trong tranh chấp thương mại trong nước và quốc
tế. Ngày nay, các cấp Hội phụ nữ đã thực sự hỗ trợ cho nền kinh tế thị trường phát
triển và khoả lấp các khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường thông qua sự trợ giúp
về thông tin, tuyên truyền kinh nghiệm quản lý, kỹ thuật, đóng góp ý kiến nhằm
thúc đẩy sự ra đời của cơ chế, chính sách cho phù hợp với thực tiễn cũng như thúc
đẩy sự ra đời và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Mặt khác, các cấp Hội phụ nữ
cũng đã cung ứng nhiều dịch vụ cho hội viên, cho xã hội thông qua việc tổ chức các

7

z



dịch vụ tới vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn mà các tổ chức vì lợi nhuận
khơng muốn triển khai, Nhà nước chưa đủ điều kiện để với tới; đồng thời, Hội cùng
Nhà nước thực hiện tốt công tác xã hội hoá về giáo dục, y tế, văn hoá, khoa học, thể
dục thể thao.
Như vậy, Hội LHPN Việt Nam ngày càng thích ứng với nền kinh tế thị
trường của đất nước, có xu hướng ngày càng phát triển và hoạt động ngày càng có
hiệu quả trên nhiều lĩnh vực của đời sồng xã hội, có vai trị ngày càng quan trọng,
có đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, các hoạt động Hội mang đậm tính chính trị - xã hội, các cấp Hội
ngày càng chủ động tham gia tích cực trong sự nghiệp phát triển đất nước, thực hiện
công tác vận động quần chúng của Đảng và đã phản ánh được với Đảng, Nhà nước
tâm tư, nguyện vọng của chị em phụ nữ; tham gia vào cơng tác xây dựng chủ
trương, chính sách, của Đảng, Nhà nước. Đảng, Quốc hội, Chính phủ đánh giá cao
sự trưởng thành và đóng góp to lớn của Hội LHPN Việt Nam, song việc thực hiện
chức năng giám sát, phản biện xã hội của Hội còn hạn chế nhất định.
Trên cơ sở những nhận thức đó, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Đảng lãnh đạo
xây dựng tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam từ năm
1986 đến năm 1996” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Đề tài “Đảng lãnh đạo xây dựng và tổ chức Hội LHPN Việt Nam từ năm
1986 đến năm 1996” là sự kế thừa một số cơng trình khoa học nổi bật đã được cơng
bố. Cụ thể như sau:
- Cơng trình nghiên cứu khoa học năm 2006 về “Đổi mới các quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị ở Việt
Nam” do GS. TS Lê Hữu Nghĩa làm chủ nhiệm đề tài. Cơng trình đi sâu phân tích
sự thay đổi nhận thức của Đảng, Nhà nước trong mối quan hệ với các tổ chức chính
trị - xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng đối với riêng Hội LHPN chỉ được đề cập lướt
qua, không trình bày cụ thể.

8


z


- Cơng trình khoa học năm 2002 về “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị đáp ứng các
yêu cầu xây dựng và phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” do TS. Thang
Văn Phúc làm chủ nhiệm đề tài. Cơng trình tập trung làm rõ sự đổi mới về tổ chức
và hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể trong điều kiện phát triển nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa. Sự đổi mới về tổ chức và hoạt động của Hội LHPN Việt Nam mới
chỉ được đề cập một cách chung chung, không chuyên sâu (phần viết riêng về Hội
chiếm dung lượng khơng lớn so với tồn bộ nội dung cơng trình) và chủ yếu đi vào
khía cạnh dân chủ đại diện của tổ chức Hội.
- Cơng trình khoa học năm 2009 về “Đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong thời kỳ mới” do TS.
Đỗ Quang Tuấn làm chủ nhiệm đề tài. Cơng trình nhấn mạnh về phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Mặt trận và các đoàn thể từ sau Đổi mới (1986). Tuy nhiên,
sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội LHPN Việt Nam chỉ là một phần nhỏ trong phạm
vi nghiên cứu của cơng trình.
- Cơng trình khoa học kéo dài 5 năm từ 1991 đến 1995 về “Vị trí, tính chất
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, tổ chức xã hội trong hệ thống chính
trị thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” do TS. Nguyễn Viết Vượng làm
chủ nhiệm đề tài. Công trình là sự khẳng định vai trị, vị trí quan trọng của Mặt trận
và các đoàn thể trong điều kiện đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự lãnh đạo
của Đảng đối với Hội LHPN chỉ được đề cập một cách khái quát, không đi sâu
nghiên cứu.
- Công trình nghiên cứu năm 2012 về “Thực trạng và đề xuất giải pháp đổi
mới nội dung và phương thức hoạt động của Hội LHPN Việt Nam” do nhóm tác giả
thuộc Trung ương Hội LHPN Việt Nam làm chủ nhiệm đề tài. Cơng trình tập trung
nghiên cứu và làm rõ về thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội LHPN. Cơng trình

chưa làm nổi bật được vai trị Đảng lãnh đạo xây dựng tổ chức và hoạt động của
Hội. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội mới được đề cập trong phần cơ sở lý luận.

9

z


Với mong muốn làm nổi bật vai trò lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và
hoạt động của Hội LHPN Việt Nam những năm 1986-1996, đồng thời tạo nên một
cơng trình chun khảo, có ý nghĩa, tác giả đã lựa chọn “Đảng lãnh đạo xây dựng tổ
chức và hoạt động của Hội LHPN Việt Nam từ năm 1986 đến năm 1996” làm đề tài
luận văn thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Làm rõ sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng tổ chức và hoạt
động của Hội LHPN Việt Nam; làm rõ vai trò, chức năng của Hội LHPN Việt Nam;
xác định được vị trí, nhiệm vụ của Đảng và tổ chức Hội trong công tác vận động
phụ nữ.
- Làm rõ kết quả sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng tổ chức và
hoạt động của Hội LHPN Việt Nam trong 10 năm đầu đổi mới (1986-1996). Từ đó,
rút ra một số kinh nghiệm lịch sử về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Hội
LHPN Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các văn bản, chủ trương của Đảng về công tác phụ vận trong
10 năm đầu đổi mới, từ đó rút ra những nhận xét và kinh nghiệm trong công tác vận
động phụ nữ của Đảng thông qua tổ chức Hội LHPN Việt Nam.
- Trình bày và phân tích q trình chỉ đạo thực hiện xây dựng tổ chức và hoạt
động của Hội LHPN Việt Nam gắn liền với hoàn cảnh lịch sử và định hướng của
Đảng trong những năm 1986-1996. Từ đó, đưa ra những đánh giá, nhận xét có căn

cứ về ưu điểm, hạn chế trong công tác vận động phụ nữ của Đảng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

10

z


- Chủ trương, biện pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh
đạo Hội LHPN Việt Nam về xây dựng tổ chức và hoạt động.
- Quá trình Hội LHPN Việt Nam triển khai thực hiện các chủ trương của
Đảng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Hồn cảnh lịch sử có liên quan đến sự lãnh đạo của Đảng với việc xây dựng
tổ chức và hoạt động của Hội LHPN Việt Nam trong 10 năm đầu đổi mới đất nước.
- Quá trình hiện thực hóa sự lãnh đạo của Đảng với những kết quả cụ thể
(gồm cả ưu điểm và hạn chế).
- Thời gian 10 năm đầu đổi mới đất nước (1986-1996) gắn liền hoạt động
của Hội LHPN Việt Nam với những nội dung cụ thể khác nhau 1986-19910 và
1991-1996. Năm 1986 là cột mốc cho sự đổi mới đất nước; năm 1996 đánh dấu đất
nước đã ra khỏi khủng hoảng, bắt đầu bước vào thời kỳ cơng nghiệp hóa - hiện đại
hóa.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
- Văn kiện Đảng toàn tập (từ tập 47 đến tập 54), Văn kiện các Đại hội của
Đảng để khai thác tư liệu về đường lối, chủ trương của Đảng đối với quá trình xây
dựng hệ thống tổ chức và hoạt động của Hội LHPN Việt Nam.
- Các Văn kiện Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, các báo cáo

về tình hình hoạt động của các cấp Hội phụ nữ trong từng năm (từ năm 1987 đến
năm 1996), các báo cáo sơ kết, tổng kết việc thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của
Đảng đối với công tác quần chúng (Nghị quyết 8B), công tác vận động phụ nữ trong
tình hình mới (Nghị quyết 04), công tác cán bộ nữ (Chỉ thị 37)… được lưu trữ tại
Trung tâm Thư viện Trung ương Hội LHPN Việt Nam.
- Các sách tham khảo, bài viết trong các tạp chí khoa học có liên quan về chủ
trương, chính sách của Đảng, hoạt động của Hội LHPN Việt Nam, công tác phụ
vận…

11

z


- Những cơng trình nghiên cứu về chủ trương, chính sách của Đảng, về công
tác vận động phụ nữ, về Đảng lãnh đạo tổ chức và hoạt động của mặt trận và các
đồn thể… được lưu tại Phịng lưu trữ Ban Tổ chức Trung ương, Phòng lưu trữ
Trung ương Hội LHPN Việt Nam, Phòng lưu trữ Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam, Thư
viện Quốc gia, Trung tâm Thư viện Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại
học Quốc gia Hà Nội…
5.2. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận về phụ nữ và vai trò của phụ nữ;
những lý luận về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, học thuyết Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử là chủ yếu nhằm mô tả một cách
khách quan, trung thực những chủ trương, biện pháp của Đảng và hiệu quả thực

hiện của Hội trong xây dựng và hoạt động với quan điểm “nhìn thẳng sự thật, nói rõ
sự thật và đánh giá đúng sự thật”.
Luận văn cũng sử dụng phương pháp logic để làm rõ sự hình thành, phát
triển chủ trương của Đảng và rút ra những nhận xét về ưu điểm và hạn chế, đồng
thời bước đầu tổng kết một số kinh nghiệm lịch sử Đảng lãnh đạo xây dựng và tổ
chức Hội LHPN Việt Nam.
Ngoài ra, luận văn sử dụng một số phương pháp khác như: so sánh, tổng hợp,
thống kê…
6. Những đóng góp của luận văn
Trình bày một cách tương đối đầy đủ, toàn diện các chủ trương, quan điểm
của Đảng liên quan đến tổ chức và hoạt động của Hội LHPN Việt Nam trong những

12

z


năm 1986-1996. Đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng thực sự là kim chỉ nam cho
mọi hoạt động của Hội, tạo hành lang pháp lý cho tổ chức Hội thực hiện sứ mệnh và
trách nhiệm đối với sự phát triển của phụ nữ và bình đẳng giới tại Việt Nam.
Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, luận văn thể hiện được vai trò đại diện cho
phụ nữ của Hội LHPN Việt Nam, làm nổi bật sự đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động của Hội trong 10 năm đầu đổi mới. Từ đó, đưa ra những nhận xét, đánh
giá, rút ra bài học để Đảng tiếp tục có những đường lối lãnh đạo đúng đắn đối với
Hội phụ nữ và công tác phụ vận trong những năm tiếp theo; và để thực hiện có hiệu
quả Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X “Về cơng tác phụ nữ trong thời
kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Luận văn thực sự là một cơng trình nghiên cứu khoa học, khơng chỉ có ý
nghĩa báo cáo kết quả học tập chương trình thạc sĩ của học viên, mà còn trở thành
một tài liệu tham khảo giá trị.

7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1. Lãnh đạo xây dựng tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam từ năm 1986-1991
Chương 2. Tăng cường lãnh đạo xây dựng tổ chức và hoạt động của Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam từ năm 1991-1996
Chương 3. Nhận xét và kinh nghiệm

Chương 1
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

13

z


CỦA HỘI TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 1991
1.1. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử
Với thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mùa
Xuân năm 1975, cách mạng Việt Nam chuyển sang thời kỳ mới với các đặc điểm:
từ chiến tranh chuyển sang hồ bình; từ đất nước bị chia cắt chuyển sang độc lập,
thống nhất; từ hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và
đấu tranh giải phóng miền Nam chuyển sang nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi cả nước và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Việt Nam đã đánh thắng
đế quốc Mỹ - một đế quốc có thế lực kinh tế, quân sự lớn mạnh nhất thế giới. Một
kỷ nguyên phát triển rực rỡ của cách mạng Việt Nam được mở ra: Kỷ nguyên cả
nước độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sau chiến thắng, thế và lực của cách mạng Việt Nam lớn mạnh vượt bậc.

Khối đại đoàn kết dân tộc do Đảng lãnh đạo được tăng cường trên cơ sở nhất trí về
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Khí thế cách mạng của quần chúng
nhân dân lên cao; chính quyền nhân dân được xây dựng và củng cố vững mạnh. Đất
nước thống nhất, những nguồn lực vật chất để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có điều
kiện phát huy tối đa. Việt Nam có nguồn tài nguyên phong phú, nguồn lao động dồi
dào; người Việt Nam cần cù, thông minh. Đảng và nhân dân Việt Nam đúc kết được
những kinh nghiệm quý báu từ quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam được bầu bạn năm châu
đồng tình ủng hộ, nhận được sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần..
Bên cạnh những thuận lợi đó, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt
Nam cũng đứng trước những khó khăn to lớn. Cơ sở xuất phát của đất nước là một
nền kinh tế nghèo nàn, lực lượng sản xuất rất thấp, trong xã hội còn nhiều yếu tố
phức tạp do quá khứ và do chủ nghĩa thực dân mới để lại. Cơ sở vật chất - kỹ thuật

14

z


lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Tuyệt đại bộ phận lao động là thủ công,
năng suất thấp. Đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Điều kiện quốc tế của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam cũng có những trở ngại không nhỏ. Nguồn viện trợ từ Liên Xô và
các nước bị cắt giảm. Trong các nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện những mâu thuẫn
gây ảnh hưởng cho sự phát triển quan hệ của Việt Nam. Mỹ và nhiều nước tư bản
phương Tây tiến hành bao vây cấm vận đối với kinh tế Việt Nam, cơ hội tiếp cận
nguồn vốn, khoa học kỹ thuật từ các nước tư bản phát triển bị hạn chế. Khu vực
biên giới phía Bắc và biên giới phía Tây - Nam mất ổn định, các thế lực thù địch
chống phá, gây rối. Quan hệ của Việt Nam với các nước trong khu vực trở nên bất
bình thường.

Vượt lên tất cả những khó khăn đó, nhân dân Việt Nam ra sức phấn đấu xây
dựng đất nước đạt được nhiều thành tựu. Nhiều vấn đề cấp bách về kinh tế - xã hội
đã được giải quyết kịp thời, những hậu quả nặng nề của chiến tranh từng bước được
khắc phục. Đời sống nhân dân dần dần có sự ổn định.
Tuy nhiên, đến đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, tình hình trong nước và
quốc tế tiếp tục có nhiều biến đổi phức tạp. Vì nhiều lý do chủ quan, khách quan
khác nhau, đất nước vẫn còn đứng trước nhiều vấn đề gay gắt. Chưa thu hẹp được
những mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế quốc dân. Sản xuất phát triển chậm
trong khi dân số tăng nhanh. Thu nhập quốc dân chưa đảm bảo được tiêu dùng xã
hội. Số lao động thất nghiệp đơng. Đời sống nhân dân lao động cịn nhiều khó khăn,
nhiều tệ nạn xã hội mới phát sinh, một bộ phận dân chúng sa sút niềm tin, có lối
sống thực dụng, các thế lực phản động ln tìm cơ hội chống phá cách mạng Việt
Nam. Thực trạng kinh tế - xã hội phức tạp đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải có
những quyết sách xoay chuyển tình hình, tạo ra một bước ngoặt cho sự phát triển.
Trước tình hình đó, Đảng và nhân dân Việt Nam khơng cịn sự lựa chọn nào
khác là phải đổi mới toàn diện đất nước, nhằm tạo nên sự bứt phá về kinh tế - xã
hội, xây dựng chủ nghĩa xã hội có hiệu quả hơn.

15

z


Với hoàn cảnh của đất nước vào thập niên 1980, đời sống của các tầng lớp
phụ nữ cũng rơi vào tình trạng vơ cùng khó khăn: một bộ phận đáng kể phụ nữ
khơng có hoặc khơng đủ việc làm, thu nhập thấp, nhiều chị em phải làm việc trong
điều kiện vất vả, độc hại, sức khỏe giảm sút; phụ nữ bị phân biệt đối xử, là nạn nhân
của các tệ nạn xã hội; một bộ phận phụ nữ giảm sút niềm tin, sa vào lối sống thực
dụng… Trong các tầng lớp phụ nữ nổi lên tâm tư lo lắng, bất bình, yêu cầu Đảng,
Nhà nước, các cấp, các ngành quan tâm giải quyết các vấn đề cấp bách, đặc biệt liên

quan đến phụ nữ, trẻ em là: Việc làm và đời sống, dân chủ và công bằng xã hội, an
ninh và tệ nạn xã hội…
Phong trào phụ nữ và các hoạt động của Hội phụ nữ vì thế cũng gặp khơng ít
khó khăn, thách thức. Nhiệm vụ của Hội LHPN Việt Nam rất nặng nề trong khi
điều kiện hoạt động của Hội còn nhiều hạn chế. Cán bộ, hội viên, Đảng bộ và chính
quyền các cấp… chưa nhận thức đúng chức năng của Hội. Tổ chức bộ máy và biên
chế của Hội chưa hợp lý, hoạt động kém hiệu quả. Tổ chức cơ sở Hội chưa phù hợp
với nhiệm vụ và u cầu của đơng đảo phụ nữ. Trình độ năng lực của đội ngũ cán
bộ Hội chưa đáp ứng yêu cầu… Phong trào “Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc” được triển khai từ năm 1978 về nhiều mặt khơng cịn phù hợp; các hoạt
động của Hội chủ yếu tập trung huy động, vận động lực lượng phụ nữ thực hiện các
nghĩa vụ với xã hội, với đất nước.., mới chỉ chú trọng động viên phụ nữ vượt khó
khăn thực hiện nghĩa vụ người cơng dân, người vợ, người mẹ… mà chưa quan tâm
chăm lo lợi ích thiết thực cho phụ nữ, phát huy quyền làm chủ và nâng cao trình độ
của phụ nữ; trong tư tưởng chỉ đạo, có nơi, có lúc cịn thõa mãn về thành tựu giải
phóng phụ nữ trong lĩnh vực chính trị, chưa nhận thức đầy đủ yêu cầu, nội dung giải
phóng phụ nữ về kinh tế - xã hội; một số cấp ủy Đảng vẫn coi công tác phụ nữ là
việc riêng của Hội LHPN Việt Nam.
Trước những biến đổi mạnh mẽ của tình hình trong nước và quốc tế, để phát
huy vai trị, sự đóng góp của các tầng lớp phụ nữ mà Hội LHPN các cấp làm nòng
cốt, phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vào sự nghiệp đổi mới của

16

z


đất nước, đồng thời thực hiện tốt hơn chức năng đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và
lợi ích chính đáng của phụ nữ, Đảng cần có những chủ trương đúng đắn nhằm đổi
mới nội dung và phương thức hoạt động của Hội LHPN Việt Nam, nhằm phát huy

có hiệu quả vai trò của tổ chức Hội trong vận động, tập hợp các tầng lớp phụ nữ tích
cực tham gia cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước.
1.1.2. Chủ trương của Đảng
Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam được gọi là Đại hội
đổi mới, với mục tiêu khai thác mọi tiềm năng của đất nước, giải phóng năng lực
sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phát huy
yếu tố con người. Con người được coi là mục tiêu và động lực phát triển xã hội.
Đại hội VI của Đảng đánh dấu một bước ngoặt rất cơ bản và có ý nghĩa
quyết định trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, với việc đề ra
đường lối đổi mới toàn diện đất nước - từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức, cán
bộ, phương thức lãnh đạo và phong cách của Đảng, từ đổi mới kinh tế đến đổi mới
hệ thống chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Cùng với q trình đổi mới tồn diện đất nước, quan điểm về đổi mới công
tác quần chúng, công tác mặt trận và các đoàn thể nhân dân được thể hiện rất rõ
trong Văn kiện Đại hội Đảng, Chỉ thị, Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương,
Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VI của Đảng đem lại
luồng sinh khí mới trong xã hội, làm xoay chuyển tình hình, đưa đất nước tiến lên.
Đại hội khẳng định: “Toàn Đảng, toàn dân và tồn qn ta đồn kết một
lịng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [9, tr.371].
“Thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc phải được bảo đảm bằng sức mạnh
tổng hợp của chế độ mới. Trong khi không ngừng chăm lo nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc, Đảng và nhân dân ta tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa

17

z



xã hội, xây dựng chế độ làm chủ tập thể, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới và con
người mới xã hội chủ nghĩa” [9, tr. 373].
Đại hội lần thứ VI xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của
những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh cơng nghiệp
hố xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo.
Xuất phát từ nhiệm vụ bao trùm và mục tiêu tổng quát, Đại hội đánh giá cao
vai trò phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp chung của đất nước. Phụ nữ tất cả các cấp,
các ngành cần thấm nhuần sâu sắc ba quan điểm cơ bản:
Thứ nhất, phụ nữ Việt Nam có truyền thống lịch sử vẻ vang, có những tiềm
năng to lớn, là một động lực quan trọng của công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế
xã hội. Phụ nữ vừa là người lao động, vừa là người mẹ, người thầy đầu tiên của con
người… Phải xem giải phóng phụ nữ là một mục tiêu và nội dung quan trọng của
công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Thứ hai, mục tiêu giải phóng phụ nữ là thiết thực cải thiện đời sống vật chất
và tinh thần của chị em, nâng cao vị trí xã hội của phụ nữ, thực hiện tốt nam nữ bình
đẳng, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Xây dựng người phụ
nữ Việt Nam có sức khoẻ, có kiến thức, năng động, sáng tạo, biết làm giàu chính
đáng, quan tâm đến lợi ích xã hội và cộng đồng, có lịng nhân hậu.
Thứ ba, sự nghiệp giải phóng phụ nữ và công tác phụ nữ là trách nhiệm của
Đảng và các đoàn thể nhân dân, của toàn xã hội và từng gia đình; đường lối giải
phóng phụ nữ phải được thể chế hoá và cụ thể hoá trong hệ thống pháp luật, chế độ,
chính sách của Đảng và Nhà nước; Hội LHPN Việt Nam là tổ chức đại diện cho lợi
ích phụ nữ, là trung tâm tập hợp đoàn kết phụ nữ Việt Nam hướng dẫn và vận động
chị em phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ, vì sự phát triển và hạnh phúc của
phụ nữ, vì sự nghiệp đổi mới thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.

18

z



Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
tại Đại hội VI (15/12/1986) khẳng định: “Phụ nữ nói chung, và lao động nữ nói
riêng, có những đặc điểm cần được chú ý. Để phát huy vai trò to lớn của phụ nữ
trong sự nghiệp cách mạng, cần làm cho đường lối vận động phụ nữ của Đảng
được thấu suốt trong cả hệ thống chuyên chính vơ sản, được cụ thể hố thành chính
sách, luật pháp. Các cơ quan nhà nước, với sự phối hợp của các đồn thể, cần có
biện pháp thiết thực tạo thêm việc làm, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nữ, chăm sóc
sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, thực hiện đúng Luật hơn nhân và gia đình. Tạo điều kiện
cho phụ nữ kết hợp được nghĩa vụ công dân với chức năng làm mẹ, xây dựng gia
đình hạnh phúc” [9, tr. 450].
Báo cáo chính trị nhấn mạnh vai trị của tổ chức Hội phụ nữ trong việc vận
động nhân dân phát triển sản xuất, làm kinh tế gia đình, tổ chức phân phối lưu
thơng, dịch vụ, hoạt động văn hố, giáo dục, bảo vệ sức khoẻ và môi trường, giữ gìn
trật tự, an tồn xã hội. Hội LHPN có vai trò to lớn trong việc động viên các tầng lớp
nhân dân tham gia xây dựng, quản lý kinh tế và quản lý xã hội. “Các cấp uỷ đảng
phải lãnh đạo chặt chẽ các đoàn thể, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của từng
đoàn thể mà đề ra nhiệm vụ, mục tiêu hành động và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ các đồn thể… Cấp uỷ đảng phải tơn trọng tính độc lập về tổ chức của các đồn
thể, khuyến khích tính chủ động, sáng tạo trong việc thực hiện các nhiệm vụ cách
mạng. Các đoàn thể cũng phải mau chóng đổi mới nội dung và phương thức hoạt
động của mình cho phù hợp với những cuộc cải cách về quản lý kinh tế, xã hội.
Hoạt động đoàn thể phải chuyển mạnh về cơ sở, thu hút đông đảo quần chúng vào
các phong trào cách mạng” [9, tr. 448-449].
Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, Bộ Chính trị ra Nghị
quyết số 04-NQ/TW ngày 12/9/1987 về cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao
sức chiến đấu của tổ chức đảng và bộ máy nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã
hội. Một trong những yêu cầu của cuộc vận động là “Kiện toàn tổ chức đảng, bộ
máy nhà nước, các đoàn thể quần chúng theo tinh thần: đổi mới tư duy, nhất là tư


19

z


duy kinh tế, đổi mới tổ chức và cán bộ, đổi mới phong cách làm việc, từ đó mà nâng
cao sức chiến đấu và hiệu lực của các tổ chức. Làm tốt việc xây dựng quy hoạch cán
bộ, trước hết là kiện toàn đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt, các cấp, các ngành từ
Trung ương đến cơ sở. Làm tốt công tác đào tạo, giáo dục cán bộ, đảng viên…
Trong quá trình cuộc vận động, cần đưa cán bộ, đảng viên vào cuộc chiến đấu thực
hiện Nghị quyết của Đảng, đấu tranh chống tiêu cực, qua đó giáo dục, rèn luyện đội
ngũ cán bộ, đảng viên, biểu dương những người tích cực, đề bạt những cán bộ có
phẩm chất và năng lực, năng động, sáng tạo, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, kết
nạp những người tiên tiến có đủ tiêu chuẩn vào Đảng” [10, tr.392]. Trên cơ sở đó,
Bộ Chính trị u cầu các ban Đảng, các đồn thể quần chúng thanh niên, cơng đồn,
phụ nữ… phải phối hợp chặt chẽ giúp Ban Bí thư trong việc chỉ đạo cuộc vận động.
Bước sang năm 1988, công cuộc cải tổ, cải cách ở Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu ngày càng chao đảo. Việc thực hiện đa nguyên về chính
trị, đa đảng đối lập, phủ nhận sạch trơn quá khứ cách mạng; chĩa mũi nhọn phê
phán vào Đảng Cộng sản, vào chủ nghĩa Mác - Lênin, gieo rắc những tư tưởng hoài
nghi, bi quan, dao động với chủ nghĩa xã hội đem đến những hậu quả vơ cùng tai
hại. Trong bối cảnh đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết 05-NQ/TW
ngày 20/6/1988 về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng, bảo đảm thực hiện
Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng. Nghị quyết nhấn mạnh “phải tăng cường
công tác tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi
mới”. Trước tiên, phải “làm rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ và lề lối làm
việc giữa các cơ quan đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế và các đoàn thể quần
chúng… Các đoàn thể quần chúng định rõ chức năng, nhiệm vụ, đổi mới nội dung
và phương thức hoat động của mình, sắp xếp lại bộ máy, giảm biên chế cán bộ

chuyên trách, tăng cường hoạt động kiêm nhiệm, hướng về cơ sở, khắc phục bệnh
hành chính hóa, quan liêu hóa” [11, tr. 271-273].
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá VI (3/1989) đề
cập đến sáu nguyên tắc đổi mới, đặc biệt nhấn mạnh: Đổi mới không phải là thay

20

z


đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là nhận thức đúng hơn và có phương pháp phù
hợp hơn để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; phải giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên
định nguyên tắc tập trung dân chủ, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng
đối lập.
Kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, Bộ
Chính trị khẳng định “phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trên cơ sở đó đổi mới tổ
chức và phương thức hoạt động của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng
là vấn đề then chốt trong việc nâng cao hiệu lực hoạt động của hệ thống chính trị”.
Đối với các đồn thể quần chúng, Bộ Chính trị nhấn mạnh: “Bằng công tác tổ chức
và vận động quần chúng sâu rộng, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức xã hội
đại diện cho quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân, hỗ trợ đắc lực và hậu thuẫn
cho hoạt động của Đảng và công tác quản lý của Nhà nước. Các cấp ủy Đảng phải
đổi mới phương thức lãnh đạo các đoàn thể quần chúng, tạo mọi điều kiện để mỗi
đồn thể phát huy tính chủ động, sáng tạo trong hoạt động của mình. Thể chế hóa
quyền hạn và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể trong việc tham gia
quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Định ra và thực hiện các quy chế phối hợp sự hoạt
động của các đoàn thể và các cơ quan nhà nước từ trung ương đến các địa phương
cơ sở. Với chức năng vận động và tổ chức quần chúng, các đoàn thể đổi mới
phương thức hoạt động để sát với quần chúng, với hội viên. Nội dung và hình thức

vận động gắn chặt với nguyện vọng, lợi ích và điều kiện sinh hoạt của hội viên. Tổ
chức bộ máy của mỗi đoàn thể rất gọn, khơng cần nhiều cán bộ chun trách. Bỏ
những hình thức tổ chức và hoạt động làm cho đoàn thể trở nên hành chính hóa, xa
quần chúng, khơng gắn với hội viên” [11, tr.544-549].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI
(ngày 27/3/1990) nhấn mạnh: “Nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta lúc này là phải
đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới theo Nghị quyết Đại hội VI của Đảng và các
nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, củng cố và phát triển

21

z


những thắng lợi đã đạt được, kiên quyết khắc phục những khuyết điểm, kịp thời giải
quyết những vấn đề cấp bách, làm cho công cuộc xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã
hội của nhân dân ta thu được những thành tựu ngày càng lớn” [12, tr. 72].
Nghị quyết cũng khẳng định: “Đường lối đổi mới do Nghị quyết Đại hội lần
thứ VI của Đảng đề ra được nhân dân đồng tình và ủng hộ đã đem lại những kết quả
bước đầu quan trọng về nhiều mặt”…; “Công tác quần chúng khơng chỉ là trách
nhiệm của các đồn thể, mà còn là trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống
chính trị, có phối hợp với nhau dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Trong đó, “Tổng Liên
đồn Lao động Việt Nam, Hội Nơng dân Việt Nam, Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam… là những đồn thể chính trị - xã hội
của các giai cấp và tầng lớp nhân dân do Đảng lãnh đạo, là người đại diện, bảo vệ
lợi ích và quyền làm chủ của nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, là trường học
xã hội chủ nghĩa của đoàn viên, hội viên và là nòng cốt của phong trào cách mạng
quần chúng” [12, tr. 84-86].
Sau ba năm thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội lần thứ VI của Đảng đề
ra, Việt Nam đạt được những thành tựu quan trọng về kinh tế và xã hội. Tình hình

chính trị ổn định. Đời sống của một bộ phận nhân dân được cải thiện tạo niềm phấn
khởi và tin tưởng trong nhân dân. Sự đổi mới một bước về tổ chức hoạt động của
Đảng, chính quyền và các đồn thể đã khơi dậy tính tích cực, sáng tạo của nhân dân.
Tuy nhiên, công tác quần chúng của Đảng vẫn chưa được đổi mới một cách căn
bản. Mặt khác, cuộc khủng hoảng toàn diện của các nước xã hội chủ nghĩa Đơng Âu
và Liên Xơ, cùng với những khó khăn mà Việt Nam phải trải qua đã tác động sâu
sắc đến tư tưởng, tình cảm, tâm trạng và lịng tin của các tầng lớp nhân dân, trong
đó có phụ nữ. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VI) thơng qua Nghị quyết 8B-NQ/HNTW “Về đổi mới công tác quần
chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”. Nghị quyết chỉ
rõ: “Đảng cần hướng dẫn sự đổi mới nội dung hoạt động của các đoàn thể và tổ
chức quần chúng vào việc đoàn kết đoàn viên, hội viên cùng nhau chăm lo lợi ích

22

z


thiết thực của mình và góp phần vào sự nghiệp chung của đất nước, xây dựng và
bảo vệ chính quyền cách mạng. Từ việc đáp ứng lợi ích thiết thực về vật chất và
tinh thần, bảo vệ những quyền lợi chính đáng của quần chúng mà tạo nên sự gắn bó
trong tổ chức, nâng cao lịng u nước, u chủ nghĩa xã hội và trình độ mọi mặt
của đồn viên, hội viên, động viên mọi người làm tròn nghĩa vụ đối với đất nước”
[12, tr.86].
“Các đoàn thể đổi mới xây dựng tổ chức theo hướng coi trọng chất lượng,
không chạy theo số lượng, tích cực xây dựng cơ sở vững mạnh, thu hẹp diện yếu
kém… Cán bộ của đoàn thể phải được lựa chọn từ những người ưu tú trong phong
trào, có năng lực và có uy tín đối với quần chúng. Cần tích cực tinh giản bộ máy cán
bộ chuyên trách của đoàn thể, coi trọng sử dụng cán bộ khơng chun trách. Cán bộ
đồn thể ở các cấp trên cần dành nhiều thời gian đi sát cơ sở, thực hiện chế độ luân

phiên làm việc ở cơ sở dài ngày. Khuyến khích cán bộ chun trách về cơng tác hẳn
ở cơ sở. Chăm lo đời sống và bảo đảm điều kiện hoạt động của cán bộ đoàn thể.
Các cấp trên cần hết sức giúp đỡ cơ sở, chú ý đào tạo, bồi dưỡng, chăm sóc cán bộ
cơ sở của các đồn thể” [12, tr.87].
Tiếp đó, Chỉ thị số 62-CT/TW ngày 25/6/1990 của Ban Bí thư về việc thực
hiện Nghị quyết Trung ương tám “Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân” ở cơ sở cũng nêu rõ: “Các đoàn thể
quần chúng ở cơ sở định rõ chức năng, cải tiến phương thức hoạt động, đề ra nhiệm
vụ của tổ chức mình để đem lại lợi ích thiết thực cho đoàn viên, hội viên” [12, tr.
165].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991) tiếp tục khẳng định
quyết tâm đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, đưa đất nước vượt qua những thử
thách, đi dần vào thế ổn định và phát triển năng động, vững chắc. Trong đó, xác
định: “Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể nhân dân cần được đổi mới về tổ chức và
hoạt động để thực sự góp phần thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội, chăm lo và bảo
vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; tham gia các công việc quản lý nhà nước; giữ

23

z


vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân.
Các đồn thể có nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng và đạo đức mới, động viên,
phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp nhân dân, đoàn kết toàn dân, phấn đấu
cho sự thành cơng của cơng cuộc đổi mới.
“Hình thức tổ chức và sinh hoạt của đoàn thể phải đa dạng, đáp ứng nhu cầu
chính đáng về nghề nghiệp và đời sống nhân dân, ích nước lợi nhà, tương thân
tương ái; thành lập và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ dưới sự lãnh đạo
của Đảng và tuân theo pháp luật của Nhà nước, hướng về cơ sở, sát với đồn viên,

hội viên. Khắc phục tình trạng nhà nước hố, hành chính hố.
“Bộ máy của các đồn thể phải gọn nhẹ, hoạt động đúng với tính chất tổ
chức quần chúng. Cán bộ của các đoàn thể đại bộ phận không chuyên trách, được
lựa chọn từ những người ưu tú trong phong trào, có năng lực, phẩm chất và có tín
nhiệm với đồn viên, hội viên” [51, tr. 118].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được Đại hội lần thứ VII của Đảng thông qua, nêu rõ: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng
Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương cơng tác; bằng
cơng tác tun truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động
gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và
phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đồn thể”
[13, tr. 147].
Cương lĩnh nhấn mạnh: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân
có vai trị rất quan trọng trong sự nghiệp đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, chăm lo lợi ích của các đồn viên, hội viên, thực hiện dân chủ và đổi mới xã
hội, giáo dục lý tuởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, thắt chặt
mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
“Các đoàn thể nhân dân tuỳ theo tính chất, tơn chỉ và mục đích đã xác định,
vừa vận động đoàn viên, hội viên giúp nhau chăm lo, bảo vệ các lợi ích thiết thực;

24

z


vừa giáo dục nâng cao trình độ mọi mặt cho đoàn viên, hội viên; vừa tham gia quản
lý nhà nước, quản lý xã hội” [13, tr.146].
Đảng Cộng sản Việt Nam ln nhấn mạnh vị trí, vai trị của Hội LHPN Việt
Nam là một trong những đồn thể chính trị - xã hội do Đảng lãnh đạo, là người đại
diện, bảo vệ lợi ích và quyền làm chủ của phụ nữ tham gia quản lý Nhà nước, là

trường học xã hội chủ nghĩa của hội viên và là nòng cốt của phong trào phụ nữ.
Điều 45 Điều lệ Đảng khẳng định: “Đảng không ngừng củng cố và tăng cường sự
lãnh đạo của mình đối với các đồn thể và tổ chức quần chúng bằng cách làm cho
đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước được
quán triệt và biến thành hành động tự giác của quần chúng, thông qua công tác
giáo dục, tuyên truyền, vận động, thuyết phục của cán bộ, đảng viên trong các tổ
chức đó. Đảng thường xuyên chỉ rõ cho các tổ chức quần chúng những yêu cầu,
nhiệm vụ và những công tác quan trọng cần vận động quần chúng thực hiện trong
từng thời gian; không ngừng làm cho các tổ chức đảng và tổ chức nhà nước tôn
trọng và biết phát huy tính tích cực, tính chủ động và sáng tạo của các tổ chức quần
chúng; tổ chức cho quần chúng tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và
quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước” [4, tr. 8].
Đường lối đúng đắn của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với quá trình xây
dựng tổ chức và hoạt động của Hội LHPN Việt Nam. Mặc dù trong những năm đầu
đổi mới (986-1991), những chủ trương của Đảng có liên quan đến xây dựng tổ chức
và hoạt động của Hội LHPN Việt Nam chỉ được đề cập chung chung, gắn liền với
việc lãnh đạo Mặt trận và các đoàn thể, nhưng đã được Hội thực hiện có hiệu quả.

1.2. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam hiện thực hóa chủ trương của Đảng
1.2.1. Xây dựng tổ chức Hội LHPN Việt Nam

25

z


×